intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Khảo sát thành ngữ tiếng Việt trong sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 12

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:196

52
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Việt trong nhà trường nói chung và việc giảng dạy thành ngữ tiếng Việt nói riêng. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Khảo sát thành ngữ tiếng Việt trong sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 12

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NHUNG KHẢO SÁT THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT TRONG SÁCH GIÁO KHOA TỪ LỚP 1 ĐẾN LỚP 12 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội, năm 2008
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NHUNG KHẢO SÁT THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT TRONG SÁCH GIÁO KHOA TỪ LỚP 1 ĐẾN LỚP 12 LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : GS.TS. Nguyễn Văn Khang Hà Nội, năm 2008 2
  3. MỤC LỤC TRANG Mở đầu 6 1. Lí do chọn đề tài 6 2. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt 8 3. Đối tƣợng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9 4. Phạm vi tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 10 5. Ý nghĩa của đề tài 11 6. Cấu trúc của luận văn 11 Chương 1 : Cơ sở lí thuyết về thành ngữ 12 1. Quan niệm về thành ngữ 12 2. Phân biệt thành ngữ với các đơn vị khác 13 3. Phân loại thành ngữ 20 Tiểu kết 26 Chương 2 : Bức tranh chung về thành ngữ trong sách giáo khoa 27 1. Một số vấn đề về thành ngữ trong sách giáo khoa 27 1.1. Khái quát về tiếng Việt trong sách giáo khoa 27 1.2. Quan niệm về thành ngữ trong sách giáo khoa 29 1.2.1. Quan niệm về thành ngữ trong sách giáo khoa cũ 29 1.2.2. Quan niệm về thành ngữ trong sách giáo khoa mới 33 1.2.3. So sánh quan niệm về thành ngữ trong sách giáo khoa cũ 37 và mới 2. Sự xuất hiện của thành ngữ trong sách giáo khoa 41 2.1. Các dạng xuất hiện của thành ngữ trong sách giáo khoa 42 2.1.1. Thành ngữ xuất hiện trong các văn bản của sách giáo khoa 43 2.1.2. Thành ngữ xuất hiện dƣới dạng làm ngữ liệu trong sách 54 giáo khoa 3
  4. 2.1.3. Các dạng bài tập về thành ngữ trong sách giáo khoa 63 2.1.4. Thành ngữ xuất hiện trong lời dẫn, bài viết của các tác 68 giả sách giáo khoa 2.1.5. Thành ngữ xuất hiện trong phần chú thích của các từ ngữ 69 khác 2.1.6. Nhận xét chung về các dạng xuất hiện của thành ngữ 69 trong sách giáo khoa 2.2. Phân loại thành ngữ trong sách giáo khoa theo tiêu chí Hán 71 Việt / phi Hán Việt 2.3. Phân loại thành ngữ trong sách giáo khoa theo cấp học 77 3. Khảo sát các đặc điểm về cấu trúc và ý nghĩa của các thành ngữ 83 trong sách giáo khoa 3.1. Đặc điểm về cấu trúc của các thành ngữ trong sách giáo khoa 83 3.2. Đặc điểm về ý nghĩa của các thành ngữ trong sách giáo khoa 88 3.3. Biến thể của thành ngữ trong sách giáo khoa 92 Tiểu kết 95 Chương 3 : Cách giải thích thành ngữ trong sách giáo khoa và đề 97 xuất một số ý kiến về việc dạy học thành ngữ trong nhà trường phổ thông 1. Cách giải thích thành ngữ của sách giáo khoa 97 1.1. Số lƣợng các thành ngữ đƣợc giải thích trong sách giáo khoa 97 1.2. So sánh cách giải thích thành ngữ của sách giáo khoa với một 103 số từ điển khác 2. Đề xuất một số ý kiến về việc dạy học thành ngữ trong nhà 124 trƣờng phổ thông Tiểu kết 131 Kết luận 133 Tài liệu tham khảo 135 Nguồn tư liệu 138 4
  5. Phụ lục : Danh sách các thành ngữ trong sách giáo khoa 139 5
  6. QUY ƢỚC VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các kí hiệu viết tắt nhƣ sau : SGK : Sách giáo khoa TH : Tiểu học THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông 6
  7. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học Tiếng Việt trong nhà trƣờng nói chung là vấn đề quan tâm không chỉ của ngành Giáo dục mà là của cả xã hội. Nhƣ ta đã biết, tiếng Việt là tiếng phổ thông, là ngôn ngữ quốc gia, là ngôn ngữ giao tiếp của tất cả các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam với nhau. Nhƣ vậy, tiếng Việt có một vai trò cực kì quan trọng trong đời sống xã hội của đất nƣớc “Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trƣờng và cơ sở giáo dục khác” [Luật Giáo dục, 2005, Điều 7]. Do đó, Tiếng Việt là một môn học bắt buộc đối với tất cả các em học sinh trong cả nƣớc ở mọi cấp học. Và môn học này không chỉ học ở một cấp nào mà các em phải học cho đến tận đại học. Vai trò của môn học này có thể xem xét một cách cụ thể nhƣ sau : “Với tƣ cách là một môn học, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những tri thức ngôn ngữ học, hệ thống tiếng Việt, quy tắc hoạt động và những sản phẩm của nó trong mọi hoạt động giao tiếp. Mặt khác, tiếng Việt là một công cụ giao tiếp và tƣ duy, nên môn Tiếng Việt còn đảm nhận thêm một chức năng kép mà các môn học khác không có. Đó là chức năng trang bị cho học sinh công cụ để giao tiếp : tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trƣờng.” [1, tr. 7]. Do có một vị trí quan trọng nhƣ vậy nên việc dạy học tiếng Việt trong nhà trƣờng phổ thông cần phải đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và cần có nhiều sự quan tâm hơn nữa của các nhà khoa học cũng nhƣ của xã hội nói chung. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi muốn nghiên cứu đến một khía cạnh nhỏ của việc dạy học tiếng Việt trong nhà trƣờng phổ thông. Đó là việc dạy học thành ngữ trong trƣờng phổ thông và biểu hiện cụ thể là việc khảo sát các thành ngữ trong SGK Tiếng Việt TH (từ lớp 1 đến lớp 5) và Ngữ văn THCS và THPT (từ lớp 6 đến lớp 12). Sở dĩ chọn thành ngữ là đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này là vì : – Thành ngữ trong mỗi ngôn ngữ có một vị trí rất đặc biệt. Là một bộ phận quan trọng của từ vựng, thành ngữ là nơi thể hiện rất rõ các đặc trƣng văn hoá, dân tộc trong ngôn ngữ : “Nếu coi ngôn ngữ dân tộc là tinh thần của 7
  8. dân tộc thì cũng có thể nói thành ngữ (tục ngữ, ca dao, dân ca…) là các hình thức biểu hiện khác nhau của bản sắc văn hoá dân tộc. Trong thành ngữ, chúng ta có thể tìm thấy những đặc điểm riêng của tƣ duy dân tộc, quan điểm thẩm mĩ, đạo lí làm ngƣời, luật đối nhân xử thế, lối sống, cách nghĩ, cách cảm cũng nhƣ thái độ đối với cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn.” [34, tr. 5]. Về mặt văn hoá, thành ngữ chính là nơi thể hiện sâu sắc nhất vốn văn hoá của một dân tộc. Cách nói năng, cách suy nghĩ, tƣ duy của một dân tộc biểu hiện rõ nhất trong vốn từ ngữ của họ mà đặc biệt là trong các thành ngữ. Chính vì điều này mà khi nghiên cứu thành ngữ, tức là chúng ta cũng đã nghiên cứu đƣợc một phần rất lớn của ngôn ngữ. Do đó, việc nhận diện đúng và hiểu đúng thành ngữ là rất quan trọng đối với mọi ngƣời. Đối với học sinh điều này càng quan trọng. Giúp các em tiếp nhận đúng các thành ngữ tiếng Việt cũng nhƣ các đơn vị kiến thức khác về tiếng Việt là một trong những hoạt động nhằm giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt. Vì vậy, sự xuất hiện của các thành ngữ trong SGK cũng không thể tuỳ tiện mà phải có một sự trình bày hợp lí và khoa học. – Thành ngữ tiếng Việt xuất hiện trong SGK khá nhiều : trƣớc hết, thành ngữ đƣợc học với tƣ cách là một đơn vị kiến thức bắt buộc nhƣ từ ghép, từ láy,… của phân môn Tiếng Việt trong nhà trƣờng ; thứ hai, thành ngữ xuất hiện rất nhiều trong các văn bản văn học đƣợc trích dẫn trong SGK Ngữ văn ; thứ ba, thành ngữ đƣợc các tác giả sử dụng làm ngữ liệu rất nhiều trong SGK với các dạng xuất hiện rất phong phú. Ngoài ra, không chỉ trong SGK Ngữ văn, mà trong SGK của các môn học khác nhƣ Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân,… cũng có thể có sự xuất hiện của thành ngữ. Nhƣ vậy, thành ngữ là một đơn vị từ vựng quan trọng với học sinh phổ thông. Và việc tìm hiểu xem các cách trình bày về thành ngữ trong SGK đã hợp lí hay chƣa là một vấn đề cần thiết. – Một lí do nữa để chúng tôi tiến hành đề tài này là chúng tôi muốn tìm hiểu xem các thành ngữ xuất hiện trong SGK có bổ sung kiến thức nào mới cho học sinh hay không. Việc đƣa các thành ngữ vào SGK và việc giải thích các thành ngữ tiếng Việt trong SGK đã hợp lí hay chƣa, và có phù hợp với mục tiêu dạy học tiếng Việt trong nhà trƣờng hay không. 8
  9. – Cuối cùng, từ những phân tích, nhận xét về các vấn đề thành ngữ trong SGK, chúng tôi muốn đƣa ra một số ý kiến về việc dạy học thành ngữ trong SGK hiện nay, với mong muốn góp phần vào việc nâng cao hơn nữa chất lƣợng dạy học tiếng Việt trong nhà trƣờng phổ thông. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT Về thành ngữ trong tiếng Việt đã có rất nhiều công trình nghiên cứu dƣới các dạng khác nhau. Tuy nhiên, với những điều kiện khác nhau, mục đích khác nhau, thành ngữ đƣợc xem xét, luận giải theo các phƣơng thức và mức độ khác nhau. Các công trình về thành ngữ có thể phân chia thành một số dạng nhƣ sau : – Nghiên cứu thành ngữ trong một cƣơng vị nhất định (trong sự phân định với các đơn vị khác nhƣ tục ngữ, quán ngữ, từ ghép,…). Đi theo hƣớng này, thành ngữ đƣợc nghiên cứu hầu hết ở các công trình về từ vựng học, ngữ pháp học hoặc đƣợc tách riêng ra thành các bài nghiên cứu về vấn đề ranh giới giữa các đơn vị từ vựng. Các công trình tiêu biểu có thể kể đến ở đây nhƣ các công trình của Nguyễn Văn Tu (1960, 1968, 1976) ; Đỗ Hữu Châu (1962, 1981, 1986) ; Nguyễn Kim Thản (1963) ; Nguyễn Thiện Giáp (1972, 1985) ; Hồ Lê (1976),… – Một số tác giả khác thì lại tách riêng một vài loại thành ngữ ra để nghiên cứu mặt cấu trúc – hình thái và đặc điểm ngữ nghĩa của chúng. Các công trình có thể kể đến ở đây là của Trƣơng Đông San (1974), Hoàng Văn Hành (1976) tập trung nghiên cứu thành ngữ so sánh và Bùi Khắc Việt (1981) và các tác giả cuốn Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ (1994) tập trung miêu tả cả thành ngữ đối lẫn thành ngữ so sánh. – Vấn đề đƣợc quan tâm nghiên cứu phong phú hơn cả là việc nghiên cứu các mặt riêng rẽ của thành ngữ tiếng Việt nhƣ nguồn gốc hình thành và phát triển thành ngữ, các vấn đề ngữ nghĩa của thành ngữ, các bình diện văn hoá của thành ngữ, biến thể của thành ngữ, phƣơng pháp nghiên cứu thành ngữ,… Các công trình nghiên cứu theo hƣớng này có Nguyễn Đức Dân 9
  10. (1986) ; Phan Xuân Thành (1990, 1992, 1993), Vũ Quang Hào (1992) ; Nguyễn Nhƣ Ý (1993) ; Nguyễn Văn Khang (1994),… – Gần đây, nổi lên xu hƣớng nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt trong việc đối chiếu với các thành ngữ nƣớc ngoài. Ví dụ : Đối chiếu thành ngữ Nga – Việt trên bình diện giao tiếp (Nguyễn Xuân Hoà, 1996) ; Ngữ nghĩa của những thành ngữ và tục ngữ có từ chỉ thành tố động vật trong tiếng Anh (trong sự so sánh với tiếng Việt) (Phan Văn Quế, 1996) ; Thành ngữ so sánh có thành tố chỉ động vật tiếng Việt – Nga – Anh (Hoàng Công Minh Hùng, 2001) ; Đặc điểm của thành ngữ tiếng Nhật (trong sự liên hệ với thành ngữ tiếng Việt) (Ngô Minh Thuỷ, 2006),… Nhƣ vậy, có thể nói các công trình nghiên cứu về thành ngữ nói chung và thành ngữ tiếng Việt nói chung rất phong phú và đã có thời gian nghiên cứu khá dài. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thành ngữ nhƣ một đối tƣợng dạy học trong nhà trƣờng phổ thông thì ít đƣợc nghiên cứu, nhất là việc khảo sát, nghiên cứu sự xuất hiện của các thành ngữ trong SGK một cách hệ thống. Chính vì vậy mà luận văn này của chúng tôi muốn hƣớng tới một vấn đề quan trọng, chƣa đƣợc nghiên cứu, đó là việc khảo sát sự xuất hiện của các đơn vị thành ngữ trong SGK Ngữ văn nói chung và SGK Tiếng Việt nói riêng để thấy đƣợc đặc điểm của việc dạy học thành ngữ tiếng Việt hiện nay trong nhà trƣờng phổ thông. 3. ĐỐI TƢỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Mặc dù quan niệm về thành ngữ trong tiếng Việt chƣa hoàn toàn thống nhất giữa các nhà khoa học nhƣng vẫn có thể có những dấu hiệu đặc trƣng để nhận ra chúng. Do đó, đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này là những đơn vị đƣợc coi là thành ngữ (những cụm từ cố định có hình thức cấu tạo là cụm từ hoặc cụm chủ vị, tƣơng đƣơng với một từ hoặc một cụm từ, có chức năng định danh và có đặc trƣng cố định, ví von, bóng bẩy về ý nghĩa) mà chúng tôi khảo sát đƣợc trong SGK. 3.2. Mục đích nghiên cứu 10
  11. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lƣợng giảng dạy tiếng Việt trong nhà trƣờng nói chung và việc giảng dạy thành ngữ tiếng Việt nói riêng. Để đạt đƣợc mục đích ấy, chúng tôi sẽ tiến hành trong luận văn của mình các công việc nhƣ sau : khảo sát các bài dạy về lí thuyết thành ngữ trong SGK ; tìm hiểu các dạng xuất hiện của thành ngữ trong SGK ; phân loại các thành ngữ này, khảo sát đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của chúng ; tìm hiểu cách giải thích ý nghĩa các thành ngữ này của các tác giả SGK và cuối cùng chúng tôi muốn xem xét việc trình bày các kiến thức về thành ngữ trong SGK đã phù hợp với thực tế giảng dạy đơn vị ngôn ngữ này trong nhà trƣờng chƣa và đƣa ra một số ý kiến đề xuất về vấn đề dạy học thành ngữ trong SGK. 3.3. Nhiệm vụ của luận văn Nhiệm vụ mà chúng tôi đặt ra trong luận văn này là : – Tìm hiểu khái niệm thành ngữ tiếng Việt trong SGK. – Cung cấp danh mục các thành ngữ trong SGK và cách giải thích chúng của các tác giả SGK. – Đánh giá việc đƣa các thành ngữ và cách giải thích chúng trong SGK. – Đề xuất ý kiến về việc đƣa các thành ngữ vào SGK phổ thông và việc giải thích chúng. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phạm vi nghiên cứu Thành ngữ có thể xuất hiện trong SGK của nhiều môn học nhƣ Ngữ văn, Lịch sử, Giáo dục công dân,… Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi không có điều kiện khảo sát toàn bộ SGK của các môn học mà chỉ có thể khảo sát sự xuất hiện thành ngữ trong SGK Tiếng Việt ở TH và SGK Ngữ văn ở THCS và THPT. Do đó, phạm vi tƣ liệu của chúng tôi trong luận văn này gồm : SGK Tiếng Việt TH chƣơng trình mới (từ lớp 1 đến lớp 5) SGK Ngữ văn (THCS và THPT) chƣơng trình mới từ lớp 6 đến lớp 12. Các đối tƣợng thành ngữ trong các cuốn SGK này đƣợc chúng tôi tiến hành khảo sát trên phạm vi nhƣ sau : Chúng tôi khảo sát trên toàn bộ các cuốn SGK 11
  12. Tiếng Việt và Ngữ văn đã nêu ở trên. Trong từng cuốn sách, ngoài việc khảo sát những văn bản có trong sách, chúng tôi còn khảo sát tất cả các mục và các nội dung khác để kiểm tra sự các dạng xuất hiện của thành ngữ trong SGK. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các tƣ liệu liên quan đến thành ngữ tiếng Việt nhƣ các từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, các từ điển giải thích thành ngữ,… Có một điều cần lƣu ý là do trong tiếng Việt còn chƣa có sự thống nhất hoàn toàn về việc xác định một số đơn vị ngôn ngữ cố định là thành ngữ hay không phải là thành ngữ nên chúng tôi đã chọn cuốn Từ điển thành ngữ Việt Nam của Nguyễn Nhƣ Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành, NXB Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 1994 làm cơ sở để xác định các đơn vị thành ngữ trong SGK, mặc dù có thể trong cuốn sách này còn một số đơn vị mà giới nghiên cứu Việt ngữ học chƣa hoàn toàn thống nhất là thành ngữ hay tục ngữ. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau : – Phƣơng pháp thống kê – Phƣơng pháp phân tích, miêu tả – Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu. 5. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI – Về mặt lí luận : thông qua việc khảo sát các thành ngữ trong SGK, luận văn muốn góp phần vào việc nghiên cứu các vấn đề về thành ngữ tiếng Việt trong SGK và việc dạy và học thành ngữ nói riêng, việc dạy và học từ vựng tiếng Việt nói chung trong SGK. – Về mặt thực tiễn : Thành ngữ là một bộ phận quan trọng của hệ thống tiếng Việt, vì vậy việc khảo sát sự xuất hiện của thành ngữ trong SGK có tác dụng làm rõ thêm vai trò của thành ngữ trong tiếng Việt cũng nhƣ trong đời sống. Kết quả khảo sát của luận văn có thể góp phần vào việc dạy học thành ngữ với tƣ cách là một đơn vị từ vựng tiếng Việt trong nhà trƣờng nói riêng và việc dạy học tiếng Việt trong nhà trƣờng nói chung. 12
  13. 6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Luận văn của chúng tôi, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, gồm 3 chƣơng và 1 phần phụ lục nhƣ sau : Chƣơng 1 : Cơ sở lí thuyết về thành ngữ Chƣơng 2 : Bức tranh chung về thành ngữ tiếng Việt trong SGK Chƣơng 3 : Cách giải thích thành ngữ trong SGK và đề xuất một số ý kiến về vấn đề dạy học thành ngữ trong nhà trƣờng phổ thông Phụ lục : Danh sách các thành ngữ trong SGK 13
  14. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ THÀNH NGỮ 1. QUAN NIỆM VỀ THÀNH NGỮ Thành ngữ là gì ? Đây là một câu hỏi không dễ trả lời. Trên thực tế, đã có rất nhiều công trình giải đáp về vấn đề này và không phải là chúng ta đã có đƣợc một đáp án hoàn toàn giống nhau cho một câu hỏi tƣởng nhƣ đơn giản. Thành ngữ trong tiếng Việt là một đơn vị nằm trong mối quan hệ đa chiều, do đó xác định đƣợc thành ngữ là một vấn đề tƣơng đối phức tạp. Để có thể có những lí giải hợp lí về thành ngữ, trƣớc hết, chúng ta phải giải đáp đƣợc những vấn đề còn đang tồn tại trong tiếng Việt nhƣ : – Mối quan hệ giữa thành ngữ và từ ghép. – Mối quan hệ giữa thành ngữ và các bộ phận khác của cụm từ cố định nhƣ : tục ngữ, quán ngữ,… – Mối quan hệ giữa thành ngữ và cụm từ tự do. Giải đáp đƣợc những vấn đề này thì chúng ta sẽ nhận diện đƣợc thành ngữ tiếng Việt. Chúng ta có thể xem qua một số định nghĩa về thành ngữ tiếng Việt của giới Việt ngữ học nhƣ sau : – “Thành ngữ là cụm từ cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập đến một trình độ cao về nghĩa, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra. Những thành ngữ này cũng có tính hình tƣợng hoặc cũng có thể không có. Nghĩa của chúng đã khác nghĩa của những từ nhƣng cũng có thể cắt nghĩa bằng từ nguyên học.” [32, tr. 185]. – “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm.” [12, tr. 77]. – “Theo cách hiểu thông thƣờng, thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái – cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thường ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ.” [13, tr. 25]. 14
  15. – Thành ngữ là : “cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung, khác tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động nhƣ một từ riêng biệt ở trong câu.” [36]. – “Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Nghĩa của chúng có tính hình tƣợng hoặc/ và gợi cảm.” [6, tr. 157]. Nhƣ vậy, từ các định nghĩa trên, chúng tôi nhận thấy, tuy chƣa hoàn toàn thống nhất giữa các ý kiến, nhƣng có một số đặc điểm chung có thể nhận ra ngay là : thành ngữ trƣớc hết là một cụm từ cố định, có cấu trúc và ý nghĩa hoàn chỉnh ; nghĩa của thành ngữ có tính bóng bẩy, gợi cảm, hình tƣợng. Tuy nhiên, đây chỉ là một số đặc điểm chung nhìn từ góc độ lí thuyết, nhƣng khi đi vào thực tế, trong việc nhận diện, xếp loại các đơn vị thành ngữ thì các ý kiến lại rất khó thống nhất và còn rất nhiều nội dung phải xử lí. Nhƣ trên đã nói, trong thực tế, để có thể dễ dàng nhận diện thành ngữ thì chúng ta phải phân biệt đƣợc thành ngữ với các đơn vị khác nhƣ từ ghép, tục ngữ, quán ngữ, cụm từ tự do,… trên hai phƣơng diện : về cấu trúc và về ý nghĩa. 2. PHÂN BIỆT THÀNH NGỮ VỚI CÁC ĐƠN VỊ KHÁC 2.1. Thành ngữ và từ ghép Thành ngữ và từ ghép đều là những đơn vị có sẵn, mang chức năng định danh và cùng thuộc nội bộ cụm từ cố định. Tuy giữa hai loại đơn vị này vẫn có những tranh chấp nhất định. Chẳng hạn, đối với cùng một loại đơn vị nhƣ : trẻ măng, dẻo kẹo, đen thui, có tác giả xếp vào cụm từ cố định nhƣ Trƣơng Đông San (1974), Nguyễn Thiện Giáp (1985), có tác giả lại xếp vào từ nhƣ Nguyễn Văn Tu (1976), Đỗ Hữu Châu (1981). Tuy nhiên, dựa vào đặc điểm nội dung, hình thức và thành tố cấu tạo, các nhà nghiên cứu cũng đã vạch đƣợc một ranh giới đủ để phân biệt hai loại đơn vị trên. Trƣớc hết, chúng ta cần tìm hiểu xem thành ngữ là gì và từ ghép là gì, từ đó mới có cơ sở để phân biệt hai loại đơn vị này. Về thành ngữ, có rất nhiều định nghĩa nhƣ : “Cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác tổng số ý nghĩa của 15
  16. các thành tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động nhƣ một từ riêng biệt trong câu” [36, tr. 271] Thành ngữ khác từ ghép ở phạm vi rộng hẹp và mức độ nông sâu trong nội dung ý nghĩa của chúng. Từ ghép nêu khái niệm sự vật chung chung, “thành ngữ không chỉ nêu lên khái niệm về sự vật, về hoạt động, về tính chất hoặc trạng thái, mà còn nói rõ thêm những sự vật và những hoạt động ấy nhƣ thế nào, hoặc những trạng thái ấy đến mức độ nào” [22], “từ ghép là tên gọi thuần tuý, còn thành ngữ là tên gọi gợi cảm của hiện tƣợng nào đó” [12], “quan hệ nội bộ của thành ngữ phức tạp hơn ở từ ghép… có thể phân tích ra hai hoặc trên hai quan hệ ngữ pháp khác nhau” [20], hay “mối quan hệ ngữ pháp trong thành ngữ phức tạp hơn, nhiều bậc hơn, còn ở từ ghép mối quan hệ ngữ pháp đơn giản, ít bậc hơn” [22, tr. 15]. Mối quan hệ phức tạp nói trên có thể bị chi phối bởi tính chất định lƣợng về số lƣợng âm tiết trong mỗi đơn vị. Theo thói quen tâm lí của ngƣời Việt, thành ngữ có thể là một cụm từ có ba âm tiết trở lên còn từ ghép thƣờng có hai âm tiết. Nhƣ vậy, vận dụng kết hợp các tiêu chí, nội dung ngữ nghĩa, hình thức kết cấu và tính phức tạp trong quan hệ ngữ pháp, các nhà nghiên cứu đã phân biệt đƣợc rõ hơn đƣờng ranh giới giữa thành ngữ và từ ghép. Với những đơn vị đƣợc coi là thành ngữ rút gọn : đen như thui > đen thui (Nguyễn Thiện Giáp, 1985) hay thành ngữ so sánh dạng AB (vắng quan hệ từ như) (Trƣơng Đông San, 1974), (Phan Văn Quế, 1995) có lẽ cũng đƣợc xem là những đơn vị thuộc phạm vi từ ghép, hay từ ẩn dụ đƣợc hình thành theo xu hƣớng chuyển hoá từ phạm vi thành ngữ sang, nhƣ quan niệm của các tác giả Nguyễn Văn Mệnh (1986) và Hoành Văn Hành (1976). 2.2. Thành ngữ với quán ngữ Thành ngữ và quán ngữ : Hai loại này có mối quan hệ khá phức tạp. Mặc dù sự khác nhau giữa hai đơn vị này là hiển nhiên song nhiều khi rất khó phân biệt. Bởi cả hai đều thuộc cụm từ cố định với một số đặc điểm gần nhau, chẳng hạn, về số lƣợng âm tiết, tính cố định trong kết cấu, tính thành ngữ, chức năng tạo câu,… 16
  17. Tuy nhiên, vẫn có một số đặc điểm cơ bản nhằm xác định hai đối tƣợng trên. Theo những nghiên cứu của giới Việt ngữ học đó là các đặc điểm nhƣ : tính cố định về hình thái cấu trúc, tính hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa. Theo Trƣơng Đông San, “cụm từ cố định là đơn vị cao nhất của ngôn ngữ, gồm hai thực từ trở nên, cố định về thành phần từ vị và về cấu trúc, đồng thời bền vững về ngữ nghĩa và tính chất tu từ, biểu cảm… Thành ngữ gồm những đơn vị mang nghĩa hình tƣợng chung, trong đó tất cả những từ vị tạo ra nó đều mất nghĩa đen” [26]. Nhƣ vậy, cũng có thể hiểu, nghĩa của thành ngữ là bóng bẩy và biểu cảm, còn nghĩa của các cụm từ cố định khác, trong đó có quán ngữ là không có tính bóng bẩy và biểu cảm. Tác giả Nguyễn Văn Tu thì cho rằng : “quán ngữ là những cụm từ rất gần với cụm từ tự do nhƣng tƣơng đối ổn định về cấu trúc, đƣợc quen dùng mà các từ tạo ra chúng còn giữ tính độc lập, có khi một từ trong đó có thể thay thế bằng một từ khác. Nghĩa của cụm từ đƣợc thể hiện qua nghĩa đen hay nghĩa bóng của những từ, thành tố của chúng” [32, tr. 182]. Trên thực tế, trong nhiều trƣờng hợp, các đặc điểm đƣợc nêu trên đây chƣa thoả mãn yêu cầu của một dấu hiệu đủ để phân biệt thành ngữ với quán ngữ. Chẳng hạn, tính cố định, bền vững về hình thái và cấu trúc là đặc điểm quan trọng nhƣng không chỉ của riêng thành ngữ. Vì vậy, nếu chỉ dựa vào đặc điểm này cũng khó có thể vạch rõ ranh giới giữa thành ngữ với quán ngữ. Ví dụ, rất khó phân biệt tính cố định về hình thái, cấu trúc giữa các loại cấu trúc nhƣ ba chìm bảy nổi, đánh bùn sang ao với những kết cấu nhƣ cực chẳng đã, nói cho cùng, của đáng tội,… Còn đặc điểm tính độc lập / không độc lập của một đơn vị ngôn ngữ vẫn là vấn đề phức tạp trong ngôn ngữ học hiện nay. Nói tính độc lập về nghĩa là nói khi chúng ở ngoài ngữ cảnh. Còn ở trong ngữ cảnh thì dƣờng nhƣ chúng chƣa trở thành một tiêu chí khu biệt thành ngữ với quán ngữ. Ví dụ, không thể nói rằng các yếu tố cấu tạo nên cực chẳng đã có tính độc lập về nghĩa, còn các yếu tố cấu tạo nên một nắng hai sương là không có tính độc lập về nghĩa. 17
  18. Nhƣ vậy, về mặt lí thuyết, các nhà ngôn ngữ học đã chỉ ra những tiêu chí cụ thể nhằm phân định thành ngữ với quán ngữ. Tuy nhiên, tính phức tạp của vấn đề đã dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất, thậm chí trái ngƣợc nhau trong cách xử lí về cùng một hiện tƣợng. Chẳng hạn, trong nhiều kết cấu, Nguyễn Văn Tu cho là quán ngữ thì hầu hết các tác giả đều coi là thành ngữ. Ví dụ : đầu voi đuôi chuột, được voi đòi tiên, giấu đầu hở đuôi, gối đất nằm sương ; hoặc có những đơn vị Trƣơng Đông San cho là quán ngữ thì phần lớn các nhà Việt ngữ học cho là từ ghép, ví dụ : nhà trẻ, núi lửa, năm nhuận. Thực tế trên đây cho thấy, sự khác nhau giữa thành ngữ và quán ngữ không phải ở mức độ chặt – lỏng trong kết cấu hay mức độ bóng bẩy, biểu cảm về nghĩa của chúng. Một hƣớng nghiên cứu khác có chú ý đến chức năng của thành ngữ và quán ngữ đã giải quyết vấn đề phức tạp này. Đó là hƣớng nghiên cứu có ở các tác giả Đỗ Hữu Châu (1981), Nguyễn Thiện Giáp (1985), và nhiều nhà ngôn ngữ học khác nhƣ nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1991),… Theo Đỗ Hữu Châu [3, tr. 71 – 90], trong tiếng Việt có một loại đơn vị gọi là ngữ cố định. Ngữ cố định khác từ ghép và khác cụm từ tự do. Đó là các cụm từ những đã cố định hoá cho nên cũng có tính chất chặt chẽ, sẵn có, bắt buộc, có tính xã hội nhƣ từ. Tác giả cho rằng, các ngữ cố định tƣơng đƣơng với từ về chức năng tạo câu, tƣơng đƣơng với cụm từ về mặt ngữ nghĩa, đồng thời cho rằng do sự cố định hoá, do tính chặt chẽ mà các ngữ cố định ít hay nhiều đều có tính thành ngữ. Về sự phân loại ngữ cố định, theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu, có thể tách những ngữ trung gian với cụm từ tự do thành một loại gọi là quán ngữ, những trƣờng hợp còn lại, tức là những trƣờng hợp trung gian giữa từ phức và các ngữ cố định thực sự đƣợc gọi là thành ngữ. Nhƣ vậy, có thể tóm tắt về cách phân loại của Đỗ Hữu Châu bằng sơ đồ dƣới đây : Sơ đồ 1.1. Quan điểm của Đỗ Hữu Châu về thành ngữ và quán ngữ Cụm từ Cụm từ tự do Cụm từ cố định (ngữ cố định) Quán ngữ (trung gian với cụm từ tự do) Thành ngữ (trung gian với từ phức) 18
  19. Theo Nguyễn Thiện Giáp [12], trong tiếng Việt có một đơn vị gọi là ngữ, tƣơng đƣơng với từ. Các đơn vị gọi là “ngữ” đƣợc chia ra làm 4 loại : 1) Ngữ định danh ; 2) Thành ngữ ; 3) Ngữ láy âm ; 4) Quán ngữ. Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa các loại đơn vị này nhƣ sau : “Ngữ định danh là những cụm từ biểu thị các sự vật, hiện tƣợng hay khái niệm nào đó của thực tế, bao gồm cả những từ thƣờng đƣợc gọi là từ ghép nhƣ : xe đạp, xe máy và những cụm từ thƣờng đƣợc gọi là ngữ cố định nhƣ : máy hơi nước, phương nằm ngang”. “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm” ; “Thành ngữ khác với ngữ định danh ở cả mặt nội dung và cấu trúc cú pháp” ; “Về mặt nội dung, ngữ định danh là tên gọi thuần tuý của sự vật, còn thành ngữ là tên gọi gợi cảm của hiện tƣợng nào đó ; ý nghĩa của thành ngữ luôn có tính cụ thể, không có khả năng diễn đạt đồng thời quan hệ và chủng loại, không có cả diện chung lẫn diện riêng của ý nghĩa nhƣ ngữ định danh, và thành ngữ chỉ hình thành ở những phạm vi mà sự phản ánh đòi hỏi cần có sự bình giá và biểu cảm. Về mặt cấu trúc cú pháp, quan hệ tƣờng thuật tƣờng gặp ở thành ngữ (7%) nhƣng hầu nhƣ không gặp ở ngữ định danh” [12, tr. 77]. Ví dụ : Nói thánh nói tướng, ếch ngồi đáy giếng, chuột sa chĩnh gạo. “Ngữ láy âm là những đơn vị đƣợc hình thành do sự lặp lại hoàn toàn hay lặp lại có sự kèm theo sự biến đổi ngữ âm nào đó của từ đã có. Chúng vừa hài hoà về ngữ âm, vừa có sự gợi tả, ví dụ : tím tím, mơn mởn, láu táu, lẻ tẻ. Đây là đơn vị trung gian giữa ngữ định danh và thành ngữ.”. “Quán ngữ là những cụm từ đƣợc dùng lặp đi lặp lại trong các loại văn bản liên kết, đƣa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó, ví dụ : của đáng tội, nước non gì, nói khí vô phép. Đây là đơn vị trung gian giữa cụm từ tự do và cụm từ cố định”. Có thể tóm tắt quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp bằng sơ đồ sau : Sơ đồ 1.2. Quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp về thành ngữ và quán ngữ Cụm từ Cụm từ tự do Cụm từ cố định (ngữ) 19
  20. Quán ngữ Ngữ định danh Ngữ láy âm Thành ngữ Kết quả nghiên cứu theo hƣớng này cho thấy chính những đặc điểm về chức năng đã tạo nên sự khác biệt giữa thành ngữ và quán ngữ. Cuối cùng, quán ngữ đƣợc xác định là đơn vị có chức năng đƣa đẩy, rào đón, liên kết hoặc nhấn mạnh ý trong các loại ngôn bản khác nhau chứ không có chức năng định danh, gọi tên sự vật nhƣ ở thành ngữ. 2.3. Thành ngữ với tục ngữ Thành ngữ và tục ngữ đều là cụm từ cố định, có cấu trúc chặt chẽ, ổn định, có tính bóng bẩy, gợi tả trong nội dung ngữ nghĩa. Chính những điểm tƣơng đồng này đã làm cho đƣờng ranh giới giữa chúng nhiều khi trở nên mơ hồ, khó phân biệt. Vấn đề này đã đƣợc đề cập đến trong các công trình của nhiều tác giả nhƣ Cù Đình Tú (1973), Nguyễn Thiện Giáp (1975), Nguyễn Văn Tu (1976), Hoàng Văn Hành (1980), Nguyễn Đức Dân (1986), Nguyễn Văn Mệnh (1986), Nguyễn Nhƣ Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1993),… Qua những cách nhìn, cách quan niệm về thành ngữ tiếng Việt của các nhà Việt ngữ học nói trên, có thể thấy, thành ngữ và tục ngữ khác nhau cơ bản ở hai phƣơng diện sau đây : Về hình thức kết cấu, thành ngữ thuộc cụm từ (cấp độ dƣới), còn tục ngữ thuộc câu (cấp độ trên). Do đặc điểm này mà có những quan niệm cho rằng, “thành ngữ chỉ làm bộ phận để tạo câu”, còn “tục ngữ có khả năng tạo thành câu, cũng có khi làm bộ phận để tạo câu” [33], hay “trong thành phần cấu tạo của một số tục ngữ có sự hiện diện của thành ngữ. Chẳng hạn “cơm hàng cháo chợ ai lỡ ăn thì chết”, “chết sông chết suối, không ai chết đuối đọi đèn”” [22, tr. 16]. Về nội dung ngữ nghĩa. Hầu hết các tác giả đều thống nhất với ý kiến cho rằng, thành ngữ có chức năng định danh, tức gọi tên sự vật và miêu tả khái niệm, còn tục ngữ có chức năng thông báo, phản ánh quy luật, nêu kinh nghiệm về sản xuất và đời sống xã hội. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1