intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong các diễn ngôn hội thoại (khảo sát trên tư liệu một số truyện ngắn hiện đại)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

26
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được bố cục gồm ba chương cụ thể như sau: Chương 1 - Cơ sở lý thuyết; chương 2 - Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong diễn ngôn hội thoại trên một số phương diện từ vựng và chương 3 - Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong diễn ngôn hội thoại trên một số phương diện ngữ pháp và cách thức tổ chức hội thoại. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong các diễn ngôn hội thoại (khảo sát trên tư liệu một số truyện ngắn hiện đại)

  1. Đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn Phạm Thị Thu Trang Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong các diễn ngôn hội thoại (khảo sát trên tư liệu một số truyện ngắn hiện đại) Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 Luận văn thạc sỹ ngôn ngữ học Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Việt Thanh Hà Nội - 2008 -0-
  2. Mục lục Mở đầu 5 Chương 1. Cơ sở lý thuyết 9 1.1. Một số vấn đề về “diễn ngôn” và “phân tích diễn ngôn” 9 1.1.1. Mối quan hệ giữa “diễn ngôn” và “văn bản” 9 1.1.2. Mối quan hệ giữa “phân tích diễn ngôn” và “phân tích văn bản” 12 1.2. Một số vấn đề cơ bản về “diễn ngôn hội thoại” và phân tích “diễn ngôn hội 15 thoại” 1.2.1. Thế nào là “diễn ngôn hội thoại”? 15 1.2.2. Cấu trúc hội thoại 17 1.2.2.1. Cấu trúc chung 17 1.2.2.2. Các yếu tố cấu tạo 18 1.2.3. Một số vấn đề về phân tích “diễn ngôn hội thoại” 22 1.2.3.1. Ngữ cảnh 22 1.2.3.2. Đặc điểm các nhân vật giao tiếp 25 1.2.3.3. Các nguyên lý giao tiếp (lịch sự - cộng tác) 27 1.3. Một số vấn đề về “phân tích diễn ngôn phê phán” 32 1.4. Vấn đề “quyền thế” trong diễn ngôn phê phán 35 * Tiểu kết 39 Chương 2. Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong diễn ngôn hội thoại 41 trên một số phương tiện từ vựng 2.1. Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong hội thoại thông qua hệ thống từ xưng hô 41 2.1.1. Quan hệ quyền thế biểu hiện qua nhóm từ xưng hô chính danh và không chính 43 danh 2.1.1.1. Một số nét về từ xưng hô chính danh và không chính danh trong tiếng Việt 43 2.1.1.2. Vai trò của nhóm từ xưng hô chính danh và không chính danh trong việc 47 biểu thị quan hệ quyền thế hội thoại 2.1.2. Biểu hiện của quan hệ quyền thế thông qua các cặp xưng hô tương hỗ và phi 51 tương hỗ 2.1.2.1. Thế nào là xưng hô tương hỗ và phi tương hỗ? 51 2.1.2.2. Quan hệ quyền thế biểu hiện qua các cặp xưng hô tương hỗ và phi tương hỗ 52 2.1.3. Vai trò của ngôi thứ ba trong việc biểu thị quan hệ quyền thế 57 -2-
  3. 2.1.3.1. Một số nét về quan hệ giữa các vai giao tiếp với ngôi thứ ba trong hội thoại 57 2.1.3.2. Quan hệ quyền thế biểu hiện qua việc tạo lập/không tạo lập quan hệ với ngôi 59 thứ ba 2.2. Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong hội thoại thông qua việc sử dụng các tiểu 64 từ tình thái 2.2.1. Vài nét về đặc điểm các tiểu từ tình thái trong tiếng Việt 65 2.2.2. Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong hội thoại thông qua các tiểu từ tình thái trong tiếng Việt 67 2.2.2.1. Tiểu từ tình thái mang sắc thái khiêm nhường, mềm mỏng 68 2.2.2.2. Tiểu từ tình thái mang sắc thái mạnh mẽ, dứt khoát 72 * Tiểu kết 76 Chương 3. Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong diễn ngôn hội thoại trên một số phương diện ngữ pháp và cách thức tổ chức hội thoại 78 3.1. Biểu hiện của quan hệ quyền thế trên phương diện ngữ pháp 78 3.1.1. Biểu hiện của quan hệ quyền thế thông qua các kiểu phát ngôn mệnh lệnh, cầu khiến, vô nhân xưng... 78 3.1.2. Biểu hiện của quan hệ quyền thế thông qua các kiểu câu chủ động/bị động, cách nói trực tiếp/gián tiếp, câu đưa đẩy... 85 3.2. Biểu hiện của quan hệ quyền thế trên phương diện cách thức tổ chức hội thoại 90 3.2.1. Biểu hiện của quan hệ quyền thế thông qua sự xuất hiện các lối nói chêm xen, hiện tượng tranh lời/cướp lời 90 3.2.2. Biểu hiện của quan hệ quyền thế thông qua việc tuân thủ các nguyên lý hội thoại (nguyên lý cộng tác, nguyên lý lịch sự) 95 * Tiểu kết 102 Kết luận 104 Tài liệu tham khảo 110 -3-
  4. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Trong tiến trình lịch sử của mình, ngôn ngữ học đã chứng kiến sự hình thành và phát triển của rất nhiều trường phái cũng như các đường hướng nghiên cứu mới, đó là một nhu cầu tất yếu đảm bảo cho dòng chảy ngôn ngữ học luôn tràn đầy sức sống. Với tiền đề ấy, phân tích diễn ngôn phê phán (critical discourse analysis - CDA) là một đường hướng nghiên cứu tuy ra đời khá muộn, vào những năm 70 của thế kỷ XX, song nó đã chứng tỏ sức hút mạnh mẽ của mình với đông đảo giới nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế giới. Mục đích của đường hướng nghiên cứu mới mẻ này không chỉ dừng lại ở việc miêu tả mà còn đưa ra những lý giải về quá trình kiến tạo, tồn tại và hoạt động của diễn ngôn; trên cơ sở đó nó thừa nhận vai trò của ngôn ngữ trong việc tổ chức mạng lưới quan hệ quyền thế xã hội. Nói như vậy cũng có nghĩa là, trong phân tích diễn ngôn phê phán, một khái niệm tối quan trọng không thể bỏ qua là “quyền thế” (power); có thể hiểu “quyền thế” là vấn đề cốt lõi trong đường hướng phân tích này. ở Việt Nam, cho đến nay vẫn còn khá ít những công trình nghiên cứu quan tâm đến vấn đề quyền thế trong các diễn ngôn (đặc biệt là trong các diễn ngôn hội thoại) theo hướng tiếp cận của phân tích diễn ngôn phê phán. Mặt khác, phần lớn những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng các tiền đề có tính lý luận, chưa đưa ra được những biểu hiện sinh động trên phương diện ngôn ngữ của mối quan hệ quyền thế vốn rất phức tạp giữa các nhân vật giao tiếp trong thực tế xã hội. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong các diễn ngôn hội thoại” (khảo sát -5-
  5. trên tư liệu một số truyện ngắn hiện đại) trên cơ sở vận dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán làm đối tượng nghiên cứu của luận văn. 2. Nhiệm vụ của luận văn Với lý do lựa chọn đề tài như trên, nhiệm vụ chính của luận văn là lần lượt mô tả những biểu hiện sinh động của mối quan hệ quyền thế giữa các nhân vật giao tiếp trên ba phương diện ngôn ngữ cơ bản. Đó là phương diện từ vựng, ngữ pháp và cách thức tổ chức hội thoại. Trên cơ sở kết quả tư liệu thu nhận được, luận văn sẽ đánh giá áp lực quyền thế giữa các vai giao tiếp chi phối việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ hội thoại của các bên tham gia, đồng thời khẳng định sự tồn tại cũng như ảnh hưởng mạnh mẽ của mối quan hệ quyền thế đặc biệt này trong giao tiếp xã hội nói chung. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các cuộc hội thoại thực tế được rút ra từ một số tác phẩm văn học hiện đại. Phạm vi nghiên cứu của công trình này là đặc điểm các vai giao tiếp, những biểu hiện của mối quan hệ quyền thế giữa các nhân vật tham gia cuộc thoại thông qua các phương tiện ngôn ngữ cụ thể. Còn những biểu hiện của mối quan hệ trên thông qua các phương tiện phi ngôn ngữ cử chỉ, giọng điệu, ánh mắt… không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. Luận văn sử dụng tư liệu khảo sát chủ yếu trên những nguồn sau: - Truyện ngắn Tường thành, Võ Thị Xuân Hà, NXB Hội nhà văn, 2004. - Truyện ngắn Mùa hè vội vã, Nguyễn Đình Chính, NXB Hà Nội, 2004. - Tập truyện ngắn Hồi ức tuổi mười ba, Hữu Đạt, NXB Hà Nội, 2004. - Tập truyện ngắn Thiếu phụ đồng trinh, Phan Cao Toại, NXB Hà Nội, 2002. -6-
  6. - Tập truyện ngắn 5 cây bút nữ, Nhiều tác giả, NXB Hội nhà văn, 2004. - Tập truyện ngắn Cô giúp việc kén chồng, Đỗ Thị Hồng Vân, NXB Hà Nội, 2008. Đây là các tác phẩm truyện ngắn hiện đại trong đó có nhiều đoạn hội thoại với những bối cảnh giao tiếp khác nhau, với các vai giao tiếp khác nhau… sẽ cung cấp cho luận văn khối tư liệu phong phú, đa chiều về mối quan hệ quyền thế giữa các nhân vật giao tiếp biểu hiện thông qua các phương tiện ngôn ngữ. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong công trình này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp phân tích miêu tả. Bên cạnh đó, luận văn cũng vận dụng một số thủ pháp nghiên cứu truyền thống khác như thống kê, so sánh, đối chiếu… nhằm phục vụ hiệu quả cho mục đích nghiên cứu của mình. 5. Đóng góp của luận văn Với đề tài “Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong các diễn ngôn hội thoại” (khảo sát trên tư liệu một số truyện ngắn hiện đại), luận văn mang lại một số ý nghĩa lý luận và thực tiễn cơ bản sau: 5.1. ý nghĩa lý luận Bằng việc khảo sát các cuộc thoại được rút ra từ một số tác phẩm truyện ngắn hiện đại, luận văn là sự thể nghiệm việc vận dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn phê phán khi nghiên cứu về vấn đề quyền thế. Thông qua kết quả nghiên cứu, luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn một số khái niệm cơ bản có tính lý luận của đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán khi áp dụng vào thực tế phân tích diễn ngôn hội thoại nói riêng, trong phân tích diễn ngôn nói chung. -7-
  7. 5.2. ý nghĩa thực tiễn Tính thực tiễn của luận văn thể hiện ở việc vận dụng kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra những kiến giải cũng như những đề xuất, định hướng trong việc tạo lập và nhận hiểu các diễn ngôn hội thoại trong các tác phẩm văn học hiện đại nói riêng, trong diễn ngôn hội thoại nói chung. Cũng trên cơ sở đó, người tham gia giao tiếp có thể lựa chọn được những chiến lược sử dụng ngôn ngữ hiệu quả nhất để xác lập hay thay đổi mối quan hệ quyền thế với người đối thoại, từ đó duy trì và điều khiển cuộc thoại để đạt tới đích giao tiếp cuối cùng. Mặt khác, do đối tượng nghiên cứu của luận văn là những đoạn hội thoại được rút từ các tác phẩm văn học hiện đại của nhiều tác giả khác nhau, nên luận văn cũng nêu lên một số nhận xét về phong cách tác giả, về dụng ý của nhà văn khi khắc họa hình tượng nhân vật, mô tả mạng lưới quan hệ giữa các nhân vật trong tác phẩm thông qua ngôn ngữ đối thoại. Điều này sẽ giúp độc giả có cơ sở tiếp cận tác phẩm cũng như các nhân vật một cách mới mẻ và toàn diện hơn. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục gồm ba chương cụ thể như sau: Chương 1. Cơ sở lý thuyết Chương 2. Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong diễn ngôn hội thoại trên một số phương diện từ vựng Chương 3. Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong diễn ngôn hội thoại trên một số phương diện ngữ pháp và cách thức tổ chức hội thoại -8-
  8. Chương 1 Cơ sở lý thuyết 1.1. Một số vấn đề về “diễn ngôn” và “phân tích diễn ngôn” 1.1.1. Mối quan hệ giữa “diễn ngôn” và “văn bản” Cho đến nay đã có khá nhiều định nghĩa được đưa ra cho khái niệm “diễn ngôn” song vẫn chưa thực sự có một định nghĩa hoàn chỉnh nhất. Người nghiên cứu do đó phải tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, góc độ tiếp cận… mà lựa chọn một định nghĩa có tính chất làm việc. Tuy nhiên trước hết cần nói đến người đầu tiên đề xướng ra khái niệm này. Z. Harris (1952) trong công trình “Discourse analysio - Phân tích diễn ngôn” đã đưa ra khái niệm “diễn ngôn” với cách hiểu là văn bản liên kết, ở bậc cao hơn câu (Z. Harris, 1952, trích theo Nguyễn Hoà, 2003). Có thể nói, với việc đề ra khái niệm này, Harris đã góp phần quan trọng giúp ngôn ngữ học văn bản còn non trẻ xác định được nền móng phát triển của mình là hướng vào nghiên cứu chức năng của ngôn ngữ. “Diễn ngôn” và “văn bản” là hai khái niệm không thể bỏ qua trong nghiên cứu ngôn ngữ học văn bản nói chung, trong phân tích diễn ngôn nói riêng. Tuy nhiên trên thực tế để phân định rạch ròi hai khái niệm này lại không hề đơn giản. Có khi chúng được coi là hai khái niệm có cấu trúc xác định tách biệt hoàn toàn, thuộc hai quá trình, có khi khái niệm này là sự biểu hiện cụ thể, là bộ phận của khái niệm kia; cũng có khi chúng lại được dùng thay thế cho nhau như hai khái niệm đồng nghĩa hoàn toàn. Chúng ta có thể nhìn lại quan điểm của một vài tác giả tiêu biểu để có cơ sở phân định rõ hơn về hai khái niệm này. Trước hết, hai tác giả Brown & Yule quan niệm rằng “văn bản như là thuật ngữ khoa học để chỉ dữ liệu ngôn từ của một hành vi giao tiếp”, hay “văn bản là sự thể hiện của diễn ngôn”. Còn khi xử lý diễn ngôn như là “sản phẩm” hay “tiến trình” thì các tác giả lại khẳng định: “diễn ngôn - như - một tiến trình”. Trong khi đó, David Nunan về cơ bản cũng có khuynh hướng phân biệt rạch ròi hai khái niệm này nhưng lại diễn đạt cụ thể hơn. Theo ông, thuật ngữ “văn bản” được dùng để chỉ bất kỳ cái nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp; sự kiện đó tự nó có thể liên quan đến ngôn ngữ nói (một cuộc hội thoại, một bài thuyết -9-
  9. giáo) hoặc ngôn ngữ viết (một bài thơ, một mẩu truyện). Còn về thuật ngữ “diễn ngôn”, ông cho rằng nó được dùng để giải thuyết sự kiện giao tiếp trong ngữ cảnh. Một tác giả khác là Crystal thì lại phân biệt “diễn ngôn là một chuỗi nối tiếp của ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói) lớn hơn một câu, thường cấu thành một chỉnh thể có tính mạch lạc, kiểu như một bài thuyết giáo, tranh luận, truyện vui hoặc truyện kể”. Tác giả này đồng thời cũng nhận định “văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện một cách tự nhiên dưới dạng nói, viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ, được nhận dạng vì những mục đích phân tích. Nó thường là một chỉnh thể ngôn ngữ với một chức năng giao tiếp có thể xác định được, ví dụ như một cuộc thoại, một tờ áp phích” (dẫn theo David Nunan, Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, 1997). Như vậy, ở đây mặc dù tác giả không đồng nhất hai khái niệm trên song dường như cũng không có sự phân định rành mạch ranh giới giữa chúng, văn bản trở thành sản phẩm của diễn ngôn và trong nhiều trường hợp thậm chí có thể thay thế được cho nhau. ở Việt Nam cũng có khá nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề này và lẽ tất yếu cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, hoặc có khi là sự thay đổi về quan điểm của cùng một tác giả trong những giai đoạn khác nhau. Tiêu biểu là tác giả Diệp Quang Ban trong các công trình nghiên cứu của mình đã nhận định mối quan hệ giữa hai khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản” qua các giai đoạn như sau: (1) Văn bản được dùng để chỉ chung các sản phẩm của ngôn ngữ (product) viết và ngôn ngữ nói có mạch lạc và liên kết; (2) Có sự đối lập giữa diễn ngôn và văn bản: sử dụng văn bản để chỉ sản phẩm ngôn ngữ viết và diễn ngôn chỉ ngôn ngữ nói; (3) Diễn ngôn được dùng như văn bản ở ý nghĩa (1). (trích theo Nguyễn Hoà, 2003) Còn tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong một công trình mới đây, sau khi điểm qua một số quan điểm khác nhau về hai khái niệm này thì lại bày tỏ quan điểm cá nhân: “thuật ngữ diễn ngôn (discours) và văn bản (text) thường được coi là đồng nghĩa với nhau để chỉ các sản phẩm của ngôn ngữ, viết hay nói, dài hay ngắn, tạo nên một tổng thể hợp nhất, trong đó, diễn ngôn thường được hiểu là bao hàm văn bản, còn văn bản thiên về sản phẩm viết nhiều hơn” (Nguyễn Thiện Giáp, 2004: 169). Có thể thấy, tác giả một mặt đồng nhất hai khái niệm trên song mặt khác ngay sau đó lại có tỏ ra lúng túng khi nhấn mạnh sự phân biệt tương đối giữa chúng. - 10 -
  10. Một trong số các tác giả khác ở Việt Nam cũng dành nhiều sự quan tâm cho vấn đề này là tác giả Nguyễn Hoà. Trong công trình nghiên cứu của mình, ông tỏ ra nhấn mạnh sự phân biệt hai khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản”. Theo ông, “văn bản như là sản phẩm ngôn ngữ ghi nhận lại quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp nói và viết trong một hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể”; trong khi đó “diễn ngôn như là sự kiện hay quá trình giao tiếp hoàn chỉnh thống nhất có mục đích không giới hạn được sử dụng trong các hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể”. Mặc dù đã đưa ra sự phân biệt hai khái niệm như trên song tác giả cũng thừa nhận rằng trong thực tế sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối vì theo cách hiểu đó, trong văn bản sẽ xuất hiện một vài đặc trưng của diễn ngôn và ngược lại trong diễn ngôn cũng nhiều khi tồn tại các thuộc tính của văn bản. Theo ông, thực chất đây không phải là hai thực thể độc lập, hoàn toàn tách biệt nhau mà chỉ là một thực thể biểu hiện của ngôn ngữ hành chức trong bối cảnh giao tiếp cụ thể. Nói cách khác, tuỳ theo quan điểm của người nghiên cứu mà ngôn ngữ sẽ được coi là “văn bản” khi được xem xét từ góc độ hình thức, và được coi là “diễn ngôn” khi xem xét dưới góc độ hành chức. Trong khá nhiều quan điểm đã trình bày ở trên cũng như các quan điểm khác hiện có, chúng tôi nhận thấy mỗi quan điểm đều có những nhân tố hợp lý trong cách diễn giải của mình. Tuy nhiên, trong công trình này, để thuận lợi cho quá trình nghiên cứu phù hợp với đối tượng và mục đích nghiên cứu đã đặt ra, chúng tôi chủ trương theo quan điểm của tác giả Nguyễn Hoà với tư cách như một định nghĩa có tính chất làm việc. Điều này cũng không có nghĩa chúng tôi phủ nhận các quan điểm khác, vì ngay bản thân mỗi tác giả trong các luận điểm của mình cũng đều có sự dung hoà tương đối với các quan điểm khác. 1.1.2. Mối quan hệ giữa “phân tích diễn ngôn” và “phân tích văn bản” Như trên chúng ta đã thấy, sự phân biệt giữa hai khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản” tưởng như đơn giản song lại khá phức tạp, cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề cần tranh luận thêm. Mặc dầu vậy, sự phân biệt này vẫn là cần thiết trong quá trình nghiên cứu sâu thuộc địa hạt diễn ngôn; mặt khác nó cũng tất yếu dẫn tới hệ quả là sự phân biệt giữa hai khái niệm “phân tích diễn ngôn” và “phân tích văn bản” mà thiết nghĩ chúng ta không thể không bàn đến ở đây. - 11 -
  11. Trước tiên, với việc xác định “diễn ngôn như một tiến trình”, hai tác giả Brown & Yule khẳng định quan điểm rằng nhà phân tích diễn ngôn cần quan tâm đến chức năng hay mục dích của một mẩu dữ liệu ngôn ngữ và cách thức dữ liệu đó được người phát cũng như người nhận xử lý. Biện luận sâu hơn, hai tác giả cho rằng, nhà phân tích sẽ phải nghiên cứu từng từ, từng câu xuất hiện trong dữ liệu thành văn của diễn ngôn, để tìm cho được bằng chứng về sự nỗ lực của người phát (người nói/người viết) trong việc chuyển giao thông điệp đến người nhận (người nghe/người đọc). Đồng thời chúng ta cũng cần tìm hiểu bằng cơ chế nào, lý do tại sao mà người nhận có thể hiểu được chính xác thông điệp chuyển giao tới trong một ngữ cảnh cụ thể; đồng thời các yêu cầu trở lại của người nhận trong một ngữ cảnh cụ thể bằng cách nào có thể chuyển giao trở lại người phát, để từ đó ảnh hưởng đến kết cấu của diễn ngôn tiếp theo của người phát. Như vậy, có thể thấy rõ ràng là phương hướng nghiên cứu này chủ trương lấy chức năng giao tiếp của ngôn ngữ làm đối tượng nghiên cứu chính, và vì thế nó mô tả các hình thức ngôn ngữ không ở dạng tĩnh mà như các phương tiện động nhằm thể hiện ý nghĩa. (Dẫn theo Brown & Yule, 2002:48) Một tác giả khác - David Nunan với việc xác định hai khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản” như đã trình bày ở trên, cũng đồng thời xác nhận phân tích diễn ngôn liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ trong quá trình sử dụng (ngôn ngữ hành chức) - khác với phân tích văn bản là thiên về nghiên cứu các thuộc tính cấu trúc của ngôn ngữ, bị tách khỏi các chức năng giao tiếp của chúng. Tác giả cũng biện luận thêm rằng, cũng giống như các nhà ngữ âm học, ngữ pháp học, nhà phân tích diễn ngôn cũng cần quan tâm đến việc nhận diện những cái đều đặn và những khuôn mẫu trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, không chỉ có vậy, nhà phân tích diễn ngôn còn phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng hơn cả là đạt đến mục đích cuối cùng của công việc phân tích: vừa chỉ ra, vừa giải thuyết mối quan hệ giữa những cái đều đặn đó với những ý nghĩa và những mục đích được diễn đạt qua diễn ngôn. Như vậy, ở đây tác giả đã căn cứ vào đối tượng của nhà phân tích là ngôn ngữ xét về mặt cấu trúc hình thức thuần tuý (phân tích văn bản) và ngôn ngữ trong quá trình sử dụng (phân tích diễn ngôn) để phân biệt hai khái niệm trên. Trong thực tế điều này không hề đơn giản như vậy. Ngay bản thân tác giả trong khi đối chiếu những đặc trưng của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết cũng đã thừa nhận không có sự - 12 -
  12. khác biệt tuyệt đối giữa hai hình thức nói và viết vì những đặc điểm có xu hướng gắn với ngôn ngữ nói đôi khi có thể xuất hiện trong ngôn ngữ viết và ngược lại. Điều này cũng có thể hiểu rằng, trong quá trình ta tiến hành phân tích văn bản (ngôn ngữ viết) thì không thể chỉ căn cứ đơn thuần vào những đặc điểm hình thức mà còn phải xem xét đến cả những đặc trưng của nó trong hành chức; và cũng tương tự như vậy đối với phân tích diễn ngôn. (Dẫn theo David Nunan, 1998: 21) Trong khi đó, tác giả Đỗ Hữu Châu, một người nghiên cứu khá nhiều về dụng học cũng quan tâm đến mối quan hệ văn bản - diễn ngôn thì cho rằng: “Diễn ngôn là lời của từng người nói ra trong một cuộc giao tiếp”; “... Tuỳ theo đường kênh, hay tuỳ theo dạng ngôn ngữ được sử dụng mà chúng ta có diễn ngôn nói hay diễn ngôn viết. Chúng tôi sẽ gọi diễn ngôn viết là các văn bản”. Tác giả cũng cho rằng, diễn ngôn có cả hình thức và nội dung nhưng cả hai đều chịu tác động của ngữ cảnh. Do vậy, phân tích diễn ngôn là phân tích cả các yếu tố hình thức của diễn ngôn, bao gồm các yếu tố ngôn ngữ, các đơn vị từ vựng, các quy tắc kết học, các hành vi ngôn ngữ tạo nên diễn ngôn. Các yếu tố kèm lời và phi lời, theo tác giả, cũng được xem là các yếu tố thuộc hình thức của phát ngôn. Về nội dung, tác giả cho rằng diễn ngôn bao gồm nội dung thông tin và nội dung miêu tả. Hai thành tố nội dung này có thể hiện diện tường minh qua các yếu tố ngôn ngữ hình thức của diễn ngôn, hoặc tồn tại khiếm diện trong đích giao tiếp của đối phương. Như vậy, phân tích diễn ngôn một cách đầy đủ, toàn diện cần xét đến cả hai mặt hình thức và nội dung của diễn ngôn. Bên cạnh đó, trên cơ sở phân tích quan điểm của tác giả David Nunan, tác giả Nguyễn Hoà lại cho rằng, mối quan hệ giữa phân tích diễn ngôn và phân tích văn bản cũng có sự tương đồng như mối quan hệ giữa diễn ngôn và văn bản. Bởi theo ông, không nên nhìn nhận đây là hai bộ môn riêng biệt mà về thực chất chỉ nên xem xét đó là hai mặt của quá trình phân tích ngôn ngữ hành chức trong hoàn cảnh giao tiếp xã hội. Với việc xác định như vậy, tác giả chủ trương quy các yếu tố như liên kết, cấu trúc đề thuyết, cấu trúc thông tin, cấu trúc diễn ngôn… thuộc về địa hạt phân tích văn bản; đồng thời những yếu tố như mạch lạc, các hành động ngôn từ, vận dụng tri thức nền, cách thức xử lý từ trên xuống hay từ dưới lên… sẽ thuộc địa hạt của phân tích diễn ngôn. (Dẫn theo Nguyễn Hoà, 2003: 35) - 13 -
  13. 1.2. Một số vấn đề cơ bản về “diễn ngôn hội thoại” và “phân tích diễn ngôn hội thoại” 1.2.1. Thế nào là “diễn ngôn hội thoại”? Trong thực tế đời sống, chúng ta hàng ngày không ngừng tạo ra vô vàn các cuộc hội thoại khi tiến hành giao tiếp. Bởi vậy, có thể nói hội thoại là hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, cơ bản nhất của con người; đồng thời hội thoại cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Khi giao tiếp hai chiều cũng tức là chúng ta đã tạo ra một hội thoại trên cơ sở tương tác qua lại giữa một bên là người nói và một bên là người nghe, kết hợp với sự luân phiên lượt lời, thay đổi vai trò trong suốt quá trình giao tiếp. Hội thoại khi được thực hiện bởi hai bên là song thoại; khi được thực hiện bởi ba bên là tam thoại; thậm chí có hội thoại gồm rất nhiều vai giao tiếp, ta có đa thoại. Tuy nhiên, song thoại được coi là hình thức hội thoại cơ bản và phổ biến nhất, mang đậm những đặc trưng của một cuộc hội thoại. Do đó ở đây chủ yếu bàn đến một số vấn đề chính yếu của song thoại, trên cơ sở đó có thể hình dung bức tranh khái quát nhất về các đặc trưng của “diễn ngôn hội thoại”. Trước khi đưa ra được cách hiểu đầy đủ nhất về “phân tích diễn ngôn hội thoại” thì chúng ta không thể bỏ qua một khái niệm cơ bản của bất kỳ một hội thoại nào, đó là “cuộc thoại”. Để tham gia một cuộc thoại, người tham gia giao tiếp phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản nhất là nguyên tắc luân phiên lượi lời và nguyên tắc liên kết. Điều đó có nghĩa là, trong khi người này nói thì người kia nghe rồi mới phản hồi trở lại, không cùng nói đồng thời. Hai bên tham gia phải luân phiên nói một cách uyển chuyển, nhịp nhàng. Mặt khác, các lượt lời tham gia phải đảm bảo sự liên kết với nhau để cùng tạo ra tính liên kết của cả cuộc thoại. Mặc dù trên thực tế không có sự quy định hay xác định một cách chặt chẽ từ trước thứ tự người nói và cách thức luân phiên lượt lời hay cách thức liên kết lượt lời, song việc tuân thủ hai nguyên tắc này dựa trên sự tự nguyện của các bên tham gia giao tiếp là điều kiện tiên quyết tạo nên một cuộc thoại. Ngoài hai đặc điểm trên, cuộc thoại còn luôn bao gồm tính có mục đích, một hay nhiều chủ đề khác nhau. Đích của cuộc thoại có thể được thể hiện tại lời, cũng có thể nằm ngoài lời. Mỗi bên tham gia giao tiếp có thể nhằm tới một đích khác nhau, hoặc cùng hướng về một đích nhất định, nhưng dù thế nào thì cũng tồn tại tính có mục đích trong cuộc thoại đó. Bên cạnh đó, - 14 -
  14. để cuộc thoại thành công thì người nghe và người nói còn phải tôn trọng các nguyên lý hội thoại, đó là nguyên lý cộng tác và nguyên lý lịch sự (sẽ bàn đến trong phần sau). Để nghiên cứu cuộc thoại, bên cạnh các đặc điểm nội tại của cuộc thoại như đã giới thiệu ở trên, chúng ta cũng cần lưu ý tới một số đặc điểm bên ngoài của cuộc thoại, đó là số lượng người tham dự, quan hệ giữa những người tham dự, và chu cảnh (không gian, thời gian diễn ra cuộc thoại). Khi xác định được những yếu tố này có thể dễ dàng hơn trong việc phân tích các đặc trưng cuộc thoại. Ví như số lượng người tham dự nếu quá đông có thể tạo ra các cuộc thoại chính và thoại phụ, hoặc chi phối số lượng chủ đề, mục đích của cuộc thoại. Hoặc giả các bên tham gia giao tiếp nếu không có quan hệ cá nhân từ trước sẽ xác định một quan hệ bình đẳng khi giao tiếp, từ đó chi phối các đặc điểm cuộc thoại; điều này khác rất nhiều so với khi hai bên tham gia giao tiếp đã bị ràng buộc từ trước bởi quan hệ cá nhân nào đó. Một vấn đề nữa là thời gian và không gian diễn ra cuộc thoại. Thông thường không xác định thời gian tối thiểu hay tối đa của một cuộc thoại (trừ trường hợp các cuộc hội thảo theo giờ định sẵn) nhưng cần đảm bảo là thời gian đó là xác định và diễn ra liên tục, không bị gián đoạn hay đứt quãng. Đồng thời, không gian cuộc thoại cũng góp phần chi phối đặc điểm lượt lời của người tham gia giao tiếp. Ví như nếu cả hai bên tham gia giao tiếp không cùng hiện diện trong một không gian xác định thì sẽ hạn chế hoặc không cần thiết sự có mặt của các yếu tố phi lời như điệu bộ, cử chỉ, mỉm cười… Ngược lại, khi cả hai bên tham gia giao tiếp ở một không gian xác định, hoặc không gian có tính nghi thức như công sở hay một không gian không có tính nghi thức cao như quán cafe hay công viên… sẽ chi phối các đặc điểm cuộc thoại khác nhau. Hoặc như khi đã xác định được một không gian nhất định thì sẽ tăng cường sự hiện diện của các yếu tố có tính quy chiếu như các từ chỉ xuất, các đại từ… Như vậy có thể thấy, các yếu tố bên ngoài mặc dù không trực tiếp tạo nên cuộc thoại song chúng cũng có ảnh hưởng đáng kể đến cấu trúc, tính chất cuộc thoại và đặc điểm các bên tham gia giao tiếp. 1.2.2. Cấu trúc hội thoại Để tìm hiểu được cấu trúc của một hội thoại thì cũng là chúng ta đi tìm hiểu cấu trúc ngôn ngữ của một cuộc thoại; điều đó có nghĩa là chúng ta cần xác định được mạng lưới quan hệ của hệ thống các đơn vị ngôn ngữ cấu thành nên cuộc thoại đó, đồng thời cũng cần xác - 15 -
  15. định những yếu tố bên trong quan yếu, yếu tố bên ngoài không quan yếu nhưng có ảnh hưởng đến cấu trúc cuộc thoại. 1.2.2.1. Cấu trúc chung Có thể nói bất kỳ một cuộc thoại nào bao giờ cũng có phần mở đầu và phần kết thúc. Trong thực tế giao tiếp, người mở đầu hay kết thúc một cuộc thoại thường là tự nguyện, chủ động, song nhất định có. Bởi vậy, theo đó đương nhiên ta có phần mở thoại là phần mở đầu cuộc thoại, và phần kết thoại là phần kết thúc một cuộc thoại. Ngoài hai phần cơ bản trên, cấu trúc một cuộc thoại còn luôn bao gồm một phần chính yếu nữa là phần thân thoại. Như vậy, về đại thể, cấu trúc chung của một cuộc thoại bao gồm ba phần: Mở thoại - Thân thoại - Kết thoại. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng đây không phải là cấu trúc cứng nhắc vì trên thực tế giao tiếp, không phải bao giờ ranh giới giữa các phần này cũng được xác định rõ ràng. 1.2.2.2. Các yếu tố cấu tạo Khi tiến hành xây dựng cấu trúc cuộc thoại nói riêng, cấu trúc hội thoại nói chung, chúng ta cần tìm hiểu đặc trưng của các yếu tố tạo nên cấu trúc đó. Trước hết đó là lượt lời (A: turn; P: tours). Lượt lời là đơn vị cơ bản của hội thoại, nó được xây dựng trên cơ sở những lượt lời có trước đó. Lượt lời được xác định là một lần nói xong của một bên giao tiếp trong khi các bên kia không nói, để rồi khi có lời hồi đáp là đánh dấu một lượt lời tiếp theo. Lượt lời sẽ không được hình thành khi nhiều người cũng nói một lúc (trừ trường hợp đồng thanh hô khẩu hiệu). Việc xác định lượt lời cũng tức là có sự xuất hiện của luân phiên lượt lời, các bên tham gia giao tiếp có sự luân phiên liên tục, chủ động về lượt lời hồi đáp để đảm bảo hội thoại không bị gián đoạn. Đây cũng là một nguyên tắc của cuộc thoại đã được đề cập ở phần trên. Sự luân phiên lượt lời trong hội thoại hoạt động theo cơ chế chuyển giao lượt lời, còn gọi là sự trao lời. Khi người nói đang giữ lượt lời, nếu không còn ý định tiếp tục nói sẽ chủ động chuyển lời cho các bên khác đang tham gia hội thoại. Sự chuyển lời này có thể là trực tiếp bằng lời, sự chỉ định, hoặc chuyển bằng hình thức gián tiếp như ngữ điệu, lời xác nhận kết thúc lượt lời của mình để có tính chất thông báo cho các bên khác tiếp tục nhận lượt lời để hồi đáp, duy trì cuộc hội thoại. Trong các cuộc song thoại, ở lượt lời thường không có những dấu hiệu, thông báo để chỉ định rõ ràng đối tượng nghe tiếp nhận sự trao lời vì lúc này chỉ có một người nghe duy - 16 -
  16. nhất. Tuy nhiên, trong những cuộc tam thoại hay đa thoại thì trong lượt lời cần có sự xác định rõ ràng hoặc có tính chất định hướng đối tượng tiếp nhận sự trao lời là ai. Mặt khác, để đối tượng tiếp nhận lượt lời hồi đáp thoả mãn yêu cầu của người trao lời thì người trao lời cũng cần tính đến các yếu tố như tâm lý, tính cách, trình độ, hứng thú… của đối tượng để đưa ra sự trao lời phù hợp nhất. Trong quá trình tương tác hội thoại, cả hai bên tham gia sẽ cùng theo dõi lượt lời của đối phương để có sự hồi đáp chuẩn xác. Bởi vậy, khi trao lời, nếu càng nắm rõ được các đặc tính, tâm lý… liên quan đến đối tượng thì sự trao lời càng diễn ra thành công, góp phần tạo nên thành công của cuộc thoại. Cũng vì lẽ đó mà thường khi bắt đầu hội thoại, đặc biệt là hội thoại giữa những người mới quen hay quan hệ sơ, người ta thường sử dụng những lời mào đầu có tính chất thăm dò đối tượng. Trong cấu trúc hội thoại, những lời mào đầu như vậy có thể gọi là phần mở thoại (bắt đầu một cuộc thoại). Phần mở thoại có tác dụng tạo không khí thân mật ban đầu cho cuộc thoại. Nó có thể được hồi đáp hoặc không hồi đáp đúng với chủ đề được đưa ra song nó có tác dụng thông báo cho người mở thoại sự hợp tác hay không hợp tác của đối tượng. Lượt lời mở thoại do đó trong cấu trúc hội thoại có phần ít giá trị hơn các lượt lời tiếp theo, nó có thể bị “bỏ qua” để đi ngay vào chủ đề chính của cuộc thoại. Tuy nhiên cũng cần phân biệt hành động trao lời với hành động tranh lời (cướp lời/ ngắt lời). Hành động tranh lời có thể được hiểu là khi người đang giữ lượt lời còn chưa nói xong hoặc còn có ý định nói tiếp, chưa chủ động chuyển lời đã bị người kia tiếp lời, tranh lời một cách vô tình hay cố ý. Như vậy, lượt lời đã được chuyển giao một cách bị động. Trong giao tiếp, hành động tranh lời bị coi là vi phạm nguyên tắc hội thoại, vi phạm phép lịch sự, đặc biệt là trong song thoại. Hành dộng tranh lời còn bao gồm cả các lời chêm xen, hùa theo người nói, khiến lượt lời bị đứt quãng, mất tự nhiên. Khi xuất hiện lời chêm xen, mặc dù lúc này coi như đã có sự luân phiên lượt lời nhưng về nội dung chủ đề của lượt lời bị lời chêm xen giãn cách vẫn có sự liên kết. Việc hiểu rõ hiện tượng này sẽ liên quan đến quá trình tìm hiểu cấu trúc hội thoại. Muốn vậy, chúng ta còn cần liên hệ hình thức nói này với văn hoá, tập quán, tâm lý của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. Bởi trên thực tế lối nói này là do các quy tắc xã hội, vị thế xã hội, phong tục… của những người tham gia giao tiếp đảm bảo cho nó điều kiện xuất hiện. - 17 -
  17. Trong nghiên cứu cấu trúc hội thoại, một đơn vị quan trọng tiếp theo đó là cặp thoại. Trong hội thoại, các hành vi ngôn ngữ không đứng độc lập mà liên hệ với nhau khá chặt chẽ, hành vi này kéo theo sự xuất hiện và tồn tại hành vi kia; tương tự lượt lời này kéo thao sự xuất hiện và tồn tại của lượt lời kia. Sự liên hệ chặt chẽ giữa các lượt lời như vậy tạo nên khái niệm cặp thoại. Trong một cặp thoại, lượt lời thứ nhất có chức năng định hướng cho lượt lời thứ hai, do đó cấu trúc tổ chức các lượt lời trong cặp thoại thường phải tuân theo những quy tắc chặt chẽ. Cặp thoại thường bao gồm hai phát ngôn có quan hệ trực tiếp với nhau, giữa chúng tồn tại một sự liên kết ngầm ẩn nhưng lại rất khăng khít: một kiểu phát ngôn đòi hỏi một kiểu phát ngôn hồi đáp riêng tương ứng: hỏi - đáp; chào - chào; đề nghị - đáp ứng; ra lệnh - thi hành… Hai phát ngôn trong cặp thoại sẽ do hai người khác nhau tạo ra, có thể gọi là vế thứ nhất và vế thứ hai (theo cách gọi của tác giả Nguyễn Thiện Giáp). Tuy nhiên, do chủ đề, tính chất và nhiều yếu tố khách quan khác nhau mà hai vế này có thể đứng liền kề nhau hoặc cách xa nhau, tức là bị xen giữa bởi một cặp thoại khác. Khoảng cách của hai vế trong một cặp thoại có thể được xác định thậm chỉ bởi ba, bốn cặp thoại, song trên thực tế số lượng cặp thoại xen giữa phải đảm bảo không làm đối tượng nghe quên đi vế đầu tiên của cặp thoại bị giãn cách. Bên cạnh đó cũng cần thấy rằng, trong một cuộc thoại không phải tất cả các cặp thoại đều có chung một giá trị, vai trò. Tuỳ theo chủ đề của cuộc thoại mà các cặp thoại có thể được phân thành cặp thoại chính yếu và thứ yếu (có tác giả còn gọi là cặp thoại chủ hướng và cặp thoại củng cố). Có thể hiểu một cách đơn giản rằng, cặp thoai chính yếu sẽ có nhiệm vụ hướng vào chủ đề của cuộc thoại; còn cặp thoại thứ yếu chỉ có tác dụng bổ sung thông tin, củng cố cho cặp thoại chính yếu. Ngoài ra, các cặp thoại thứ yếu còn có tác dụng tạo lập và duy trì các mối quan hệ giao tiếp, không khí giao tiếp trong hội thoại, do đó các cặp thoại mở đầu hay kết thúc một cuộc thoại thường là các cặp thoại thứ yếu. Khi nghiên cứu các loại cặp thoại này, mặc dù chúng không đóng vai trò lớn làm nên nội dung chính của hội thoại song lại rất có ý nghĩa khi nghiên cứu các vấn đề liên quan đến phong tục, tập quán, tâm lý người sử dụng thông qua hội thoại. Tuy nhiên, trong các cuộc thoại không phải bao giờ cũng có đầy đủ cả cặp thoại chính yếu và thứ yếu; nhiều trường hợp các cặp thoại trong cuộc thoại đều bình đẳng với nhau, cùng nói về một chủ đề chung theo một đích nhất định. Cũng cần nói thêm rằng, trong - 18 -
  18. trường hợp này việc tổ chức, sắp xếp các cặp thoại rất có thể lại nhằm một ý nghĩa ngầm ẩn nào đó, ý nghĩa đó có thể nằm ngoài cấu trúc ngôn ngữ, thuộc về lĩnh vực xã hội, tâm lý… Xét về mối quan hệ giữa hai lượt lời trong cặp thoại, thường thì lượt lời thứ nhất sẽ có/đòi hỏi sự xuất hiện của lượt lời thứ hai tương ứng, “ưa dùng”, hoặc cũng có thể ngược lại xuất hiện lượt lời không như mong muốn là lượt lời “ít dùng”. Những lượt lời “ưa dùng” thường gồm cấu trúc ngôn ngữ có tính khuôn mẫu, nghi thức thường thấy, thì ngược lại, lượt lời “ít dùng” thường có cấu trúc phức tạp hơn mà hiệu quả giao tiếp lại không cao. Tuy nhiên, loại lượt lời này còn được gọi là lượt lời “được đánh dấu” do nó có khả năng tiềm ẩn sự xuất hiện một cuộc thoại mới hoặc báo hiệu sự tiếp diễn của cuộc thoại. Cũng như vậy, lượt lời “ưa dùng” có thể gọi là lượt lời “không được đánh dấu” do nó báo hiệu sự kết thúc hoặc sắp kết thúc cuộc thoại đó. Trong thực tế hội thoại, những lượt lời ưa dùng thường thấy như: đề nghị - đáp ứng; xin lỗi - chấp nhận; mời - nhận lời…; trong khi đó những lượt lời “ít dùng” thường gặp như: yêu cầu - từ chối; buộc tội - thanh minh; ra lệnh - không thi hành… Bên cạnh các lượt lời chủ yếu như trên, trong thực tế giao tiếp còn có thể xuất hiện một loại lượt lời đặc biệt nữa, đó là lượt lời chêm xen. Loại lượt lời này có thể có nội dung hoàn toàn không tương thích với chủ đề hội thoại song nó lại được coi là cần thiết trong những không gian và thời gian cụ thể nhất định. Việc tạo ra lời chêm xen có thể do người đang trực tiếp giữ lượt lời tạo nên, cũng có thể do người kia tạo nên, nhưng nó có tác dụng góp phần duy trì không khí hội thoại, hoặc để bào chữa cho một hiện tượng, sự kiện nào vừa chen ngang cuộc thoại, cũng có thể nó nhằm củng cố cho một nội dung được bàn đến trong hội thoại. Sự xuất hiện của những lời chêm xen này đặc biệt hữu ích trong trường hợp cuộc hội thoại giữa những người không đối diện trực tiếp, như gọi điện thoại,… Mặt khác trong nghiên cứu hội thoại, nhiều trường hợp lời chêm xen còn là dụng ý của người giao tiếp, là một trong các chiến lược giao tiếp quan trọng. 1.2.3. Một số vấn đề về “phân tích diễn ngôn hội thoại” 1.2.3.1. Ngữ cảnh Có thể nói, ngữ cảnh là một trong những nhân tố giao tiếp quan trọng không thể bỏ qua trong phân tích diễn ngôn, đặc biệt là phân tích diễn ngôn hội thoại. Cho đến nay cũng còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về ngữ cảnh. Theo tác giả David Nunan, ngữ cảnh có nhiệm vụ - 19 -
  19. quy chiếu tình hướng gây ra diễn ngôn và tình huống trong đó diễn ngôn được gắn vào. Theo đó ngữ cảnh bao gồm hai kiểu: một là ngữ cảnh ngôn ngữ, tức là gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ bao quanh hoặc đi kèm với sản phẩm diễn ngôn đang được phân tích; hai là kiểu ngữ cảnh phi ngôn ngữ, bao gồm tất cả các yêu tố ngoài ngôn ngữ tạo nên môi trường nền rộng mà diễn ngôn xuất hiện như các kiểu sự kiện giao tiếp, đề tài, mục đích giao tiếp, những người tham dự… và những hiểu biết cơ sở, những giả định làm cơ sở cho sự kiện giao tiếp. Một tác giả khác cũng dành nhiều thời gian nghiên cứu về Dụng học và phân tích hội thoại, tác giả Nguyễn Thiện Giáp thì lại chủ trương phân biệt ngữ cảnh với hoàn cảnh nói năng. Theo đó, tác giả quan niệm rằng, ngữ cảnh là những từ bao quanh hay đi kèm theo một từ, tạo cho nó tính xác định về nghĩa; trong khi đó, hoàn cảnh nói năng lại được hiểu là tình huống, bối cảnh phi ngôn ngữ mà từ xuất hiện: được giải thích bằng các thông số như ai nói, nói bao giờ, nói ở đâu, nói với ai và vì sao nói. Ngoài ra, còn có một nhóm các tác giả quan niệm ngữ cảnh bao gồm ngữ cảnh tình huống (context of situation) và ngữ cảnh văn hoá (context of culture). Trong đó, ngữ cảnh tình huống được hiểu là ngữ cảnh của một hiện tượng ngôn ngữ, của một trường hợp văn bản cụ thể. Nói cách khác, ngữ cảnh tình huống chính là thế giới xã hội, tâm lý mà trong một thời điểm nhất định ở đó người ta sử dụng ngôn ngữ. Ngữ cảnh tình huống có thể bao gồm sự hiểu biết về vị thế của những người tham gia giao tiếp, sự hiểu biết về không gian, thời gian giao tiếp, đồng thời nó còn bao gồm cả sự chấp nhận ngầm của các bên tham gia giao tiếp về tất cả những quy ước, tiền đề… được coi là đương nhiên trong cộng đồng có người nói và người nghe. Khác với tất cả những yếu tố trên, ngữ cảnh văn hoá được hiểu là phân tích ngữ cảnh của ngôn ngữ với tư cách một hệ thống, điều đó cũng có nghĩa là ngữ cảnh văn hoá sẽ bao gồm hàng loạt các nhân tố văn hoá bên ngoại sự kiện giao tiếp như phong tục, tập quán, các chuẩn mực xã hội, lịch sử, tri thức nền về tự nhiên, chính trị…; tức là toàn bộ những yếu tố tạo nên nền văn hoá của cộng đồng dân tộc của các bên tham gia giao tiếp và của sự kiện ngôn ngữ đang diễn ra. Như vậy có thể thấy, các tác giả theo hướng này đều cho rằng ngữ cảnh tình huống hay ngữ cảnh văn hoá đều là những hiện tượng phi ngôn ngữ. Cũng bởi vậy, người ta chú ý đến một khái niệm nữa là văn cảnh. Theo đó văn cảnh được hiểu là các yếu tố ngôn ngữ bao quanh hoặc đi kèm với hiện tượng ngôn ngữ đang xét. Tức là nếu ta xét một từ thì văn - 20 -
  20. cảnh của nó sẽ là các từ bao quanh nó; nếu ta xét một câu thì văn cảnh của nó sẽ là những câu đằng trước hay theo sau nó. Tác giả Đỗ Hữu Châu khi bàn đến khái niệm ngữ cảnh còn đưa ra một khái niệm “ngữ huống giao tiếp”. Theo tác giả, ngữ cảnh là một khái niệm động, do đó khi tất cả các yếu tố tạo nên ngữ cảnh có sự tác động tổng hợp ở vào một thời điểm nhất định của cuộc giao tiếp và được nhân vật giao tiếp ý thức được thì tạo nên ngữ huống giao tiếp. Thông qua ngữ huống mà ngữ cảnh chi phối diễn ngôn; có thể nói rõ hơn tức là, bất kỳ sự thay đổi nào của các yếu tố tạo nên ngữ cảnh được người đang giao tiếp chú ý và hành động theo thì sẽ tạo nên ngữ huống giao tiếp. Bên cạnh đó, tác giả này cũng quan niệm ngữ cảnh được hiểu theo nghĩa khá rộng: ngữ cảnh bao gồm các nhân tố có mặt trong một cuộc thoại nhưng nằm ngoài diễn ngôn. Theo đó, ông cho rằng ngữ cảnh sẽ bao gồm rất nhiều yếu tố như nhân vật giao tiếp, hiện thực ngoài diễn ngôn (đề tài diễn ngôn - thế giới khả hữu và hệ quy chiếu, hoàn cảnh giao tiếp, thoại trường, ngữ huống giao tiếp). Đến đây có thể thấy, mặc dù là một khái niệm quan trọng và thường gặp trong phân tích diễn ngôn, song ngữ cảnh vẫn được quan niệm theo nhiều hướng khác nhau tuỳ theo góc độ của người nghiên cứu. Tuy nhiên tựu trung lại có thể hiểu ngữ cảnh theo hai cách: Theo nghĩa rộng, ngữ cảnh bao gồm toàn bộ các yếu tố ngôn ngữ và phi ngôn ngữ bao quanh, làm nền và cũng quy định sự xuất hiện và tồn tại của sự kiện giao tiếp; và theo nghĩa hẹp, ngữ cảnh chỉ được hiểu là toàn bộ các yếu tố ngôn ngữ bao quanh hay đi kèm theo sự kiện ngôn ngữ đang được xét. Như vậy, tuỳ theo mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và góc độ nghiên cứu mà có thể lựa chọn và sử dụng khái niệm ngữ cảnh theo những cách khác nhau. 1.2.3.2. Đặc điểm các nhân vật giao tiếp Trong một cuộc thoại, nhân vật giao tiếp có thể được hiểu là những người tham gia giao tiếp, tương tác với nhau bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, phát ngôn của cuộc thoại. Các nhân vât giao tiếp sẽ được xác định vai giao tiếp ngay từ khi bắt đầu cuộc thoại, và đặc điểm các vai giao tiếp này có thể được thay đổi trong tiến trình hội thoại. Các nhân vật giao tiếp được quy định, ràng buộc lẫn nhau bởi một quan hệ chặt chẽ, đó là quan hệ liên nhân. Mối quan hệ này được xét theo hai trục, đó là trục dọc - trục vị thế xã hội (còn gọi là trục quyền lực) và trục ngang - trục thân sơ. Trước hết, ta cần biết rằng vị thế xã - 21 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2