Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới theo Bộ luật dân sự 2015
lượt xem 9
download
Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới; Quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới; Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới và một số kiến nghị hoàn thiện.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới theo Bộ luật dân sự 2015
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- HUỲNH PHƯƠNG THẢO TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CHỦ SỞ HỮU PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG VẬN TẢI CƠ GIỚI THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- HUỲNH PHƯƠNG THẢO TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CHỦ SỞ HỮU PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG VẬN TẢI CƠ GIỚI THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ Hà Nội, năm 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, nhu cầu di chuyển, sử dụng những phương tiện giao thông vận tải của con người ngày càng nhiều mà chính yếu là nhu cầu đi lại, nhu cầu này đòi hỏi sự thuận tiện, tốc độ và không tốn sức. Chính vì thế các phương tiện giao thông vận tải cơ giới ngày càng được cải tiến, được sản xuất càng nhiều để phục vụ những nhu cầu thiết yếu của con người. Đi cùng với sự phát triển đó thì nhận thức của con người về việc chiếm hữu, sử dụng chúng ngày càng phát sinh nhiều vấn đề và trong quá trình sử dụng, điều khiển các phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Lúc đó trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh và đòi hỏi ai là người phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp đó? Chủ sở hữu hay người chiếm hữu, sử dụng phương tiện giao thông vận tải? Sau khi xác định được chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì phải xác minh các điều kiện để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, loại thiệt hại phải bồi thường, mức thiệt hại phải bồi thường như thế nào? Rất nhiều vấn đề phát sinh khi phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra thiệt hại. Qua đó phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới, trường hợp nào chủ sở hữu phải bồi thường khi phương tiện của mình gây ra thiệt hại, trường hợp nào được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Xem xét trên thực tiễn, việc vận dụng các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện được xem xét như thế nào trong một số vụ tai nạn giao thông đường bộ, hạn chế, bất cập gì để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới mục đích cuối cùng là để góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của các bên bao gồm chủ sở hữu phương tiện, người bị thiệt hại trong một vụ việc do phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe của con người. Từ những lập luận trên, tác giả lựa chọn đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới theo bộ luật dân sự 2015” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình. 1
- 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ nói riêng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu pháp luật quan tâm nhưng vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới theo bộ luật dân sự 2015 vẫn chưa được nhiều công trình khoa học nghiên cứu. Mặc dù chưa có công trình riêng nhưng đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu những vấn đề liên quan về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hoặc những vấn đề gần gũi như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ và có những phân tích liên quan đến trách nhiệm của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới. Nhóm các khóa luận, luận văn: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm này có: - Hoàng Văn Cán (2015), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ - Qua thực tiễn xét xử tại tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ. - Lê Đình Thắng (2018), Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo Bộ luật dân sự 2015, Luận văn thạc sĩ. - Lê Văn Châu (2010), Vấn đề lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Luận văn thạc sĩ. - Nguyễn Ngọc Đại (2016), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ. - Nguyễn Thị Thanh Nga (2018), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ. - Phạm Thị Phương Anh (2009), Cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sản phẩm có khuyết tật, Luận văn thạc sĩ. - Trần Trà Giang (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, Luận văn thạc sĩ. 2
- Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: Trong nhóm này có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: - Đỗ Văn Đại (2016), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Sách chuyên khảo, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam; - Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, NXB. Công an nhân dân; - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Dân sự, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm này có: - Hồ Quân – Đình Thắng (2018), Những điểm mới về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, https://kiemsat.vn/nhung-diem-moi-ve-boi-thuong-thiet-hai-ngoai hopdong49869.html. - Nguyễn Văn Dũng – Phó Chánh án TAND thành phố Tam Kỳ(2018), Bàn về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015, http://toaantamky.gov.vn/ban-ve-che-dinh-trach-nhiem-boi-thuong- thiet-hai-ngoai-hop-dong-quy-dinh-tai-bo-luat-dan-su-nam-2015.html. - ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao- doi.aspx?ItemID=2426. - ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/trach-nhiem-boi- thuong-thiet-hai-do-nguon-nguy-hiem-cao-do-gay-ra. - ThS. Ngô Thu Trang (2019), Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/vuong- mac-trong ap-dung-phap-luat-ve-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong. - TS Lê Đình Nghị (2008), Bàn về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, Tạp chí Nghề luật số 6/2008. 3
- Những công trình nghiên cứu đã được liệt kê tập trung vào một số nội dung chủ yếu về phân tích pháp lý về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ thể nào phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chi tiết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới. Những công trình liên quan chỉ nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Mặc dù phương tiện giao thông vận tải cơ giới là một trong những nguồn nguy hiểm cao độ, khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thì phải xem xét đến quy định chung về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng sau đó vẫn phải xem xét đến yếu tố riêng biệt của phương tiện giao thông vận tải bởi lẽ phương tiện giao thông vận tải nào cũng có chủ sở hữu, khi có phát sinh vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại do phương tiện gây ra thì trước tiên phải xem xét đến chủ thể sở hữu có trách nhiệm liên quan hay không, nếu có thì liên quan như thế nào để từ đó xác định trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu chứ không phải trong mọi trường hợp phương tiện của mình gây ra thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường. Chính vì thế tác giả chọn đề tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới theo Bộ luật dân sự 2015 để qua đó có thể nghiên cứu thêm về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hơn trách nhiệm của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới, cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường, thực tiễn giải quyết vụ việc của Tòa án về trách nhiệm của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải, đưa ra một số kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện pháp luật về vấn đề nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu để làm rõ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới, phân tích quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới, nêu một số ví dụ cụ thể để cho thấy thực tiễn thực hiện pháp luật về 4
- bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới qua đó tìm ra một số hạn chế, bất cập và vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ. Từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới, đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm rõ khái niệm, đặc điểm, của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, khái niệm và đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới qua đó phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới; - Phân tích một số quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới; - Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới và một số kiến nghị hoàn thiện; 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới theo quy định BLDS 2015. Từ đó phân tích khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới, cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới. Qua cơ sở lý thuyết, liên hệ thực tiễn thực hiện pháp luật, nguyên nhân dẫn đến những điểm bất hợp lý của pháp luật, đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới theo quy định BLDS 2015, trong đó làm rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ với những nội dung chính như sau: 5
- Một là, nghiên cứu các vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới thông qua các nhóm tài liệu nghiên cứu trong các luận văn, luận án, giáo trình, sách chuyên khảo, bài báo, tạp chí. Hai là, làm rõ những quy định của pháp luật dân sự hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới thông qua Bộ luật dân sự 2015, các văn bản pháp lý có liên quan như Nghị quyết về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ba là, tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về việc bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ ở Việt Nam hiện nay thông qua những cơ quan giải quyết khi xảy ra tai nạn giao thông đường bộ như cơ quan công an, Viện kiểm sát; thực tiễn xét xử của Tòa án trên lãnh thổ Việt Nam khi người bị hại nộp đơn yêu cầu Toàn án giải quyết các vấn đề về bồi thường thiệt hại để từ đó làm cơ sở so sánh việc áp dụng pháp luật của các cơ quan công quyền. Bốn là, từ thực tiễn đã phân tích, từ những tài liệu đã nghiên cứu, tác giả tìm ra những bất cập rồi từ đó dựa trên những bất cập đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, lý luận Nhà nước và pháp luật và những quan điểm của Đảng trong quá trình phát triển và đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, để hoàn thành đề tài luận văn tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của luận văn để phân tích các khái niệm, phân tích quy định của pháp luật, các vụ án được xét xử trên thực tế có bản án của Tòa án,… 6
- - Phương pháp so sánh, đối chiếu: Được sử dụng trong luận văn để phân tích lịch sử sự phát triển quy định pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới. - Phương pháp phỏng đoán khoa học được sử dụng chủ yếu trong Chương 3 để đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần cung cấp cho khoa học pháp lý những nền tảng lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới. Đề tài sẽ là một tài liệu khoa học hữu ích cho công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật dân sự. Đối với các cơ quan nhà nước, kết quả của đề tài này có thể sử dụng để tham khảo trong quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới tại Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới. Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới. Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới và một số kiến nghị hoàn thiện. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CHỦ PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG VẬN TẢI CƠ GIỚI 1.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Trong đời sống hàng ngày thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân; tài sản, danh dự, nhân phẩm của các tổ chức có thể xảy ra dưới nhiều tác động khác nhau, mà những tác động đó nằm ngoài những ràng buộc giữa hai bên hay còn có thể nói nằm ngoài hợp đồng giữa hai bên. Nó có thể là những tác động khác quan hoặc là những tác động do các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân mang lại. Nhằm ngăn chặn, khắc phục những thiệt hại, hậu quả xảy ra, Nhà nước đưa ra những quy định pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Theo qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được qui định tại Khoản 1, Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Như vậy một người gây thiệt hại cho người khác thì giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại phát sinh một quan hệ pháp luật, trong đó người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường, còn bên gây thiệt hại thì có nghĩa vụ phải bồi thường những thiệt hại đã gây ra. Quan hệ pháp luật đó gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý, có tính cưỡng chế của nhà nước buộc người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường, là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại mà giữa người gây thiệt hại với người bị thiệt hại không có quan hệ hợp đồng hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc nội dung thực hiện hợp đồng. Căn cứ tại Điều 584 BLDS 2015 thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi có đủ điều kiện do pháp luật quy định, các điều kiện đó là: 8
- có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây ra thiệt hại (trong đó hành vi có thể có lỗi, có thể không có lỗi). Hậu quả: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Khi một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác thì thiệt hại đó được tính toán rõ ràng, cụ thể nếu không sẽ không thực hiện được việc bồi thường, vì thế cho dù thiệt hại là tinh thần hay vật chất thì thiệt hại đó cũng được pháp luật qui định cụ thể để bù đắp tổn thất cho người bị thiệt hại. Vì vậy, việc thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục một phần hay toàn bộ thiệt hại đã xảy ra cho người bị thiệt hại. Chủ thể bị áp dụng: Là người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại; là cha, là mẹ người chưa thành niên gây thiệt hại, là người giám hộ, là pháp nhân của người của pháp nhân gây thiệt hại... Như vậy, có thể nói “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết”. [1,trang 436] 1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm phát sinh dưới tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật, khi có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại. Là loại trách nhiệm dân sự phát sinh bên ngoài và không phụ thuộc vào hợp đồng, có các đặc điểm đặc trưng như sau: Thứ nhất, trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm dân sự, chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự và phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do pháp luật dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS và các văn bản hướng dẫn thi hành, không thể phát sinh trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên như BTTH trong hợp đồng. Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: phải có thiệt hại xảy ra trên thực tế: Thiệt hại đó gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn 9
- thất tinh thần; có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động trái với các quy định của pháp luật, xâm phạm tới các lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần của chủ thể khác được pháp luật bảo vệ; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra: Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại; phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại, ngoài ra pháp luật quy định trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi vẫn phải bồi thường chịu trách nhiệm bồi thường. Thứ ba, ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề… Thứ tư, đặc điểm để phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với các trách nhiệm bồi thường thiệt hại khác là giữa người bị thiệt hại và người gây ra thiệt hại không có việc giao kết hợp đồng hoặc có hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi thực hiện hợp đồng. Ngoài ra mức bồi thường cũng được xem xét bởi lẽ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. 1.2. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới 1.2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới 1.2.1.1. Khái niệm phương tiện giao thông vận tải cơ giới Nói đến chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới, trước tiên phải làm rõ khái niệm phương tiện giao thông vận tải cơ giới. Bởi vì khi xác định được công cụ, phương tiện gây ra thiệt hại thì từ đó 10
- mới có cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai, người nào, là chủ sở hữu hay người chiếm hữu, sử dụng phương tiện giao thông vận tải cơ giới. Đối với khái niệm phương tiện vận tải cơ giới, tại khoản 1 điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 chỉ mới đề cập phương tiện vận tải cơ giới là một trong số các nguồn nguy hiểm cao độ và cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào đưa ra nội dung hoàn chỉnh về khái niệm “phương tiện giao thông vận tải cơ giới”. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hình dung được phương tiện giao thông vận tải cơ giới bao gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường sắt, phương tiện giao thông cơ giới đường thủy hoặc phương tiện giao thông cơ giới đường hàng không. Nhưng liệu có phải tất cả các phương tiện giao thông vận tải cơ giới đều được coi là nguồn nguy hiểm cao độ? Pháp luật nước ta vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên để xác định những phương tiện giao thông cơ giới nào là nguồn nguy hiểm cao độ cần dựa trên các quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật có liên quan khác như Luật Giao thông đường bộ 2008. Luật Giao thông đường bộ năm 2008 tại Khoản 17 Điều 3 quy định phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ. Theo đó tại Khoản 18 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và điểm b, mục 1, phần III Nghị quyết 03/2006 quy định: Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ bao gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật. Nhìn chung các loại xe này đều được gắn động cơ, chịu sự điều khiển của con người và vận hành bằng nguồn năng lượng chứ không phải dùng sức người. Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa chung về phương tiện giao thông vận tải cơ giới chính là các loại phương tiện hoạt động bằng động cơ, có tốc độ, có khả năng vận chuyển được khối lượng lớn con người, tài sản, hàng hóa,… và chịu sự điều khiển của con người. 1.2.1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới 11
- Theo quy định của pháp luật để sử dụng được các phương tiện giao thông vận tải cơ giới thì người sử dụng phải đảm bảo các yêu cầu về an toàn kỹ thuật, điều kiện về trình độ sử dụng, được cấp giấy phép sử dụng, cấp giấy phép chủ quyền đối với phương tiện hay nói đơn giản phương tiện giao thông vận tải cơ giới phải có chủ sở hữu và chủ sở hữu phải phù hợp theo các điều kiện, yêu cầu của pháp luật theo từng loại phương tiện. Bên cạnh đó chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải cơ giới phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật và nếu có thiệt hại xảy ra do phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra thì phải xem xét trước hết là trách nhiệm của chủ sở hữu, sau đó mới xem xét đến trách nhiệm của những đối tượng khác như người đang chiếm hữu, sử dụng phương tiện giao thông vận tải cơ giới. Bản thân các phương tiện giao thông vận tải cơ giới khi không có sự tác động của con người làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản cho những người xung quanh thì việc gây thiệt hại chủ yếu do chính sự hoạt động “tự thân” của chúng, độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người. Ví dụ như xe mất phanh hay nổ lốp khi đang chạy trên đường hoặc xe lửa bị lật bánh khỏi đường ray,… Khi đó phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể là do tài sản gây ra. Còn nếu có thiệt hại xảy ra do sự tác động của con người gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác như lái xe gây ra tai nạn giao thông do vượt quá nồng độ cồn hoặc cố tình lái thuyền đâm vào thuyền khác,… thì khi đó sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi vi phạm của con người. Mặc dù pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền được hưởng các lợi ích hợp pháp từ tài sản của các chủ sở hữu, nhưng pháp luật đồng thời cũng đặt ra cho chủ sở hữu những nghĩa vụ pháp lý nhất định. Hiến Pháp 2013, Điều 32, Khoản 2 quy định rõ “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo vệ”. Vấn đề này là một trong những nguyên tắc được quy định trong Khoản 2, Điều 160, BLDS 2015 về quyền của chủ sở hữu “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, 12
- lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.”. Như vậy, pháp luật quy định chủ sở hữu tài sản có thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình có thể là chiếm hữu, sử dụng, định đoạt theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nếu tài sản đó gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức và các chủ thể khác thì chủ sở hữu có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Điều này cũng được quy định tại Khoản 2, Điều 601, BLDS 2015, cụ thể như sau “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Theo như đã phân tích ở trên phương tiện giao thông vận tải cơ giới là một trong các nguồn nguy hiểm cao độ nên khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ nói chung và phương tiện giao thông vận tải cơ giới nói riêng gây ra thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu phương tiện giao thông cơ giới phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ hoặc phương tiện của mình gây ra hoặc nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì chủ sở hữu không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ thỏa thuận của hai bên hoặc nếu trong trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. Điều này cũng hoàn toàn hợp lý và phù hợp với lẽ công bằng trong cuộc sống. Pháp luật nước ta chưa có bất cứ một khái niệm cụ thể nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới nhưng từ những phân tích trên có thể định nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và chỉ xét đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể là toàn bộ hoặc liên đới chịu trách nhiệm của chủ sở hữu phương tiện khi phương tiện của mình tự thân hoặc do hành vi vi phạm của con người gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh thần của con người, tài sản của người khác do lỗi vô ý hay cố ý hoặc khi không có lỗi trừ mốt số trường hợp theo quy định của pháp luật về việc chủ sở hữu không phải bồi thường thiệt hại do phương tiện của mình gây ra. 13
- Từ những nội dung đã nêu, có thể định nghĩa “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở hữu phương tiện chỉ phải chịu trách nhiệm toàn bộ hoặc liên đới khi phương tiện giao thông vận tải cơ giới của mình tự thân hoặc do hành vi vi phạm của con người gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người khác do lỗi vô ý hay cố ý hoặc khi không có lỗi”. 1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới là một dạng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới cũng mang những đặc điểm cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới có những dấu hiệu đặc thù của nó, chẳng hạn nguyên nhân để chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi phương tiện gây ra thiệt hại ngoài việc do hành vi vi phạm của con người tác động dẫn đến gây ra thiệt hại thì còn do bản thân tài sản (là phương tiện giao thông vận tải cơ giới) gây ra. Hay nói cách khác, chỉ có thể là do phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra thiệt hại thì chúng ta mới xem xét áp dụng quy định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và xem xét đến trách nhiệm của chủ sở hữu. Do đó, ngoài những đặc điểm chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới còn có những điểm đặc thù sau đây: Thứ nhất, điểm đặc trưng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải luôn gắn liền với quá trình hoạt động, vận hành của phương tiện giao thông vận tải. Có hai dạng phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây thiệt hại: Dạng thứ nhất là trường hợp phương tiện gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khỏe cho những người xung quanh do hành vi vi phạm của con người trong quá 14
- trình vận hành phương tiện giao thông vận tải mà con người ở đây có thể là chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao cho chiếm hữu, sử dụng hoặc người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật hoặc một trường hợp khác là chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng phương tiện có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Dạng thứ hai là phương tiện trong quá trình hoạt động gây thiệt hại đến tài sản, sức khỏe, tính mạng của những người xung quanh ngoài sự kiểm soát hoặc ý thức của con người hay nói cách khác là tự thân của phương tiện gây ra thiệt hại và nguyên nhân, hậu quả của việc gây ra thiệt hại đó nằm ngoài sự quản lý của chủ sở hữu và chính bản thân chủ sở hữu cũng không mong muốn sự việc đó xảy ra ví dụ như 1 chiếc ô tô đang đậu ngoài lề đường đúng quy định nhưng lại nổ lốp và lùi về sau cán trúng 1 đứa bé đang chơi ở lề đường dẫn đến đứa bé bị thương tật. Thứ hai, về đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra có những sự khác biệt so với đối tượng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nếu đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung có thể là sức khoẻ, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì đối tượng bị xâm phạm trong trách nhiệm bồi thường do phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra chỉ bao gồm thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Điều này có thể được lý giải rằng phương tiện giao thông vận tải cơ giới là một dạng máy móc thiết bị được vận hành mới có thể hoạt động được và khi vận hành thì tự thân hoặc do hành vi trái pháp luật của người điều khiển tác động vào những tài sản khác như cây cối, nhà cửa, phương tiện khác hoặc tác động vào con người dẫn đến thiệt hại đến sức khỏe hoặc tính mạng của người khác. Còn danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị nhân thân gắn liền với từng cá nhân, từng tổ chức nhất định, là yếu tố vô hình chỉ có hành vi của con người dùng lời nói, hành động hoặc các công cụ phương tiện truyền thông tác động đến làm ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm uy tín của các cá nhân, tổ chức chứ không thể bằng việc sử dụng phương tiện giao thông vận tải mà gây thiệt hại đến các yếu tố gắn liền với nhân thân đó 15
- Thứ ba, việc xác định chủ thể trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra cũng có những điểm khác biệt so với việc xác định chủ thể trong quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do phương tiện của mình gây ra ngay cả khi không có lỗi trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật, không phải chịu trách nhiệm trong tất cả các trường hợp. Tuy nhiên bản thân chủ sở hữu phương tiện phải bồi thường thiệt hại do phương tiện gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc khi chủ sở hữu có lỗi trong việc để phương tiện bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. Thứ tư, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới có điểm khác so với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ngoài ba điều kiện cần có như: Có thiệt hại thực tế xảy ra; có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của phương tiện; có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế đã xảy ra thì yếu tố lỗi của bên gây thiệt hại không phải là yếu tố bắt buộc mà trong nhiều trường hợp bồi thường thiệt hại do phương tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra không cần yếu tố lỗi. Bởi lẽ trong nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của phương tiện, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; ô tô đang đậu trong bãi tự nhiên bốc cháy mà nguyên nhân không phải do con người tác động vào gây ra. Vì vậy, khi có thiệt hại xảy ra, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường hợp chủ sở hữu không có lỗi. Điều này có thể xem là một loại “trách nhiệm dân sự nâng cao” đối với chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp và được quy định cụ thể tại Khoản 3 Điều 601 BLDS 2015 “Chủ sở hữu, 16
- người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” 1.3. Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới 1.3.1. Căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến thiệt hại Căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ phương tiện giao thông vận tải cơ giới được phân chia thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của con người gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tự thân phương tiện gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của con người – con người ở đây có thể là chủ sở hữu trực tiếp sử dụng, vận hành phương tiện hoặc chủ sở hữu có lỗi trong việc để phương tiện bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây ra thiệt hại và kết quả tất yếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Trường hợp này người gây thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động và hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tự thân phương tiện gây ra nằm ngoài sự kiểm soát, vận hành của con người là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi bản thân phương tiện chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại, không chịu sự tác động của con người bằng hành vi như xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại. Việc phân loại hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại : Đối với trường hợp bồi thường thiệt hại do hành vi gây ra thì một điều kiện không thể thiếu là hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật. Trong khi đó, bồi thường thiệt hại do tự thân phương tiện gây ra vì không có hành vi nên điều kiện này không thể được xem xét đến. Ngoài ra, việc phân loại này còn có ý nghĩa trong việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường: Về nguyên tắc thì người nào có hành vi trái pháp luật gây 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 271 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 108 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 77 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 90 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn