Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam
lượt xem 21
download
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam nghiên cứu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam với mong muốn tìm hiểu cụ thể hơn về vấn đề này, đồng thời cũng mong muốn có cái nhìn đầy đủ hơn đối với tác phẩm thơ ca.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------------------------- THÁI THỊ LAN ANH LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG TRONG THƠ VIỆT NAM Chuyên ngành: Ngôn ngữ học LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN HOÀNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
- LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ, và động viên rất quý báu của thầy cô, gia đình, bạn bè và anh chị em đồng nghiệp. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến TS Trần Hoàng, người thầy kính mến đã tận tâm hướng dẫn khoa học, hết lòng giúp đỡ, dạy bảo và luôn động viên tôi. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý thầy cô đã tận tình dìu dắt, truyền dạy kiến thức cho tôi trong thời gian qua. Xin cảm ơn phòng Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm TPHCM đã tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian tôi học tập tại trường. Cảm ơn Ban Giám hiệu và tổ Ngữ Văn trường THPT Trường Chinh, Quận 12, TPHCM đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong công tác. Sau cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn. TPHCM, tháng 11 năm 2010 Thái Thị Lan Anh
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ là một loại chất liệu đặc biệt không thể thiếu trong quá trình sáng tạo văn chương, đặc biệt là thơ ca, bởi các tác phẩm văn chương, trước hết, là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Thơ ca Việt Nam được xem là bức tranh vô cùng phong phú và đa dạng, phản ánh trung thực đất nước, con người Việt Nam qua bao thời đại. Lời thơ cũng chính là tình cảm chân thành, sâu sắc của các tác giả. Các tác giả đã sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng,… của mình. Và thông qua những hình tượng thẩm mĩ, thơ ca đã thể hiện phong phú và linh hoạt những suy tư, diễn biến tình cảm và nhận thức của con người. Văn chương là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Chúng ta tìm hiểu một tác phẩm văn chương không chỉ ở phương diện viết về cái gì mà còn ở phương diện viết như thế nào. Sức sống của những tác phẩm văn chương không thể thiếu những đóng góp ở phương diện viết như thế nào ấy. Do vậy, việc áp dụng những tri thức ngôn ngữ học nói chung và tri thức ngôn ngữ học văn bản nói riêng để tìm hiểu văn bản thơ ca là điều rất cần thiết. Nghiên cứu thơ ca từ góc độ ngôn ngữ học, đặc biệt là ngôn ngữ học văn bản cũng là một hướng nghiên cứu khá mới mẻ. Hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu thơ ca theo hướng này. Chính vì vậy, luận văn của chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam. Đây cũng là một trong những cách để đóng góp cho khoa học chuyên ngành. 2. Lịch sử vấn đề Nhìn chung, cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu thơ ca Việt Nam là dưới góc độ văn học, còn dưới góc độ ngôn ngữ học thì còn khá ít. Tìm hiểu thơ ca dưới góc độ ngôn ngữ học, chúng tôi thấy có một số bài viết và công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: Năm 1985, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội đã giới thiệu với bạn đọc công trình “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” của Phan Ngọc [43]. Công trình gồm có mười chương bàn về các vấn đề như tư tưởng, phương pháp tự sự của Truyện Kiều, Truyện Kiều, tiểu thuyết phân tích tâm lí, một vài vấn đề nhận thức luận chung quanh Truyện Kiều, cách bố cục Truyện Kiều theo yêu cầu của kịch. Trong công trình này, đặc biệt phải kể đến các chương sau cùng: Chương 7 – Câu thơ Truyện Kiều; Chương 8 – Ngôn ngữ Truyện Kiều; Chương 9 – Ngữ pháp Truyện Kiều; Chương 10 – Phong cách học và phân tích văn học. Mặc dù công trình này chủ yếu bàn về mặt phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, không đề cập nhiều đến liên kết liên tưởng, nhưng có một số nhận định rất đáng lưu ý. Chẳng hạn, Phan Ngọc đã khẳng định “…Trong phong cách có nội dung, nhưng nội dung được xây dựng theo cái hình thức riêng thích hợp với phong cách này. Nó có hình thức, nhưng hình thức là để thích hợp với một loại nội dung nhất định, chứ không thích hợp với một
- nội dung khác. Nói khác đi, khi nó nói đến nội dung thì nó nói luôn cả hình thức hóa nội dung, và ngược lại khi nói đến hình thức thì nó nói luôn hình thức này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung đã chọn”. Như vậy, theo ông, khi tìm hiểu một tác phẩm văn học dù dưới bất kì góc độ nào, đều phải chú trọng cả hai mặt nội dung và hình thức. Nghiên cứu liên kết liên tưởng trong thơ ca cũng không ngoại lệ. Năm 1987, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội đã giới thiệu với bạn đọc công trình “Ngôn ngữ thơ” của Nguyễn Phan Cảnh [6]. Công trình gồm mười hai chương. Chương 1 viết về “Ngôn ngữ giao tế và ngôn ngữ nghệ thuật”. Nội dung của chương 2 là Nghệ thuật ngôn ngữ và các loại hình nghệ thuật. Trong chương 3: Ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi, tác giả đã khẳng định “các nhà thơ tư duy trên chất liệu ngôn ngữ”. Chương 4: Các tín hiệu đơn. Chương 5: Cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa hay bản chất các phương thức chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ. Trong chương này, tác giả đã cho rằng “Một văn bản thơ, tuy bao gồm nhiều tín hiệu riêng lẻ với tư cách là những yếu tố tạo thành của tác phẩm, nhưng bản chất nghệ thuật của văn bản lại tùy thuộc một cách rất cơ bản vào phương thức liên tưởng của các tín hiệu ấy. Nói cách khác, nghệ thuật ngôn ngữ trước hết là nghệ thuật tạo những mối liên tưởng giữa các yếu tố riêng lẻ làm thành tác phẩm nhằm sử dụng một cách mỹ học chiều dày của chất liệu ngôn ngữi”. Chương 6 viết về bản chất của các phương thức chuyển nghĩa có tính chất hoán dụ. Trong chương này, Nguyễn Phan Cảnh đã khẳng định “quan niệm tri giác mỹ học như một quá trình, một phạm trù giãn nở, chú trọng đến tính chất động học của nó, lắp ghép chính là phương thức hướng dẫn sự chú ý và liên tưởng của người nhận một cách bắt buộc”. Trong chương 7, tác giả đề cập đến vấn đề nhạc thơ. Chương 8: Nét khu biệt và nét dư trong ngôn ngữ thơ. Chương 9: Thể loại hay ngưỡng âm tiết. Ở chương 10, tác giả chỉ tập trung viết về thể loại thơ lục bát. Chương 11 là vấn đề thơ dịch và dịch thơ. Chương 12 viết về Động học của thi pháp hay sự giãn nở của ngôn ngữ thơ. Có thể nói, công trình Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh là một trong những công trình nghiên cứu thơ ca dưới góc độ ngôn ngữ học rất có giá trị. Tuy nhiên, do tính chất bao quát, trong công trình này, vấn đề liên kết liên tưởng vẫn chưa được tìm hiểu kĩ. Trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 5 – 2000 có bài viết “Vầng trăng từ độ…” của Trần Hoàng [23]. Bài viết này đã đề cập đến những cách biểu đạt vầng trăng dựa trên sự liên tưởng. Tác giả đã khẳng định “sự liên tưởng càng độc đáo càng giàu tính sáng tạo, càng gây được nhiều rung cảm thẩm mĩ ở người đọc”. Đồng thời, tác giả cũng cho rằng “qua cái liên tưởng ấy, ta hiểu được tâm hồn và cá tính của nhà thơ”. Rõ ràng, liên tưởng có vai trò rất quan trọng trong thơ ca. Năm 2006, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã ra mắt bạn đọc công trình “Những lĩnh vực ứng dụng của Việt ngữ học” của Nguyễn Thiện Giáp [14]. Công trình gồm có năm chương. Trong đó, nội dung Việt ngữ học với việc nghiên cứu văn học ở chương 4 đã đề cập đến việc nghiên
- cứu văn học dưới góc độ ngôn ngữ học. Cụ thể là các chủ đề: Nghiên cứu văn học theo cách tiếp cận văn bản học; Nghiên cứu văn học theo cách tiếp cận hệ thống – cấu trúc; Nghiên cứu văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ; và Vận dụng những phương pháp của ngôn ngữ học thống kê và lí thuyết thông tin vào nghiên cứu văn học. Đây một trong những công trình quan trọng trong việc vận dụng kiến thức ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, công trình này cũng chưa đề cập nhiều đến phương thức liên kết liên tưởng trong thơ. Ngoài ra, rải rác trong các tạp chí chuyên ngành (Ngôn ngữ, Ngôn ngữ và Đời sống…) cũng xuất hiện những bài viết chung về ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ văn chương hay một số khía cạnh nào đó của thơ ca Việt Nam… Liên quan đến đề tài còn có một số công trình nghiên cứu về liên kết văn bản tiếng Việt. Năm 1985 (tái bản vào năm 2006), công trình “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” của Trần Ngọc Thêm [66] được công bố. Đây là công trình rất có giá trị và đánh dấu bước phát triển mới của ngôn ngữ học văn bản nói chung và các phương thức liên kết văn bản nói riêng. Công trình gồm có ba phần chính. Phần 1 gồm ba chương, đề cập đến các khái niệm và cái nhìn khái quát về “Liên kết văn bản”. Ở phần 2, cũng gồm có ba chương, tác giả bắt đầu đi vào “Các phương thức liên kết giữa các phát ngôn”. Phương thức liên kết liên tưởng được trình bày khá cụ thể và chi tiết ở chương 2. Dựa vào đặc điểm liên quan về nghĩa thông qua một số ít nghĩa chung và không chứa nét nghĩa đối lập giữa các phát ngôn, tác giả đã phân chia thành bảy kiểu liên kết liên tưởng. Đó là: liên tưởng bao hàm, liên tưởng đồng loại, liên tưởng định lượng, liên tưởng định vị, liên tưởng định chức, liên tưởng đặc trưng và liên tưởng nhân quả. Còn ở phần 3, tác giả đề cập đến liên kết về mặt nội dung. Như vậy, đứng trên quan điểm phát ngôn, Trần Ngọc Thêm đã mô tả những đặc điểm cơ bản của các phương thức liên kết liên tưởng. Từ mô hình lí thuyết chung này, chúng tôi kế thừa có điều chỉnh để khảo sát các phương thức liên kết liên tưởng trong thơ ca Việt Nam. Có thể nói, đây là một trong những công trình nghiên cứu sâu về các phương thức liên kết liên tưởng trong tiếng Việt. Năm 1999, Nhà xuất bản Giáo dục đã ra mắt bạn đọc công trình của Nguyễn Thị Việt Thanh [57] về “Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt”. Đối tượng nghiên cứu của công trình này là ngôn bản, đề cập khá sâu về những vấn đề chung liên quan đến liên kết lời nói. Tác giả chia liên kết lời nói thành hai phương thức: phương thức ngữ kết học và phương thức ngữ dụng học. Phương thức liên kết ngữ kết học lại được chia thành ba tiểu loại: liên kết duy trì chủ đề, liên kết phát triển chủ đề và liên kết logic. Nhìn chung, đóng góp chủ yếu của công trình này là nghiên cứu các phương tiện liên kết trên ngữ liệu lời nói. Năm 2006, quyển “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt” của Diệp Quang Ban [2] được tái bản (lần thứ ba). Trong công trình này, ở phần 2, tác giả đã đề cập đến “Liên kết trong tiếng Việt”, trong đó có phép liên tưởng (từ tr. 126-128). Lấy phát ngôn làm cơ sở như Trần Ngọc Thêm, Diệp
- Quang Ban cũng chia phép liên tưởng thành bảy kiểu cơ bản như: liên tưởng bao hàm, liên tưởng đồng loại, liên tưởng định lượng, liên tưởng định vị, liên tưởng định chức, liên tưởng đặc trưng và liên tưởng nhân quả. Đặc biệt, ở phần một, tác giả đã đưa ra khoảng mười lăm cách hiểu khái niệm văn bản, phân biệt khái niệm văn bản với diễn ngôn, ngôn ngữ nói và viết, đồng thời nêu lên những đặc trưng về văn bản nói chung. Năm 2007, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã cho ra mắt bạn đọc quyển “Văn bản” của tác giả Diệp Quang Ban [3]. Công trình tuy khá bao quát các khía cạnh của văn bản, đề cập hầu hết các phương thức liên kết, nhưng nhìn chung chỉ là sự tổng hợp từ các công trình đi trước nên những đóng góp riêng của nó là không đáng kể. Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về liên kết văn bản thơ ca Việt Nam, nhất là về liên kết liên tưởng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã trình bày trên đây là những cơ sở lí thuyết quan trọng, được luận văn vận dụng vào nghiên cứu ở những mức độ khác nhau. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam với mong muốn tìm hiểu cụ thể hơn về vấn đề này, đồng thời cũng mong muốn có cái nhìn đầy đủ hơn đối với tác phẩm thơ ca. Trước hết, mỗi một tác phẩm là một văn bản, vì vậy, nó cũng là đối tượng của ngôn ngữ học văn bản chứ không phải chỉ là đối tượng của văn học. Chúng tôi cũng hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu và giảng dạy các tác phẩm thơ ca Việt Nam trong trường phổ thông hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Tìm hiểu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam, luận văn của chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau: Các ngữ liệu khảo sát là những văn bản thơ của một số tác gia tiêu biểu trong văn học thời kì trung đại và thời kì hiện đại. Đã là một tác phẩm văn học, mà cụ thể ở đây là tác phẩm thơ ca, thì nhất thiết phải có sự liên kết. Tuy nhiên, khi tìm hiểu vấn đề liên kết văn bản, chúng tôi không nghiên cứu tất cả các phương thức, phương tiện liên kết mà chỉ nghiên cứu phương thức liên kết liên tưởng. Chúng tôi cũng thử so sánh đối chiếu kết quả thu được sau khi tìm hiểu trên cứ liệu là các văn bản (tác phẩm) thơ ca của tác gia này với tác gia khác và hy vọng phát hiện thêm những điều mới mẻ thú vị về phong cách cá nhân của các nhà thơ được thể hiện ở phương diện mà chúng tôi đang nghiên cứu. 5. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu miêu tả, phân tích, đối chiếu và một số thủ pháp như phân loại, hệ thống hóa, và thống kê toán học. Trước hết, chúng tôi
- thu thập và phân loại cứ liệu, sau đó, tiến hành phân tích những phương thức liên kết liên tưởng trong các văn bản đã được thu thập được trên cơ sở xác định mỗi dòng thơ là một phát ngôn. Cuối cùng, chúng tôi lập bảng thống kê, thử đối chiếu kết quả thu được sau khi tìm hiểu trên cứ liệu là các văn bản (tác phẩm) thơ ca của tác gia này với tác gia khác và đưa ra những nhận xét. 6. Ý nghĩa của đề tài - Về lí thuyết: Nghiên cứu vấn đề liên kết liên tưởng trong thơ Việt Nam sẽ góp thêm một công trình vận dụng ngữ pháp văn bản vào nghiên cứu ngôn ngữ và nghiên cứu văn học. Đề tài sẽ làm rõ thêm cơ sở lí luận của ngôn ngữ học văn bản, cụ thể là phương thức liên kết liên tưởng. Thực hiện đề tài này, người viết mong muốn có sự nhìn nhận xác đáng về liên kết liên tưởng, về liên kết văn bản, và về văn bản với tư cách là một chỉnh thể thống nhất, góp phần làm sáng rõ những giá trị vốn đã lớn lao của thơ ca Việt Nam, đồng thời góp thêm một hướng nghiên cứu mới cho văn học. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể ứng dụng vào giảng dạy thơ ca Việt Nam trong nhà trường. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương. Nội dung của chương một là cơ sở lí thuyết, bao gồm vấn đề liên kết liên tưởng và đặc điểm liên kết liên tưởng trong thơ. Ở chương hai và chương ba, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát liên kết liên tưởng trong thơ của một số tác gia tiêu biểu của thơ ca Việt Nam trong thời kì trung đại và thời kì hiện đại. Cụ thể, trong chương hai, chúng tôi sẽ khảo sát liên kết liên tưởng trong thơ của Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương và Nguyễn Khuyến; trong chương ba, chúng tôi sẽ khảo sát liên kết liên tưởng trong thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Xuân Quỳnh. Trọng tâm nghiên cứu của luận văn này nằm ở chương hai và chương ba.
- Chương 1: LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG VÀ ĐẶC ĐIỂM LIÊN KẾT LIÊN TƯỞNG TRONG THƠ VIỆT NAM 1.1. Liên kết Theo quan niệm của ngôn ngữ học truyền thống, cả một thời gian dài, phạm vi nghiên cứu của ngôn ngữ học không bao giờ vượt ra khỏi giới hạn câu. Do các lí thuyết ngôn ngữ học được xây dựng trong khuôn khổ câu nên càng về sau càng bộc lộ những hạn chế và bất lực trước những nhu cầu của lí luận và thực tiễn. Đó là: “Không đủ khả năng giải thích nhiều hiện tượng biểu hiện trong phạm vi câu nhưng lại có liên quan đến những cơ chế ngoài câu như: hiện tượng điệp, đối; việc lựa chọn quán từ; vai trò của đại từ, từ nối, từ chêm xen; bản chất và chức năng của các loại câu đặc biệt, câu vô nghĩa,… Không đủ đáp ứng những nhu cầu thực tiễn của việc xây dựng văn bản, trong đó có môn làm văn trong nhà trường. Không đủ giúp cho học sinh viết được những bài văn mạch lạc, đúng và hay. Không đủ khả năng phân tích và đề ra cách sửa chữa nhiều loại lỗi trong các bài viết của các em. Liên quan đến các vần đề này là những nhu cầu của công tác biên tập – xuất bản, công tác tuyên truyền, báo chí, phát thanh,… Không đáp ứng nhu cầu thực tiễn của việc phân tích tác phẩm văn học. Cái quan trọng đối với một tác phẩm văn học là cấu trúc văn bản hoàn chỉnh của nó thì lại là cái “ngoài rìa” đối với ngôn ngữ học”. Không đáp ứng những nhu cầu cấp bách của việc tự động hóa các quá trình xử lí thông tin ngôn ngữ: các bản dịch, các bài tóm tắt văn bản do máy tính điện tử làm ra theo những quy trình được xây dựng trên cơ sở của những thành tựu của ngôn ngữ học trong câu có thể gồm những câu đúng nhưng toàn văn bản thì không tránh khỏi tình trạng câu ngô nghê, rời rạc”. (Theo [66; 9-10]) Trước những nhu cầu của lí luận và thực tiễn, đòi hỏi ngôn ngữ học phải có một bước phát triển mới, phải đưa phạm vi nghiên cứu vượt qua khỏi giới hạn câu để đến với những đơn vị có qui mô và kích thước lớn hơn. Từ đó, ngữ pháp văn bản, hay rộng hơn ngôn ngữ học văn bản ra đời. Người ta nhận thấy rằng, văn bản không phải là một phép cộng đơn thuần của các câu. Ta hãy xét ngữ liệu sau đây: “(1)Thúy Kiều và Thúy Vân đều là con gái của ông bà Vương viên ngoại. (2) Nàng là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sống hòa thuận hạnh phúc với cha mẹ. (3) Họ sống êm ấm dưới một mái nhà, cùng có những nét xinh đẹp tuyệt vời. (4) Vẻ đẹp của Kiều hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. (5) Còn Vân có nét đẹp đoan trang thùy mị. (6) Còn về tài thì nàng hơn hẳn Thúy Vân. (7) Thế nhưng nàng đâu có được hưởng hạnh phúc.”
- (Theo SGK Ngữ Văn 10, tập hai, Nxb GD, 2006, tr. 66) Rõ ràng, cả bảy câu trong đoạn văn trên đều đúng ngữ pháp. Nhưng cả đoạn văn vẫn chưa có được tính thống nhất, chặt chẽ. Vì thế cho nên, các câu trên chỉ là một chuỗi các câu hỗn độn mà thôi. Vậy thì cái gì đã làm cho một chuỗi các câu hỗn độn trở thành văn bản? Không thể nghiên cứu các câu độc lập, chỉ có thể quan sát trên tổng thể văn bản thì mới có thể tìm ra câu trả lời. Hãy xem xét từng câu trong ngữ liệu trên. Câu (1), câu mở đầu giới thiệu về cả hai nhân vật là Thúy Kiều và Thúy Vân. Thế nhưng, sang câu (2), người viết lại dùng đại từ thay thế là nàng – vốn dĩ chỉ để thay thế cho ngôi thứ ba số ít. Nên giữa câu (1) và (2) chưa có sự thống nhất với nhau. Tiếp tục, ở câu (3), lại dùng đại từ thay thế ở ngôi thứ ba số nhiều là họ. Chắc chắn là mọi người đọc đều hiểu rằng họ ở đây là Thúy Kiều và Thúy Vân. Như vậy, trật tự hợp lí của câu (3) là phải ngay sau câu (1) vì câu (1) giới thiệu về hai nhân vật này. Câu (3) có một phần nội dung là nói về cuộc sống của hai nhân vật nên ta phải đưa sống hòa thuận hạnh phúc với cha mẹ ở câu (2) vào để bổ sung thêm nội dung đó; và có một phần nội dung nói về nét đẹp xinh đẹp tuyệt vời của Thúy Kiều và Thúy Vân. Vậy nên, các câu tiếp theo phải là các câu lần lượt nói về nét đẹp của hai nhân vật này, đó là câu (4) và câu (5). Ngoài vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân, người viết còn muốn nhắc đến cái tài và số phận của Thúy Kiều. Nên câu tiếp theo phải là câu (2) và phải thay đại từ thay thế nàng bằng tên nhân vật cụ thể, ở đây là Kiều. Kế tiếp là câu (6) đã bỏ đi từ còn (vì nó không ở trong tình thế “sóng đôi” với câu phía trước) và câu (7) vẫn nằm ở vị trí sau cùng. Vì vậy, để cho ngữ liệu đó có thể trở nên thống nhất, chặt chẽ, thì chúng ta phải sắp xếp lại trật tự các câu, các vế câu và có thể thêm bớt hoặc thay đổi một số từ ngữ một cách hợp lí. Có thể viết lại đoạn văn trên như sau: “(1) Thúy Kiều và Thúy Vân đều là con gái của ông bà Vương viên ngoại. (2) Họ sống êm ấm dưới một mái nhà, sống hòa thuận hạnh phúc với cha mẹ, cùng có những nét xinh đẹp tuyệt vời. (3) Vẻ đẹp của Kiều hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. (4) Còn Vân có nét đẹp đoan trang thùy mị. (5) Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. (6) Về tài thì nàng hơn hẳn Thúy Vân. (7) Thế nhưng nàng đâu có được hưởng hạnh phúc”. Viết lại thế này thì chúng ta đã có một “văn bản” thống nhất, liên kết chặt chẽ. Câu (2) gắn kết được với câu (1) là do từ họ được dùng để thay thế cho Thúy Kiều và Thúy Vân. Câu (3) và câu (4) gắn kết được với câu (2) là do nó lần lượt triển khai cho những nét xinh đẹp tuyệt vời ở câu (2). Câu (3) và câu (4) gắn kết được với nhau là nhờ từ còn. Nếu câu (3) nói về nét đẹp, thì các câu (5), (6) và (7) nói về tài và số phận của Kiều. Nên các câu này cũng gắn kết được với nhau. Vậy, để có thể trở thành văn bản thì một chuỗi câu hỗn độn đó phải có những sợi dây liên hệ chặt chẽ với nhau. Sợi dây đó chính là tính liên kết trong văn bản. “Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu – phần tử, trong hệ
- thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.” (Theo [66; 19]) Không phải một sớm một chiều mà các nhà ngôn ngữ học đưa ra được khái niệm thống nhất nhau về sự liên kết. Liên kết là một hiện tượng dễ nhận biết, nhưng cách hiểu về liên kết cũng không hoàn toàn giống nhau ở các nhà nghiên cứu. Ở giai đoạn đầu, tính liên kết chủ yếu chỉ giới hạn ở những biểu hiện hình thức. Với cách hiểu như thế thì một chuỗi các câu có dấu hiệu liên kết với nhau về hình thức nhưng không cùng diễn đạt một nội dung nào vẫn được xem là một văn bản. Ta hãy cùng xem xét ví dụ sau: (1) Cắm bơi một mình trong đêm. (2) Đêm tối bưng không nhìn rõ mặt đường. (3) Trên con đường ấy, chiếc xe lăn bánh rất êm. (4) Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng. (5) Trăng bồng bềnh nổi lên qua dãy Pú Hồng. (6) Dãy núi này có ảnh hưởng quyết định tới gió mùa đông bắc ở nước ta. (7) Nước ta bây giờ của ta rồi, cuộc đời đã bắt đầu hửng sáng. (Dẫn theo Trần Ngọc Thêm [66;20]) Câu (1) và câu (2) liên kết với nhau nhờ từ đêm. Câu (2) và câu (3) liên kết được với nhau nhờ từ (con) đường. Tương tự như vậy, câu (3) và câu (4) – từ xe; câu (4) và câu(5) – từ trăng; câu (5) và câu (6) – từ dãy (núi); câu (6) và câu (7) – từ nước ta. Về mặt hình thức, ta thấy các câu trên có sự liên kết chặt chẽ với nhau, nhưng đó chỉ là liên kết thuần hình thức. Nhìn tổng thể cả đoạn văn trên, ta không thấy các câu phối hợp nghĩa với nhau một cách lôgic, bổ sung cho nhau để cùng thể hiện một nội dung. Nếu với cách hiểu một chuỗi các câu có dấu hiệu liên kết với nhau về hình thức nhưng không cùng diễn đạt một nội dung nào vẫn được xem là một văn bản thì không thể thuyết phục được. Ở giai đoạn hai, khi đã đi sâu vào tìm hiểu những đặc trưng của văn bản, các nhà nghiên cứu ngày càng chú ý đến vai trò của liên kết ngữ nghĩa. Tuy nhiên, nếu liên kết ngữ nghĩa được xem xét tách biệt với liên kết hình thức thì sẽ dẫn đến sự tách rời hoàn toàn hình thức khỏi nội dung. Điều này lại càng khiến cho nhiều cái gọi là “phi văn bản” cũng sẽ trở thành văn bản. Ví dụ: Phải loại bỏ những cảm tính tùy tiện, phải đấu tranh thay đổi những nguyên tắc lỗi thời. Có thể sẽ thất bại, nói bao giờ cũng giỏi hơn làm. Làm có khi thành khi bại, tốt hơn không làm. Chúng ta phải cố tìm ra cách làm tốt nhất, không thất bại. Các câu trong ví dụ trên rõ ràng là có liên kết nhau về mặt nội dung, nhưng cũng khó để chúng ta chấp nhận nó là văn bản. Cũng nội dung ấy, nếu thêm vào các phương thức liên kết về hình thức thì nó sẽ rõ ràng, chính xác và chặt chẽ hơn nhiều: Phải loại bỏ những cảm tính tùy tiện, đồng thời cũng phải đấu tranh thay đổi những nguyên tắc lỗi thời. Có thể sẽ còn thất bại, vì nói bao giờ cũng giỏi hơn làm. Nhưng làm mà có khi thành
- khi bại, vẫn tốt hơn không làm. Tất nhiên, chúng ta phải cố tìm ra cách làm tốt nhất, để không thất bại. (Nguyễn Mạnh Tuấn, Đứng trước biển) Do vậy, nên mới xuất hiện khuynh hướng thứ hai khi xem xét vấn đề liên kết ngữ nghĩa. Ở khuynh hướng này, người ta đòi hỏi văn bản nhất thiết phải có đầy đủ cả liên kết hình thức và liên kết ngữ nghĩa. Nhìn một cách khái quát, ta thấy rằng tính liên kết của văn bản có hai mặt: liên kết hình thức và liên kết nội dung. Liên kết hình thức và liên kết nội dung có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau; liên kết nội dung được thể hiện bằng một hệ thống các phương thức liên kết hình thức, và liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung. Chúng là hai mặt gắn bó mật thiết với nhau, cho nên mỗi văn bản đều phải có đủ hai mặt: liên kết hình thức và liên kết nội dung. Liên kết hình thức là hệ thống các phương thức liên kết như phép lặp, phép đối, phép thế đồng nghĩa, phép liên tưởng, phép tuyến tính, phép thế đại từ, phép tỉnh lược và phép nối. Phương diện liên quan trực tiếp đến liên kết hình thức giữa các câu là phương diện nghĩa. Khái niệm liên kết nội dung rộng hơn khái niệm liên kết ngữ nghĩa. Nó nhấn mạnh nhiều hơn đến những nhân tố ngoài ngôn ngữ. Các câu được xem là có liên kết nội dung khi chúng đều phối hợp với nhau một cách hài hòa, bổ sung cho nhau để cùng thể hiện một nội dung. Liên kết nội dung có hai phương diện chủ yếu là liên kết chủ đề và liên kết lôgic. Liên kết chủ đề là sợi dây kết nối hợp lí giữa những vật, những việc được nói đến trong các câu có liên kết với nhau. Liên kết chủ đề gồm duy trì chủ đề và triển khai chủ đề. Thứ nhất, duy trì chủ đề là nhắc lại cùng một vật, một việc nào đó trong các câu có liên kết với nhau. Ví dụ: - Sách giúp cho người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho người đọc hiểu đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và để đi tới một cuộc đời thật sự. Sách mở rộng những chân trời ước mơ và khát vọng. (Theo Làm văn 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000) - Tiếng hát của các em lan trên các cánh đồng bay theo gió. Tiếng hát trong như những giọt sương trên bờ cỏ. (Nguyễn Thị Ngọc Tú, Buổi sáng) - Người mẹ chồng và nàng dâu nhìn nhau. Hai người chợt thấy lẻ loi, cô đơn và thương nhau lạ lùng.
- (Tô Hoài, Khác trước) Các phép liên kết dùng để duy trì chủ đề gồm có: phép lặp từ vựng, phép thế đồng nghĩa, phép thế đại từ và phép tỉnh lược. Lần lượt trong từng ví dụ trên, chủ đề sách và chủ đề tiếng hát được duy trì bằng phép lặp từ vựng, chủ đề người mẹ chồng và nàng dâu được duy trì bằng phép thế đại từ. Thứ hai, triển khai chủ đề là cùng với một (hoặc vài) chủ đề đã cho, đưa thêm vào một hoặc những chủ đề khác nữa có liên quan đến chủ đề ban đầu, theo tiêu chuẩn cần và đủ của lôgic để đảm bảo cho các câu chứa chúng liên kết được với nhau. Ví dụ: Những dải nắng mặt trời xuyên qua vòm cây như những sợi tơ năm sắc óng ánh giăng mắc khắp nơi. Núi rừng đang được sưởi ấm lại. (Trần Mai Nam, Vào xuân) Dải nắng mặt trời ở câu đầu là chủ đề, sưởi ấm ở câu sau là đặc trưng của chủ đề đó. Các phép liên kết dùng để triển khai chủ đề gồm có: phép liên tưởng và phép đối, trong đó, phép đối ít được dùng hơn. Trong liên kết chủ đề, các vật được biểu đạt bằng các danh từ, cụm danh từ xuất hiện trong chuỗi câu liên kết nhau (cũng như trong toàn văn bản) đều có khả năng diễn đạt chủ đề. Các vật, hiện tượng, các tính chất được biểu đạt bằng động từ, tính từ, cụm động từ, cụm tính từ hay một cụm chủ - vị, cũng có thể diễn đạt chủ đề trong liên kết chủ đề. Nếu liên kết chủ đề tập trung chú ý vào vật, việc được nói đến thì liên kết lôgic chú ý trước hết ở phần nêu đặc trưng của vật, việc được nói đến đó. Như vậy có thể hiểu liên kết lôgic là sợi dây nối kết hợp lí giữa vật, việc với đặc trưng của chúng trong một câu và giữa đặc trưng này với đặc trưng kia trong những câu liên kết nhau. Ví dụ: (1) Cắm đi một mình trong đêm. (2) Đúng như báo Đảng nói, đêm nay trời ít mây và có gió nhẹ. (3) Mùa xuân về trên rẻo cao đã làm nở những thứ hoa chỉ thơm ban đêm, kín đáo như nụ cười tình của một cô gái Mèo. (4) Tiếng kêu của một con hoẵng lạc bầy trong rừng khuya nghe như tiếng gọi tha thiết của một con người. (5) Cắm nghĩ chưa bao giờ anh nghe báo nói về tiếng kêu của con hoẵng đó. (6) Nhưng nói làm gì, trên khắp đất nước ta, có nơi nào mà một đêm mùa xuân lại không nghe thấy tiếng kêu tha thiết của một con hoẵng con? (7) Cắm xốc lại cây súng, nhưng không phải để bắn. (8) Anh đi nhanh trong đêm quen thuộc. (Nguyên Ngọc, Rẻo cao) Trong ví dụ trên, nội dung của các câu đều ăn khớp với nhau theo một lôgic chặt chẽ. Ở câu (1), vì Cắm đi, cho nên anh nhìn thấy trời mây ở câu (2) và ngửi thấy mùi hoa ở câu (3), nghe thấy tiếng muông thú ở câu (4). Và vì đi một mình nên anh có điều kiện để suy nghĩ về những điều đã nhìn và nghe thấy ở câu (5) và câu (6). Chi tiết xốc lại súng ở câu (7) cũng rất hợp lí, đúng chỗ và
- có thể được giải thích rõ ràng như sau: không phải để bắn con hoẵng, mà là để đi nhanh hơn. Ngay việc đi nhanh ở câu (8) này cũng không phải là ngẫu nhiên, mà nó là hệ quả của cả quá trình nhìn – nghe – suy nghĩ ở trên: yêu quê hương đất nước mình, anh đi nhanh để sớm hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tóm lại, ngôn ngữ học văn bản đã đưa ra một phát hiện mới, đó là tính liên kết. Nhìn một cách khái quát, ta thấy rằng tính liên kết của văn bản có hai mặt: liên kết hình thức và liên kết nội dung. Trong liên kết nội dung lại tách ra hai bình diện: liên kết chủ đề và liên kết lôgic (trong liên kết chủ đề lại có thể thực hiện theo hai cách: liên kết duy trì chủ đề và liên kết triển khai chủ đề). Chính việc phân biệt hai bình diện này của liên kết nội dung cho phép liên kết không chỉ có khả năng phân biệt văn bản với chuỗi phát ngôn hỗn độn mà còn có khả năng bao quát hết các loại văn bản. Và nhắc đến tính liên kết là chúng ta nhắc đến một đặc thù chỉ có ở cấp độ trên câu. Có thể khái quát lại tính liên kết và các phương thức liên kết theo bảng tóm tắt sau: Bảng 1: Các phương thức liên kết Từ vựng Lặp Ngữ pháp Ngữ âm Liên Đối kết Thế đồng nghĩa L hình Liên tưởng I thức Tuyến tính Ê Thế đại từ N Tình lược (yếu/mạnh) Nối (lỏng/chặt) K Ế Lặp từ vựng T Liên kết Thế đồng nghĩa duy trì chủ đề Thế đại từ Liên Liên kết chủ đề Tỉnh lược (mạnh/yếu) kết Liên kết Liên tưởng nội triển khai chủ đề Đối dung Liên kết lôgic Cấp độ từ Tuyến tính Nối (lỏng/chặt) Cấp độ câu 1.2. Liên kết liên tưởng “Liên tưởng là nhân sự việc, hiện tượng nào đó mà nghĩ tới sự việc, hiện tượng khác có liên quan”. (Theo [78;568]) Trần Ngọc Thêm cũng cho rằng “sự liên tưởng là quan hệ giữa hai từ bất kì mà sự xuất hiện của từ này kéo theo sự xuất hiện của từ kia trong kí ức. Muốn thế, chúng chỉ cần có ít nhất một nét nghĩa chung, tức là thuộc cùng một trường nghĩa. Đó là liên tưởng theo nghĩa rộng”. Tuy nhiên, khi định nghĩa liên kết liên tưởng là gì thì tác giả Trần Ngọc Thêm lại định nghĩa liên tưởng theo
- nghĩa hẹp là “sự liên tưởng giữa hai từ thuộc cùng một trường nghĩa, không có nét đối lập và có một số ít nét nghĩa chung”. Từ đó, ông đưa ra định nghĩa “phép liên tưởng dựa trên sự liên tưởng theo nghĩa hẹp, nhưng không chỉ giữa các từ, mà còn giữa các cụm từ. Và không phải giữa một từ với các từ khác trong kí ức, mà là giữa các ngữ đoạn trong văn bản. Nói chính xác hơn, phép liên tưởng là một phương thức liên kết thể hiện ở việc sử dụng trong chủ ngôn và kết ngôn những ngữ đoạn (từ hoặc nhóm từ) có liên quan về nghĩa với nhau thông qua một số nét nghĩa chung và không chứa nét nghĩa đối lập”. (Theo [66; 122 – 123]) Trong khái niệm trên, ngữ đoạn tham gia phép liên tưởng nằm ở chủ ngôn thì được gọi là chủ tố, còn ngữ đoạn tham gia phép liên tưởng nằm ở kết ngôn thì được gọi là liên tố. Tùy theo tính chất và mối quan hệ giữa hai yếu tố liên kết này mà người ta phân loại được phép liên tưởng. Các yếu tố liên kết trong phép liên tưởng có thể quy về bảy loại theo ba dạng sau: 1)Động vật (loài người, loài vật); 2)Tĩnh vật (sự vật, hiện tượng, khái niệm); 3)Hoạt động (hành động, sự việc). Trong phép liên tưởng, nếu chủ tố và liên tố đều thuộc cùng một loại sẽ được gọi là liên tưởng đồng chất; và nếu chủ tố và liên tố không thuộc cùng một loại sẽ được gọi là liên tưởng không đồng chất. Theo tính chất của mối quan hệ giữa chủ tố và liên tố, phép liên tưởng có thể chia thành bảy kiểu xếp thành hai nhóm đồng chất và không đồng chất như sau: Liên tưởng đồng chất Liên tưởng không đồng chất Liên tưởng Liên tưởng Liên tưởng Liên tưởng Liên tưởng Liên tưởng Liên tưởng bao hàm đồng loại định lượng định vị định chức đặc trưng nhân quả Tiếp theo, chúng tôi sẽ lần lượt đi vào từng kiểu liên tưởng trong mỗi nhóm. 1.2.1. Liên tưởng đồng chất 1.2.1.1. Liên tưởng bao hàm Trong kiểu liên tưởng này, chủ tố và liên tố chỉ những đối tượng có quan hệ bao chứa nhau. Quan hệ bao hàm ở đây là bao hàm giữa cái chung và cái riêng, cái bộ phận, chứ không bao hàm theo kiểu loại – hạng. Tuy trật tự giữa từ chỉ cái chung và từ chỉ cái riêng không cố định, nhưng thứ tự chung – riêng có tần số xuất hiện nhiều hơn thứ tự riêng – chung. Ví dụ: - Trong nhà có tiếng lẹp kẹp. Cửa từ từ mở. (Nguyễn Sáng, Sài Gòn dưới những tầng khói) - Mặt biển mở rộng dần và đã nối liền lại. Sóng gợn man mác, cái màu trắng buồn tẻ bao quanh càng man mác hơn. (Nguyễn Khải, Họ sống và chiến đấu) - Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. (Kim Lân, Vợ nhặt) - Trâu đã già. Đôi sừng kềnh càng như hai cánh nỏ.
- (Chu Văn, Con trâu bạc) - Cứ xem cái ngôn ngữ của bọn địch ở đây đủ rõ. Gọi các lực lượng cách mạng ở bờ Nam những năm trước, chúng dùng các danh từ “phiến loạn”, “cộng phỉ”, “việt cộng”. Giờ thì là “Giải phóng”, là “Mặt trận”, đôi khi còn thêm hai chữ “các ông”. (Chế Lan Viên, Viên kim cương đầu giới tuyến) - Ban đầu lương thực, khí giới, chăn áo, thuốc men, cái gì cũng thiếu thốn. Bộ đội phải thường nhịn đói, nhưng vẫn hăng hái tươi cười. (Hồ Chí Minh, Kỉ niệm ngày thành lập GPQ Việt Nam, 12-1947) Kiểu liên tưởng bao hàm có độ liên kết mạnh nhất, vì nó dựa trên mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. 1.2.1.2. Liên tưởng đồng loại Liên tưởng đồng loại là kiểu liên tưởng của những đối tượng đồng chất ngang hàng với nhau, không phân biệt cái nào bị bao hàm trong cái nào. Chúng đều là cái riêng của cùng một cái chung, những giống của cùng một loài. Chính nhờ những quan hệ đồng loại đó mà chúng tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa hai phát ngôn. - Sự vật: Anh đặt tờ giấy lên mặt vỏ hòm đạn gỗ ở đầu giường. Hai mắt tròn ra đờ đẫn, đôi môi dày cộm gồ lên suy nghĩ mà cái quản bút cứ xoay xoay trong miệng chưa đặt xuống viết ra một chữ. (Lê Lựu, Người cầm súng) - Hiện tượng: Mưa vẫn ồ ạt như vỡ đập. Ánh chớp lóe lên soi rõ khuôn mặt anh trong một giây. (Nguyễn Kiên, Anh Keng) - Loài người: Bộ đội xung phong. Du kích nhào theo. (Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng) - Loài vật: Gà lên chuồng từ lúc nãy. Hai bác ngan cũng đã ì ạch về chuồng rồi. Chỉ duy có hai chú ngỗng vẫn tha thẩn đứng giữa sân. (Tô Hoài, Hai con ngỗng) - Khái niệm: Chiều chạng vạng tối. Sợ tối, quân ta tiếp viện đánh ập lại, chúng nó ôm cả mớ văn chiêu hồi rút lui có trật tự. (Hồng Châu, Mùa thu ơi…) - Hành động: Mãi đến 10 giờ đêm, anh mới trở về, lăn vào giữa khẩu đội ngủ. Một lát, đã nghe anh ngáy đều đều. (Nguyễn Trọng Oánh, Nhật kí đảo anh hùng)
- Kiểu liên tưởng đồng loại khá gần với kiểu đối lâm thời. Khi bị giới hạn trong hai đối tượng và nhất là khi có từ nối tương phản đi kèm, thì nó sẽ chuyển thành kiểu đối lâm thời. 1.2.1.3. Liên tưởng định lượng Liên tưởng định lượng là kiểu liên tưởng giữa các đối tượng cùng một loại, mọi “chất liệu” của các đối tượng này sẽ được xem xét, tính đếm về mặt số lượng. Kiểu liên tưởng định lượng có thể chia thành hai trường hợp là liên tưởng định lượng hợp – phân và liên tưởng định lượng đối chiếu. a) Liên tưởng định lượng hợp – phân Kiểu liên tưởng này chỉ có mặt khi một trong hai yếu tố liên kết là một số từ chỉ số lượng chung, yếu tố liên kết kia là số lượng bộ phận. Khi số từ chỉ số lượng chung làm liên tố, ta sẽ có liên tưởng định lượng hợp. Và ngược lại, khi số từ chỉ số lượng chung làm chủ tố, ta sẽ có liên tưởng định lượng phân. Người mẹ chồng và nàng dâu nhìn nhau. Hai người chợt thấy lẻ loi, cô đơn và thương nhau lạ lùng. (Tô Hoài, Khác trước) Đây là ví dụ cho kiểu liên tưởng định lượng hợp. Số từ chỉ số lượng chung hai người nằm ở câu kết ngôn. Còn dưới đây là ví dụ cho kiểu liên tưởng định lượng phân, số từ chỉ số lượng chung nằm ở chủ ngôn. Ở đó, có hai mẹ con. Một bà mẹ anh hùng và một người con dũng sĩ. (Nguyễn Chí Trung, Cầm súng) Khi liệt kê các số lượng bộ phận bằng một thì nó có thể được thể hiện bằng số từ một hoặc bằng các danh từ đếm được số đơn. Khi nói từng số lượng bộ phận nói chung thì nó được thể hiện bằng các từ mỗi, từng. Ví dụ: Năm đứa chúng tôi như năm con ong thợ. Mỗi người đều tự giác nhận lấy phận sự của mình. (Hoàng Hữu Các, Vẫn còn chùm hoa phượng) b) Liên tưởng định lượng đối chiếu Đây là kiểu liên tưởng mà trong đó các số lượng được đối chiếu nhau, thường là theo một xu hướng nhất định (tăng dần hoặc giảm dần). Ví dụ: Cách năm trăm thước, chúng dừng lại, triển khai đội hình …[+ 11 phát ngôn]. Ba trăm thước, Nghiêu hơi ghé mắt lên bờ giếng … [+ 22 phát ngôn].
- Một trăm thước rồi. Ba nói nhỏ [+ 2 phát ngôn]. Năm mươi thước. Vân ngắt vào đùi Nghiêu một cái … [+ 3 phát ngôn]. Ba mươi thước. (Nguyễn Trung Thành, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc) Đây là ví dụ cho kiểu liên định lượng mà trong đó các số lượng được đối chiếu nhau theo một xu hướng giảm dần. 1.2.2. Liên tưởng không đồng chất 1.2.2.1. Liên tưởng định vị Liên kết liên tưởng theo quan hệ định vị là sự liên tưởng giữa một động vật, một tĩnh vật hoặc một hành động ở vị trí tồn tại điển hình của nó trong không gian (hoặc cả trong thời gian). Phổ biến nhất là sự định vị cho người, sự vật trong không gian. Ví dụ: - Người ta không dắt Nghiêu về đơn vị mà dẫn anh đến trạm xá. Y sĩ Hoàng xem xét vết thương kĩ lưỡng. (Nguyễn Trung Thành, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc) Trên đây là ví dụ cho phép liên kết liên tưởng định vị cho người. Trong đó, không gian được định vị là một không gian rộng, không gian cố định: trạm xá, người được định vị trong không gian đó là y sĩ. - Đồng nước tràn ngập tiếng sóng vỗ rì rào xao động. Gió vi vút thổi ngang qua xuồng. (Đinh Quang Nhã, Nước) Đây là ví dụ cho phép liên kết liên tưởng định vị cho sự vật. Trong đó, không gian được định vị là một không gian cố định: đồng nước. Bên cạnh người, sự vật, đôi khi ta có thể gặp liên tưởng định vị cho hiện tượng. Ví dụ: Sáng rồi. Phương Đông rực rỡ một màu hồng chói lọi. (Nguyễn Trung Thành, Đường chúng ta đi) Cũng có trường hợp liên tưởng định vị giữa hành động và không gian điển hình cho hành động đó. Ví dụ: Tuy chưa buồn ngủ nhưng nằm đắp chăn cho ấm và buông màn cho khỏi muỗi thì vẫn tốt. Hai cái giường nhỏ kê song song, cách nhau một lối đi nhỏ. (Nam Cao, Đôi mắt)
- Đây là liên tưởng định vị cho hành động nằm trong không gian diễn ra hành động đó là giường. Liên tưởng định vị trong thời gian là trường hợp ít gặp hơn so với liên tưởng định vị trong không gian. Ta hãy xét ví dụ sau: Đêm lạnh, trời thăm thẳm. Sao vẫn xanh biếc đầy trời. Khó ngủ quá. (Hồ Phương, Thư nhà) Trong ví dụ trên, cặp liên tưởng đêm – sao là liên tưởng định vị thời gian – sự vật, còn cặp đêm – ngủ là liên tưởng định vị thời gian – hành động. 1.2.2.2. Liên tưởng định chức Liên kết liên tưởng theo quan hệ định chức là sự liên tưởng giữa một động vật, tĩnh vật, hoặc một hoạt động với chức năng điển hình của nó. Ví dụ: - Suốt một năm đầu, y là một ông thầy rất tận tâm. Y soạn bài, giảng bài, chấm bài rất kĩ càng… (Nam Cao, Sống mòn) Bên cạnh đó, còn có liên tưởng định chức của hiện tượng. Ví dụ: Những dải nắng mặt trời xuyên qua vòm cây như những sợi tơ năm sắc óng ánh giăng mắc khắp nơi. Núi rừng đang được sưởi ấm lại. (Trần Mai Nam, Vào xuân) Phần lớn các trường hợp liên tưởng định chức đều là quan hệ giữa một danh ngữ với một động ngữ. Tuy nhiên, cá biệt, ta cũng có thể gặp sự liên tưởng định chức giữa hai danh từ. Ví dụ: Trong công tác của tôi, thiếu chiếc đồng hồ chắc thật là tai hại. Đầu óc tôi lúc nào cũng nghĩ đến chuyện giờ giấc. (Hữu Mai, Người thợ chữa đồng hồ) Ngoài ra, cũng có thể nói đến liên tưởng định chức của hai hoạt động. Ví dụ: Hai thép rót rượu ra li. Anh nài nỉ mẹ Sáu phải uống một chút. (Anh Đức, Hòn đất) Liên tưởng định chức là kiểu liên tưởng phong phú nhất của phép liên tưởng. 1.2.2.3. Liên tưởng đặc trưng Liên kết liên tưởng theo quan hệ đặc trưng là sự liên tưởng giữa một tĩnh vật hoặc một hoạt động với dấu hiệu đặc trưng của nó. Khi dấu hiệu làm chủ tố thì sự liên tưởng đặc trưng thiên về
- khía cạnh giải thích. Khi dấu hiệu làm liên tố thì sự liên tưởng đặc trưng thiên về khía cạnh chứng minh. Ví dụ: - Tiếng reo mỗi lúc một xa. Đám rước đã đến ngã ba. (Chu Văn, Con trâu bạc) - Đại hội làng Tới họp lớn lắm. Tiếng chiêng nổi lên từ đêm hôm trước. (Nguyễn Chí Trung, Bức thư làng Mục) Đây là hai ví dụ về liên tưởng đặc trưng cho sự việc. Ví dụ một, liên tưởng đặc trưng thiên về khía cạnh giải thích, dấu hiệu đặc trưng là tiếng reo mỗi lúc một xa; câu sau giải thích cho sự việc đó là đám rước đã đến ngã ba. Ví dụ hai, liên tưởng đặc trưng thiên về khía cạnh chứng minh, dấu hiệu đặc trưng là tiếng chiêng nổi lên từ đêm hôm trước, nó chứng minh cho đại hội làng Tới họp lớn lắm ở câu trước. Bên cạnh đó, còn có các loại liên tưởng đặc trưng cho hiện tượng, khái niệm và hoạt động. Những ví dụ sau sẽ lần lượt minh họa cho các loại liên tưởng đặc trưng đó. - Rõ ràng là bằng mắt phải anh vẫn thấy hiện lên một cánh chim én chao đi chao lại. Mùa xuân đã đến rồi. (Nguyễn Trung Thành, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc) - Những ngày làm việc, Dung rất thích mặc áo nâu. Thoạt nhìn, tôi đã nhận xét với ý nghĩ: giản dị. (Tiền phong, số 5-6, 1981) - Giá sách vẫn đầy và trên bàn vẫn không mất đi những dấu vết ngổn ngang bừa bộn rất đáng yêu của sách vở đang bị truy tìm lục lọi. Thư vẫn làm việc. (Lê Phương, Bạch đàn) Ở kiểu liên tưởng này, dấu hiệu thường được thể hiện bằng cụm từ. 1.2.2.4. Liên tưởng nhân quả Trong kiểu liên kết liên tưởng này, chủ tố thường diễn đạt nguyên nhân, liên tố thường diễn đạt kết quả. Các ví dụ sau lần lượt minh họa cho điều đó: - Trận lụt chưa rút. Nước vẫn mênh mông. (Nguyễn Quang Sáng, Một chuyện vui) - Ấm nước reo rồi ấm nước sôi sùng sục. Bà đồ dập bớt lửa rồi chạy ra sân. (Nam Cao, Đón khách) - Hà sống rất hồn nhiên. Ngoài việc cơ quan, nó say mê vẽ. Trên tường đầy tranh. (Triệu Huấn, Ánh sao băng) Chúng tôi đã vừa nêu sơ lược về các kiểu liên kết liên tưởng dựa trên cơ sở tiếp thu những thành quả của Trần Ngọc Thêm đã được trình bày trong Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Hầu
- hết những ví dụ minh họa của Trần Ngọc Thêm đều trích từ các tác phẩm văn xuôi. Và liệu trong thơ ca Việt Nam còn có thể có kiểu liên kết liên tưởng nào khác so với những kiểu trên hay không? Chúng ta hãy đến với các ví dụ sau đây: Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi Hoa lá ngây tình không muốn động Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi! (Hàn Mặc Tử, Bẽn lẽn) Trăng, với Hàn Mặc Tử, như là một người bạn tâm giao, nó đã gợi lên trong thơ ca của Hàn những sự liên tưởng giàu tính sáng tạo, gây được nhiều rung động thẩm mỹ ở người đọc. Trong đoạn thơ trên, Hàn Mặc Tử đã có một sự liên tưởng rất độc đáo. Trăng được xem như một cô gái xuân thì lơi lả. Nhiều động ngữ xuất hiện liên tiếp nhau để rồi cùng diễn tả cái lơi lả của trăng, của lá như nằm sóng soãi, lả lơi, ngây tình. Vầng trăng đã gợi niềm thi hứng cho nhà thơ. Có thể thấy, cơ sở của sự liên tưởng này là dựa trên sự tương đồng. Ngoài liên tưởng dựa trên cơ sở tương đồng, trong thơ ca, đặc biệt là trong ca dao còn có liên tưởng phi lôgic. Chẳng hạn như sự liên tưởng trong câu ca dao sau: Bao giờ chạch đẻ ngọn đa Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình (Ca dao) Đây có thể là câu trả lời của cô gái khi được một chàng trai ngõ lời. Cô gái đã không nêu lên trực tiếp lời từ chối của mình, mà khéo léo mượn những liên tưởng phi lôgic để chàng trai có thể hiểu được hàm ý. Thực tế, sẽ không bao giờ xảy ra chuyện “ngược đời” như thế, cho nên chuyện ta lấy mình cũng là chuyện sẽ không xảy ra. Cái hay, cái độc đáo của câu ca dao trên là nhờ sự liên tưởng phi lôgic ấy. Quả thật, phép liên kết liên tưởng là phương thức liên kết có giá trị nghệ thuật cao. Vì vậy, khi nghiên cứu phép liên tưởng trong các văn bản (tác phẩm) văn học, ta không thể không xem xét ở thể loại thơ ca, một thể loại văn học rất giàu trí tưởng tượng và cũng rất giàu tính nghệ thuật. Nhắc đến thơ ca là chúng ta nhắc đến cả một thế giới của tài năng, của nghệ thuật, tâm hồn, tình yêu, ước mơ, và cả niềm vui hạnh phúc hay đau khổ,… Để có thể diễn đạt được hết tất cả những điều đó, tự bản thân mình, thơ ca đã phải “chắp đôi cánh” để được bay bổng trong thế giới của những sự liên tưởng bất ngờ và diệu kì. Chúng tôi nhận thấy rằng, nghiên cứu về liên kết trong thơ ca là một việc làm rất cần thiết và bổ ích nhưng không hề dễ dàng. Hy vọng rằng, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ phát hiện được thêm nhiều điều thú vị và bổ ích xung quanh vấn đề này.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 670 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 668 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 304 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 231 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 251 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 242 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 169 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 167 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 156 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 159 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 124 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn