Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu địa danh ở tỉnh Bến Tre
lượt xem 59
download
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu địa danh ở tỉnh Bến Tre bao gồm những nội dung về tiền đề lý luận và thực tiễn; phương thức định danh, đặc điểm về mặt cấu tạo và nguyên nhân biến đổi của địa danh; giá trị phản ánh hiện thực, đặc điểm về nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh ở Bến Tre.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu địa danh ở tỉnh Bến Tre
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --- --- NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH Ở TỈNH BẾN TRE LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH Ở TỈNH BẾN TRE Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ TRUNG HOA Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
- Lời cảm ơn Đề tài này thực hiện được sự hướng dẫn, chỉ bảo, động viên, cung cấp nhiều tài liệu quý giá của PGS.TS Lê Trung Hoa và sự góp ý của các Giáo sư - tiến sĩ phản biện và các bạn đồng nghiệp. Chúng tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ chân tình và quý báu đó. Qua công tác điền dã, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan, đơn vị, các Sở, Phòng công thương, Sở - Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở - Phòng tài nguyên môi trường, Sở - phòng thống kê, thư viện tỉnh - huyện, Sở - Phòng văn hóa thông tin của tỉnh Bến Tre đã cung cấp những tài liệu quý cho chúng tôi thực hiện luận văn này. Cuối cùng chúng tôi cũng không quên gửi lời cám ơn đến Phòng khoa học công nghệ và sau Đại học, khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm TPHCM đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực hết sức đa dạng, phong phú và cũng rất khó khăn. Vì vậy trong một thời gian ngắn, chúng tôi không thể nào giải quyết hết các vấn đề mà địa danh phản ánh, cùng với kiến thức của người viết có giới hạn cho nên ít nhiều cũng mắc phải những sai sót. Người viết rất mong được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của quý thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. TP.HCM, ngày15 tháng 7 năm 2009 Người thực hiện Nguyễn Thị Kim Phượng
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG TIỂN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Những tiền đề lý luận .................................................................................19 1.1.1. Định nghĩa địa danh ............................................................................19 1.1.2. Phân loại địa danh...............................................................................22 1.1.3. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học và vị trí của địa danh học trong ngôn ngữ học ...........................................................................................30 1.1.4. Vấn đề viết hoa địa danh.....................................................................34 1.2. Cơ sở thực tiễn ...........................................................................................37 1.2.1. Về địa lý ..............................................................................................37 1.2.2. Về lịch sử ............................................................................................39 1.2.3. Về dân cư ............................................................................................46 1.3. Tiểu kết.......................................................................................................47 Chương 2: PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH, ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CẤU TẠO VÀ NGUYÊN NHÂN BIẾN ĐỔI CỦA ĐỊA DANH 2.1. Các phương thức đặt địa danh....................................................................49 2.1.1. Khái quát về phương thức đặt địa danh ..............................................49 2.1.2. Các phương thức đặt địa danh ở Bến Tre ...........................................52 2.1.2.1 . Phương thức tự tạo .........................................................................52 2.1.2.2. Phương thức chuyển hóa..................................................................62 2.2. Đặc điểm về mặt cấu tạo ............................................................................68 2.2.1. Phân loại địa danh ở Bến Tre..............................................................68 2.2.2. Mô hình cấu trúc của địa danh............................................................71 2.2.3. Vấn đề thành tố chung trong địa danh ở Bến Tre ..............................72
- 2.2.4. Đặc điểm về mặt cấu tạo của địa danh ở Bến Tre ..............................84 2.2.4.1. Địa danh có cấu tạo đơn...................................................................84 2.2.4.2. Địa danh có cấu tạo phức .................................................................85 2.3. Nguyên nhân biến đổi của địa danh ...........................................................88 2.3.1. Vài nét về đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ, ngữ âm của tiếng Bến Tre.....................................................................................................88 2.3.2. Nguyên nhân chuyển biến...................................................................91 2.3.2.1. Nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ ...................................................93 2.3.2.2. Nguyên nhân ngôn ngữ ....................................................................96 2.4. Tiểu kết.....................................................................................................101 Chương 3: GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC, ĐẶC DIỂM VỀ NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỊA DANH 3.1. Phản ánh hiện thực ...................................................................................103 3.1.1. Địa danh phản ánh về mặt địa lý tự nhiên ........................................104 3.1.2. Địa danh phản ánh về mặt lịch sử.....................................................105 3.1.3. Địa danh phản ánh về mặt kinh tế xã hội..........................................109 3.1.4. Địa danh phản ánh về mặt văn hóa ...................................................110 3.1.5. Địa danh phản ánh về mặt ngôn ngữ và văn học ..............................117 3.2. Nguồn gốc và ý nghĩa một số địa danh ở Bến Tre ...................................124 3.2.1. Địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa rõ ràng .......................................126 3.2.2. Địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa còn tranh luận............................133 3.3. Tiểu kết.....................................................................................................145 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................................................147 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. Cách viết tắt các phường, thị trấn, huyện, thị xã, tỉnh P : phường TT : thị trấn (TX) : thị xã (BaT) : huyện Ba Tri (BĐ) : huyện Bình Đại (CL) : huyện Chợ Lách (CT) : huyện Châu Thành (GT) : huyện Giồng Trôm (MC) : huyện Mỏ Cày (TP) : huyện Thạnh Phú (BTre) : tỉnh Bến Tre Nxb : nhà xuất bản 2. Các kí hiệu : biến đổi thành : tương đương nhau [x, y,z] : tên tác giả, năm, số trang Phiên âm âm vị học :/ / Phiên âm ngữ âm học :[ ] Phụ âm đầu của âm tiết . Ví dụ : l- Phụ âm cuối của âm tiết. Ví dụ : -p Nguyên âm của âm tiết. Ví dụ : -ô-
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Về mặt khoa học Địa danh phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội, là chứng tích về dân tộc, lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế, chính trị của cộng đồng. Nó để lại một dấu ấn có giá trị theo thời gian. Đặc biệt ở lĩnh vực ngôn ngữ, địa danh là nguồn tài nguyên vô tận giúp ta khám phá những tâm tư, tình cảm, tư duy của người xưa gửi gắm trong lời ăn tiếng nói hằng ngày và cả ngôn ngữ văn chương trau chuốt của chữ Hán, chữ Nôm. Chúng ta biết rằng địa danh được cấu tạo từ chất liệu ngôn ngữ, chịu sự chi phối và tác động của ngôn ngữ. Nghiên cứu địa danh là góp phần làm phong phú cho nội dung ngôn ngữ, phát triển cho ngành địa danh học Việt Nam hiện nay vốn hãy còn non trẻ. Địa danh được cấu tạo và chịu sự chi phối của qui luật ngữ âm, ngược lại nó là nguồn tài liệu quí giá cho ngành ngữ âm học. Đối với ngành ngữ pháp học, địa danh cũng góp phần làm sáng rõ về mặt phương thức cấu tạo từ, ngữ. Và hiển nhiên làm phong phú kho tàng từ vựng tiếng Việt không không thể không kể đến vai trò của việc nghiên cứu địa danh. Hơn nữa khi nghiên cứu địa danh là góp phần củng cố tính thống nhất của ngôn ngữ dân tộc đồng thời ngôn ngữ địa phương cũng phát huy được sự phong phú vào ngôn ngữ thống nhất. Địa danh phản ánh đời sống của một vùng đất, ngôn ngữ của một vùng, nghiên cứu địa danh là nghiên cứu ngôn ngữ địa phương của vùng đất đó. Như vậy địa danh còn là nguồn tài liệu cần thiết cho ngành phương ngữ học. Trong cuộc sống, con người cần phải giao tiếp với nhau, mọi vật cần có tên để gọi và địa danh là một minh chứng, ẩn chứa nhiều điều của cuộc sống qua tên gọi đó. 1.2. Về mặt thực tiễn Có đôi lúc chúng ta tự hỏi rằng tại sao có tên Sài Gòn, Cần Thơ, Cà Mau hay Bến Tre…, nó có nguồn gốc và ý nghĩa như thế nào, hoàn cảnh phát sinh và phát
- 2 triển ra sao? Để giải đáp về điều này chỉ có vai trò của địa danh học mới có thể làm sáng rõ. Việt Nam do ảnh hưởng của chiến tranh, là một vùng đất tiếp xúc, pha trộn nhiều nền văn hóa cho nên ít nhiều gì cũng dễ dẫn đến sự “đồng hóa”, nhưng chính nhờ có những tên gọi nảy sinh từ một vùng đất được lưu giữ và lưu truyền đã góp phần gìn giữ và phát huy được bản sắc dân tộc, giúp con người gần gũi với quê hương mình và thêm yêu quê hương hơn, ra sức phát triển, làm giàu thêm quê hương. Bên cạnh đó việc đồng hóa một ngôn ngữ đối với một dân tộc hơn ngàn năm Bắc thuộc, trăm năm giặc Tây là điều dễ xảy ra nhưng với một Việt Nam anh hùng thì việc gìn giữ tiếng nói của dân tộc, phát triển ngôn ngữ ngày càng phong phú là một vai trò cần thiết của địa danh. Địa danh Nôm được lưu giữ, truyền bá cho đến ngày nay, ngôn ngữ thuần Việt gắn với những tên gọi đa dạng của địa danh, thấy được cách ứng xử linh hoạt của dân tộc trong suốt bề dày lịch sử. Là một nhà mô phạm, nghiên cứu địa danh giúp cho chúng tôi giáo dục học sinh về sự tìm tòi, khám phá về một vùng đất tươi đẹp, trù phú nơi các em sinh sống, thấy được những ước mơ về cuộc sống yên bình, sung túc, giàu có của người xưa hay những chiến tích oai hùng còn lưu danh, văn hóa của một thời kì, sự thay đổi của một vùng đất… Bến Tre là một tỉnh nhỏ của đồng bằng sông Cửu Long nhưng được biết đến với những chiến tích oai hùng, kiêu dũng, người dân nơi đây có một bề dày đấu tranh kiên cường, bất khuất với nhiều danh nhân lịch sử: Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Sương Nguyệt Anh, Nguyễn Thị Định…cùng với các phong trào nổi dậy của quần chúng như Khởi nghĩa Nam Kì, phong trào Đồng Khởi. Nhắc đến Bến Tre là nghĩ đến phong trào Đồng Khởi, có thể xem, đây là phong trào đòn bẩy, làm cơ sở cho sự nỗi dậy của các phong trào khác trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ ở Nam Kì. Được mệnh danh là vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, trải qua bao đời Bến Tre vẫn còn lưu giữ nguyên các giá trị của nó. Mặc dù lịch sử hình thành vùng đất chỉ
- 3 khoảng hơn 300 trăm, song địa danh ở đây được kết tinh bởi nhiều vùng văn hóa của các dân tộc khác nhau trong buổi đầu khai phá như Chăm, Khơme, Hoa…, “địa danh ở đây không phải là đơn giản”[ Nguyễn Văn Âu, 2000, tr 142]. Có thể nói Bến Tre là một vùng đất đầy tiềm năng và hấp dẫn, là mãnh đất màu mỡ cho các ngành khoa học nghiên cứu trong đó có địa danh. Vận dụng những lí thuyết về ngôn ngữ học, kết hợp với kiến thức về lịch sử, địa lý, văn hóa, dân tộc cũng như công tác thực tế chúng tôi muốn khắc họa toàn cảnh về bức tranh địa danh ở Bến Tre không nằm ngoài những mục đích nêu trên và lòng tự hào về vùng đất Đồng Khởi anh hùng. 2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống địa danh ở Bến Tre, là toàn bộ các địa danh chỉ đối tượng tự nhiên như địa hình, sông, rạch…tên gọi các đối tượng nhân tạo như địa danh chỉ các công trình xây dựng thuộc về không gian hai chiều như tên đường sá, cầu cống, kênh… tên gọi các địa danh hành chính như tên ấp, xã…và các địa danh chỉ vùng. Trên cơ sở kế thừa những người nghiên cứu trước, người làm luận văn cũng muốn góp phần hệ thống hóa các phương pháp nghiên cứu của đối tượng địa danh ở Bến Tre nói riêng và đối tượng của địa danh học ở Việt Nam nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Bước đầu nghiên cứu địa danh ở góc độ ngôn ngữ, qua thu thập tài liệu, chúng tôi điều tra thực tế mục đích là để làm sáng rõ về phương thức cấu tạo địa danh, nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình biến đổi địa danh ở Bến Tre góp phần làm phong phú ngành địa danh học Việt Nam. Công trình hệ thống lại những khái niệm về địa danh, quá trình phân bố địa danh, phân loại địa danh, đối tượng nghiên cứu trên cơ sở kế thừa, bổ sung và phát triển. Chúng tôi góp phần gìn giữ về lịch sử tiếng Việt, bảo tồn phương ngữ của một vùng đất.Qua đó, chúng ta còn thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa địa danh với các
- 4 phân ngành như từ vựng học, ngữ âm học và ngữ pháp học cũng như mối quan hệ giữa địa danh học với các ngành khoa học khác như: địa lý học, lịch sử học, văn hóa học, dân tộc học… Chúng tôi bổ sung, hệ thống lại, làm sáng rõ nguồn gốc, ý nghĩa những địa danh ở Bến Tre vốn còn bị thờ ơ, mờ nhạt. 3.2. Nhiệm vụ Nhiệm vụ của việc nghiên cứu địa danh không nằm ngoài những mục đích nêu trên trên cơ sở mang tính chất lí luận và tính thực tiễn của việc nghiên cứu. 4. Lịch sử nghiên cứu 4.1. Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam Địa danh Việt Nam thật sự hình thành và phát triển chỉ vài chục năm trở lại đây. Nói như vậy, không có nghĩa là dân tộc ta không quan tâm đến nguồn gốc, sự hình thành và phát triển cũng như quá trình biến đổi của địa danh. Ở giai đoạn trước đó nó chỉ được đề cập trong các tản văn, sách biên khảo địa phương chí, chủ yếu nhìn nhận địa danh ở góc độ lịch sử, địa lý. Trong An Nam chí lược của tác giả Lê Tắc (1333), một Việt gian ở đời Trần có ghi chép về danh sách những khu vực hành chánh, những núi sông lớn và những cổ tích danh tiếng của thời đại nhà Trần trở lên. Lê Qúi Đôn với Phủ biên tạp lục gồm 6 quyển (1776), cũng có bàn đến một số địa danh thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, địa lí, lịch sử, văn hóa ở miền Nam nước ta Thời nhà Nguyễn, đời Gia Long có bộ sách Nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định gồm 10 quyển đã ghi chép hệ thống giao thông đường bộ ở nước ta từ kinh đô Phú Xuân đến Gia Định, và từ kinh đô đến Lạng Sơn, còn đường thủy được ghi chép từ Gia Định đến Vĩnh Trấn (Vĩnh Long). Tác giả giới thiệu một cách tổng quan về đường đi nước bước theo chiều dài đất nước. Sau Lê Quang Định, có tác giả Trịnh Hoài Đức với Gia Định thành thông chí (có thể hoàn thành trong đời Gia Long, 1802-1820), sách gồm sáu quyển: Tinh dã chí, Sơn xuyên chí, Cương vực chí, Phong tục, Sản vật, Thành trì. Sách này đã phản ánh đầy đủ về đất Gia Định thuộc vùng đất Nam Bộ, là bộ sách quý thể hiện ở
- 5 nhiều phương diện như diên cách địa lý, thành trì, khí hậu và các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, đặc biệt là giới thiệu nguồn gốc và lí giải một số địa danh. Ở đời Minh Mệnh (1820-1840), Phan Huy Chú cho ra đời Lịch triều hiến chương loại chí bộ sách gồm 49 quyển, trong đó 5 quyển bàn về sự khác nhau về phong thổ, cương vực qua các đời của các trấn từ Bắc vào Nam và được đánh giá là “ một bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống ở Việt Nam” [Nguyễn Tấn Anh, tr.5]. Đặng Xuân Bảng sống ở đời Tự Đức (1847-1883) biên soạn cuốn Sử học bị khảo trong đó có phần bàn về Tiên triều địa danh diên cách có giải thích về sự thay đổi một số địa danh, phân loại địa danh. Đại Nam nhất thống chí (1882) gồm nhiều quyển, mỗi quyển chép về một tỉnh gồm các nội dung: phương vị, phân dã, kiên trì diên cách, phủ huyện, hình thể, khí hậu, phong tục, thành trì, học hiệu, hộ khẩu, điền phú, sơn xuyên, quan tấn, dịch trạm, thị lập, từ miên,tự quán, nhân vật, thổ sản. Đây được xem là bộ địa chí phản ánh đầy đủ nhất các mặt của đời sống dân tộc Việt Nam, trong đó bộ sách có giải thích về nguồn gốc, ý nghĩa và cách thức biến chuyển của địa danh. Đời Đồng Khánh (1885-1889), có bộ Đồng Khánh địa dư chí lược (1886) đã ghi chép đầy đủ danh sách các phủ, huyện, tổng, xã. Cùng thời điểm này còn có cuốn Đại nam quốc cương giới vựng biên cả Hoàng Hữu Xứng gồm bảy quyển,ở sau sách có bản đồ chỉ toàn bộ địa vực nước Việt Nam. Có thể nói đây là những tài liệu quí giá cho việc tìm hiểu vị trí, sự thay đổi các địa danh lịch sử. Đến thời thuộc Pháp người ta có bàn về địa danh nhưng chủ yếu phục vụ cho mục đích truyền đạo của các giáo sĩ và công cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Cuối thế kỉ XIX các địa danh được ghi chép lại chủ yếu là địa danh hành chính, phục vụ cho chính trị xã hội đó là tập Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra). Đầu thế kỉ XX giáo sĩ L. Cadiêre có nghiên cứu địa lý lịch sử tỉnh Quảng Bình Géographie historique du Quảng Bình d’après les annales imperials (địa lý học lịch sử tỉnh Quảng Bình theo Quốc triều thực lục). Những năm mười của thế kỉ XX nhà Hán học H.Maspéro nghiên cứu về địa lý học lịch sử nước ta ở nhiều đời khác nhau gồm các tập Le Protectorat général de L’Annam sous les
- 6 Tang (An Nam đô hộ phủ ở đời Đường); La géographie politique de L’Annam sous les Lý, les Trần ei les Hồ (địa lí học chính trị ở các triều Lý, Trần, Hồ). Đến năm 1928, tác giả Ngô Vĩ Liễn có biên soạn cuốn Tự vựng làng xã ở Bắc Kỳ cũng đã góp phần củng cố, bổ sung vốn địa danh hành chính lúc bấy giờ. Đến khoảng năm 1936 Cl. Madrolle có bài Le Tonkin anciens (xứ Bắc Kỳ xưa) đã nghiên cứu về vị trí các quận Giao Chỉ thời Hán thuộc. Khi địa danh học thế giới có sự biến chuyển đáng kể từ giai đoạn hình thành sang giai đoạn phát triển thì địa danh học Việt Nam mới dần hình thành vào giữa thế kỉ XX. Ở giai đoạn này, do ảnh hưởng sự phát triển của địa danh học thế giới như Ý, Pháp, Nga…địa danh học Việt Nam có sự khởi sắc. Từ những năm 1960 trong bài Đất Việt trời Nam và Sông núi miền Nam (địa danh học và phong tục học), tác giả Thái Văn Kiểm đã chỉ ra được đặc điểm, nguồn gốc, ý nghĩa và cách phân loại của một số địa danh dưới góc độ lịch sử văn hóa. Năm 1964, Đào Duy Anh cho ra đời tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời. Tác giả đã dùng phương pháp lịch sử địa lý nghiên cứu về địa lý hành chính để xác định cương vực, vị trí và sự thay đổi các khu vực hành chính cũng như sự mở rộng lãnh thổ ở các đời khác nhau, trong đó địa danh được chú ý nhiều. Cùng năm này, có một nữ tác giả tên Hoàng Thị Châu đã có bước đột phá trong lĩnh vực nghiên cứu địa danh ở góc độ ngôn ngữ học qua việc tìm hiểu địa danh sông với sản phẩm Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông [1964]. Năm 1976, Trần Thanh Tâm trong bài viết Thử bàn về địa danh học Việt Nam đã nêu lên được những vấn đề cơ bản cho địa danh học Việt Nam. Tuy nhiên cách phân loại địa danh còn dài dòng lại chưa phản ánh đầy đủ nội dung của địa danh. Vận dụng những kiến thức về địa danh học, năm 1984, tác giả Đinh Văn Nhật đã có Phương pháp vận dụng địa danh học trong nghiên cứu địa lý học, lịch sử cổ đại Việt Nam bài viết phần nào cho thấy được sự kết hợp giữa địa danh với các chuyên ngành khác. Năm 1993, Nguyễn Văn Âu xuất bản cuốn Địa danh Việt Nam và năm 2000 tái bản dưới nhan đề Một số vấn đề về địa danh Việt Nam. Hai cuốn sách đã phản
- 7 ánh được về đối tượng, về nguyên tắc đặt tên, về cách phân loại, phân vùng và sự biến đổi của địa danh. Tuy nhiên, tác giả vẫn còn vận dụng cách lí giải địa danh dưới góc địa lý học lịch sử. Nguyễn Quang Ân đã biên soạn công phu, nghiêm túc cuốn sách Việt Nam- những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945-1997, góp phần giúp chúng ta tra cứu về địa danh, địa giới hành chính trong lịch sử và những biến đổi của nó. Ngành địa danh học Việt Nam ngày càng tạo được sự hứng thú cho các nhà nghiên cứu cày xới, tìm tòi, phát hiện. Nếu như trước đó địa danh học đa phần được đề cập ở các nhà nghiên cứu địa lý học lịch sử thì từ những năm 1990 trở về sau địa danh tạo được sự thu hút của nhiều nhà khoa học như văn hóa học, dân tộc học, nhân chủng học… đặc biệt là các nhà ngôn ngữ học. Có thể nói lần đầu tiên luận án phó tiến sĩ về địa danh học được nghiên cứu ở góc độ ngôn ngữ được tác giả Lê Trung Hoa bảo vệ thành công vào năm 1990 với đề tài Những đặc điểm chính của địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả trình bày một cách hệ thống các vấn đề về đối tượng, nguyên tắc, phương pháp nghiên cứu, cách phân loại, phương thức đặt địa danh, cấu tạo, nguốn gốc, ý nghĩa và sự phản ánh hiện thực của địa danh. Đây là công trình nghiên cứu nghiêm túc, đào sâu một cách kĩ lưỡng và là cần thiết cho những ai quan tâm về địa danh học. Ngoài ra hàng loạt các bài báo, tạp chí về địa danh của tác giả được phát hành như Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc một số thành tố chung trong địa danh Nam Bộ (1983), Địa danh bằng chữ và địa danh bằng số (1999), Chung quanh thuật ngữ địa danh (2000), Vấn đề dịch các địa danh thuần Việt ở Nam Bộ từ các văn bản Hán (2002), Địa danh hành chính ở Việt Nam (2002), Các phương pháp cơ bản trong việc nghiên cứu địa danh (2002), Vấn đề biên soạn từ điển địa danh (2003), Những nét đặc thù của địa danh hành chính Nam Bộ (2004)…Tiếp đến năm 2006, Lê Trung Hoa cho ra đời một công trình nghiên cứu mang tầm cao mới, sách Địa danh học Việt Nam, tác phẩm cho thấy ngoài việc hệ thống lại các vấn đề đã nêu trong luận án trước đó, tác giả còn tiếp tục mở rộng việc nghiên cứu về địa danh ở nhiều vùng khác nhau như vùng Tây, Bắc Bắc Bộ, Tây Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Chăm,
- 8 Khơme cũng như cách tìm hiểu ý nghĩa của một số thành tố chung, nguồn gốc và ý nghĩa một số địa danh ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ, cách phân vùng địa danh…Đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị cao. Góp phần làm phong phú và hiệu quả cho ngành địa danh học Việt Nam, năm 1996 trong luận án tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng (sơ bộ so sánh với địa danh một số vùng khác, tác giả Nguyễn Kiên Trường đã phát triển thêm lên trên cơ sở mà Lê Trung Hoa nêu trước đó. Ngoài ra tác giả đã phân loại địa danh theo đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn, theo chức năng giao tiếp và theo hệ quy chiếu đồng đại, lịch đại cũng như có so sánh về cấu tạo, nguồn gốc, ý nghĩa và sự biến đổi địa danh Hải Phòng so với các vùng khác. Năm 1999, tác giả Bùi Đức Tịnh cho biết thêm về địa danh được dùng cho các vật thể nào, phương cách đặt tên cho từng vật thể, những biến đổi liên hệ đến địa danh và cho biết các từ tố hay xuất hiện trong địa danh trong Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ. Tác phẩm cũng đã góp phần không nhỏ cho ngành địa danh học. Ngoài ra còn có luận án Nghiên cứu địa danh Quảng Trị của Từ Thu Mai bảo vệ vào năm 2004. Luận án dựa trên những lí thuyết cơ bản trong nghiên cứu địa danh của Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường trước đó và đi sâu nghiên cứu địa danh ở góc độ văn hóa. Tiếp đến là luận án Những đặc điểm chính của địa danh Dak Lăk (2005) của Trần Văn Dũng và nhiều luận văn, từ điển khác đã nghiên cứu về địa danh. Nhìn chung việc nghiên cứu về địa danh từng bước đã được xác lập và ngày càng có nhiều người tham gia lĩnh vực này, góp phần làm phong phú cho ngành địa danh học Việt Nam. Tuy nhiên ở Bến Tre vẫn chưa có công trình nào đào sâu kĩ lưỡng, vẫn còn nhiều cách hiểu và lí giải khác nhau theo cảm thức. Đặc biệt tìm hiểu địa danh ở góc độ ngôn ngữ còn mờ nhạt, chưa hệ thống và đó là cơ sở là động lực để người làm luận văn hướng tới.
- 9 4.2. Nghiên cứu địa danh trong tỉnh Bến Tre Trước đây địa danh trong tỉnh Bến Tre cũng như ở Nam Kì Lục tỉnh chỉ được nhắc đến trong việc tìm hiểu về địa lý chí, lịch sử của triều nhà đại nhà Nguyễn, nhằm phục vụ cho việc quản lí, cai trị. Những năm sau đó, người sống trên đất Bến Tre - Trương Vĩnh Ký- có biên soạn cuốn Petit cours de géographie de la Basse Cochinchine (tiểu giáo trình địa lý xứ Nam Kì) (1875), ngoài việc giới thiệu sơ nét về lịch sử Nam Bộ thời bấy giờ, ông còn nêu lên về địa lý hành chính Nam Bộ, sự phân chia hành chính của triều đình phong kiến và của thực dân Pháp. Vào năm 1903, Imp.L. Ménard đã biên soạn cuốn Monographie de la province de Bến Tre để tìm hiểu riêng về địa lý, hành chính của Bến Tre cuối thế kỉ XIX, tài liệu này đã góp phần không nhỏ trong việc nghiên cứu địa danh lịch sử, sự tồn tại và sự biến đổi của địa danh. Đến năm 1965, trong Kiến Hòa xưa và nay, tác giả Huỳnh Minh đã đề cập đến vùng đất, lịch sử, con người Bến Tre cũng như về địa danh. Địa danh được tác giả nhìn nhận dưới góc độ lịch sử, địa lý, văn hóa và còn nêu lên nguyên nhân thay đổi của một số địa danh, giúp cho chúng ta hiểu rõ về địa danh xưa để có thể hiểu đúng về địa danh nay. Năm 1967, trong Địa phương chí tỉnh Kiến Hòa cũng đã khái quát lên được tên gọi của các địa danh tiêu biểu trong tỉnh, nguồn gốc và ý nghĩa của một số địa danh, đây là tài liệu địa danh lịch sử có ích cho việc nghiên cứu, đối chiếu địa danh ngày nay. Người Bến Tre hiểu rõ về Bến Tre là tác giả Nguyễn Duy Oanh. Năm 1971, tác giả biên soạn cuốn Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1945. Mặc dù tiêu đề chỉ tính lịch sử nhưng trong tác phẩm của ông đề cập ở nhiều khía cạnh như địa lý, lịch sử, kinh tế, hành chính…trong đó có địa danh, giải thích một số địa danh, sự hình thành và sự thay đổi những địa danh hành chính dưới góc độ địa lý, lịch sử cũng như cho biết những huyền thoại gắn với địa danh như thế nào.
- 10 Có thể nói đây là tài liệu quý giá không những cho các nhà nghiên cứu ở lĩnh vực lịch sử mà còn cung cấp những cứ liệu cho những ai quan tâm về địa danh. Năm 1985, tác giả Nguyễn Phương Thảo có bài viết về địa danh đăng trên tạp chí dân tộc học Những đặc điểm cấu thành các địa danh ở Bến Tre. Lần đầu tiên một số địa danh Bến Tre được nghiên cứu ở góc độ ngôn ngữ về nguồn gốc, ý nghĩa, cách cấu tạo và thống kê địa danh theo đặc điểm cấu thành. Tuy nhiên cách lí giải của tác giả còn có những điều bất cập và chưa đủ cơ sở thuyết phục đôi khi rơi vào cảm quan chủ nghĩa. Năm 1993, Vương Hồng Sển, một người con Nam Bộ biên soạn cuốn “Tự vị tiếng Việt miền Nam” đã trình bày những nét cơ bản về nguồn gốc, ý nghĩa và sự biến đổi của địa danh Nam Bộ trong đó có Bến Tre. Đây là công trình được nghiên cứu công phu, kĩ lưỡng góp phần làm nên diện mạo về lịch sử, địa lý, về vốn từ vựng, về tiếng địa phương của vùng đất này và là tài liệu hữu ích cho những ai nghiên cứu về từ nguyên học.Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, sự kiến giải của tác giả còn mang tính chủ quan, và phản ánh nội dung vấn đề chưa đựơc đầy đủ. Địa chí Bến Tre của tác giả Thạch Phương- Đoàn Tứ và những người khác (tái bản lần thứ nhất năm 2001) là một công trình nghiên cứu đòi hỏi thời gian lâu dài và cả sự kiên trì của một đội ngũ lao động tập thể, công trình đã bao quát được toàn bộ những nét cơ bản về lịch sử, văn hóa, địa lý, kinh tế, xã hội, con người và dành những trang viết riêng về địa danh ở Bến Tre. Tuy nhiên, cách lí giải của các tác giả về địa danh chủ yếu là ở phương diện lịch sử, địa lý. Dù vậy, có thể xem đây là bước khởi đầu cho sự khởi thủy của việc nghiên cứu địa danh. Ngoài ra địa danh cũng còn được đề cập trong các tài liệu khoanh vùng ở cấp huyện như: Ba Tri đất và người(1984 - nhiều tác giả), Bình Đại địa chí (1987 - nhiều tác giả), Giồng Trôm xưa và nay (2006 - nhiều tác giả). Gần đây, một vài tác giả có những bài báo, tạp chí có nói về địa danh ở Bến Tre như Địa danh ở Bến Tre của Nguyễn Thanh Lợi (2005), Vài nét về địa danh ở Bến Tre của Nguyễn Thị Hồng Chi (2006) đã trình bày sơ nét về đối tượng, phân loại, ý nghĩa và cách cấu tạo của một số địa danh nhưng việc tiếp cận chỉ mang tính
- 11 chất sơ bộ, chưa làm nổi bật được đặc trưng riêng của địa danh ở Bến Tre. Nhưng cũng có thể xem đây là bước tiếp cận khởi đầu đáng quý của các tác giả. Nhìn chung địa danh ở Bến Tre chỉ được tìm hiểu một cách riêng lẻ, tự phát, đôi khi rơi vào cảm thức chủ quan của người viết. Việc nghiên cứu địa danh đòi hỏi phải có thời gian, vốn sống, thu thập cứ liệu, thông tin, so sánh đối chiếu, lí giải, phát triển và đặc biệt người làm luận văn là con của vùng đất này cho nên nghiên cứu địa danh của tỉnh nhà sẽ có một lợi thế. Chính vì động lực yêu quí vùng đất nơi mình sinh ra và lớn lên, với thái độ nghiêm túc chúng tôi sẽ cung cấp những cứ liệu nghiên cứu địa danh một cách chính xác và có hệ thống hơn. 5. Phương pháp và nguyên tắc nghiên cứu Do tính chất phức tạp của việc nghiên cứu địa danh nên chúng tôi có thể vận dụng nhiều phương pháp khác nhau trong việc nghiên cứu. Hiện nay, các tác giả khi nghiên cứu về địa danh cũng đã vận dụng nhiều phương pháp khác nhau. Theo Nguyễn Văn Âu thì tùy theo đối tượng và hoàn cảnh cụ thể mà có thể sử dụng một hay nhiều phương pháp cùng lúc. Tác giả cho rằng: “Địa danh học có liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ, văn tự, nên loại nghiên cứu qua văn học là rất quan trọng” [1993, tr.9] và đưa ra các phương pháp sau: a- Muốn giải thích được địa danh phải dựa vào thông tục học ,b- Muốn xác định được nguồn gốc phải căn cứ vào từ nguyên học và c- Qua ngôn ngữ học dân tộc. Trong tác phẩm Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam (2000), ngoài các phương pháp đã nêu ở trên tác giả chú ý thêm về phương pháp địa lý và phương pháp lịch sử khi nghiên cứu địa danh. Trong luận án của mình, Nguyễn Kiên Trường đã sử dụng phương pháp tổng hợp của ngôn ngữ học và ngoài ngôn ngữ bao gồm các phương pháp sau: Phương pháp ngữ âm học- so sánh lịch sử; phương pháp địa lý- ngôn ngữ học(phương ngữ học), phương pháp bản đồ, phương pháp thống kê ngôn ngữ học, phương pháp nghiên cứu của từ vựng, phương pháp ngôn ngữ học xã hội, phương pháp nghiên cứu theo hướng đồng đại, lịch đại và các phương pháp tri thức của địa lý học, sử học và văn hóa học.
- 12 Nhìn chung, những phương pháp mà các tác giả đưa ra khi nghiên cứu về địa danh đã khái quát lên được mục đích, nhiệm vụ và hiệu quả của công việc này. Tuy nhiên phương pháp mà tác giả Nguyễn Văn Âu đưa ra chưa đủ để tiến hành nghiên cứu. Còn phương pháp mà tác giả Nguyễn Kiên Trường đưa ra hơi dài dòng, phức tạp nhưng lại không đủ cho việc nghiên cứu địa danh. Vì địa danh gắn liền với một vùng đất nào đó đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng phương pháp điền dã vì đôi khi có những công việc đòi hỏi phải đi thực tế mới có thể đưa thông tin đúng và chính xác. Ở luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp và nguyên tắc nghiên cứu địa danh của tác giả Lê Trung Hoa để nghiên cứu về địa danh ở tỉnh Bến Tre. 5.1. Phương pháp nghiên cứu 5.1.1. Thống kê, phân loại Phương pháp này giúp chúng ta hệ thống được sự phân bố về số lần xuất hiện của các thành tố chung của địa danh, từ đó lí giải để nhận định đặc điểm, tính chất của vùng đất đó. Ngoài ra việc thống kê giúp chúng ta định lượng để xác định được về mặt cấu tạo, phương thức cấu thành, cũng như ý nghĩa của nó. Thống kê giúp cho chúng ta không chỉ có cứ liệu để lập bảng nghiên cứu, tiến hành phân loại mà còn giúp ta có cái nhìn toàn cảnh về địa danh tỉnh nhà. Trước khi tiến hành thống kê, chúng tôi đã thu thập những cứ liệu trên bản đồ, trên tài liệu tham khảo, trên các sách địa phương chí và đặc biệt là công tác thực tế ở các huyện, thị xã trong tỉnh. Sau đó tiến hành phân loại để có cái nhìn hệ thống hơn về địa danh. Có thể phân loại địa danh Bến Tre theo tiêu chí loại hình gồm địa danh tự nhiên và địa danh không tự nhiên, trong đó địa danh tự nhiên chỉ địa hình thiên nhiên, còn địa danh nhân tạo, địa danh chỉ các công trình xây dựng thuộc về không gian hai chiều, địa danh hành chính và địa danh vùng. Ngoài ra còn có thể phân loại theo ngữ nguyên gồm địa danh thuần Việt và địa danh không thuần Việt và theo cách thức gọi tên như địa danh mang tên người, địa danh mang tên các loài thực vật, địa danh mang tên các loài động vật…
- 13 5.1.2. Điền dã Đầu tiên, việc đi thực tế giúp cho người nghiên cứu bổ sung thêm đầy đủ những cứ liệu trong việc thống kê địa danh. Tiếp theo, công tác thực địa giúp cho người thực hiện làm sáng rõ những vấn đề còn bỏ ngỏ, nghi vấn hay tranh cãi mà chưa có lời giải đáp hay sự thống nhất. Việc “tai nghe mắt thấy” sẽ giải đáp được nguồn gốc, sự hình thành và mất đi của các địa danh, ý nghĩa của chúng, đối chiếu với những cứ liệu còn nghi vấn, điền vào chỗ trống những vấn đề còn bỏ ngỏ hay lí giải xác đáng các vấn đề đang tranh cãi. Ngoài ra, công tác điền dã giúp phát hiện ra các địa danh còn đang tiềm tàng, bí ẩn ở đâu đó, đối chiếu với những địa danh còn nghi ngờ hay sửa sai các địa danh trên bản đồ, sách báo. 5.1.3. So sánh đối chiếu Phương pháp này là một hệ thống thủ pháp nghiên cứu khoa học để chúng ta tìm ra cái chung và cái đặc thù của các địa danh được đối chiếu, so sánh, cũng như xác định được điểm giống và khác nhau giữa địa danh vùng này và địa danh vùng khác, phát hiện ra những quy luật, những khuynh hướng đặc trưng của địa danh vùng đang nghiên cứu và xác định những yếu tố tương đương giữa địa danh được so sánh, đối chiếu. Do đó, sử dụng thủ pháp đối chiếu, so sánh ở bình diện đồng đại và bình diện lịch đại sẽ giúp chúng ta xác định được nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh, những thay đổi về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, từ vựng của các địa danh đó. Các địa danh đã bị chuyển hóa sẽ được phục nguyên lại cái hình thái ban đầu của các địa danh để xác định quá trình biến đổi của chúng như thế nào. Chắc chắn chúng ta phải dùng đến phương pháp so sánh lịch sử. 5.1.4. Khảo sát bản đồ “Bản đồ cho cái nhìn toàn cảnh về không gian và thời gian ở một thời điểm nhất định của một lớp địa danh thuộc một khu vực, địa bàn, có khi cả một vùng rộng lớn nhưng lại rất chi tiết về đối tượng và tên gọi đối tượng”[Nguyễn Kiên Trường, 1996, tr.6]. Phương pháp khảo sát bản đồ sẽ giúp chúng ta nhận biết được
- 14 những nhóm địa danh xuất hiện nhiều ở khu vực nào, nhằm xác định được tính lí do của chúng, cũng như nguồn gốc và ý nghĩa của chúng. Khảo sát, đối chiếu các bản đồ ở nhiều giai đoạn khác nhau nhằm giúp chúng ta biết được địa danh nào hình thành, địa danh nào tồn tại và địa danh nào mất đi, cách thay đổi về ngữ âm, chữ viết, hay phát hiện được cách thay đổi tên gọi khác nhau của cùng một đối tượng để phát hiện nguyên nhân thay đổi đó, và nhằm mục đích gì. Ngoài những phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp tích hợp, tìm hiểu địa danh trong liên hệ với nhân danh, hiệu danh, vận dụng linh hoạt, hiệu quả của thủ pháp diễn dịch và qui nạp để đạt hiệu quả nghiên cứu tốt nhất. 5.2. Nguyên tắc nghiên cứu Tác giả Nga A.I. Popov đã có một bài viết trình bày Những nguyên tắc cơ bản của việc nghiên cứu địa danh (Osnovnye prinsipy toponimi cheskogo issledovanija) trong đó có hai nguyên tắc cơ bản mà tác giả nhắc nhở đối với người làm công việc này là: thứ nhất -Phải dựa vào tư liệu lịch sử như sách báo, biểu đồ, bản đồ của các ngành ngôn ngữ học, nhân chủng học, địa lý học, thứ hai- Phải thận trọng khi vận dụng phương pháp thành tố để phân tích ngữ vĩ của địa danh vì có thể dẫn đến sai lầm [Lê Trung Hoa, 2006, tr.33]. Còn Ch. Rostaing, một tác giả người Pháp trong Les noms de lieux (1965) thì cho rằng khi nghiên cứu địa danh phải dựa trên các nguyên tắc là phải tìm các hình thức cổ của các từ cấu tạo địa danh. Tiếp theo là dựa trên kiến thức ngữ âm học địa phương để xác định đúng từ nguyên của địa danh nào đó. Tham khảo các nguyên tắc trên của các nhà địa danh học, tác giả Lê Trung Hoa đã đưa ra 5 nguyên tắc cơ bản khi nghiên cứu địa danh: 1. Phải hiểu rõ lịch sử địa bàn của mình cần nghiên cứu 2. Phải hiểu rõ địa hình của địa bàn 3. Phải tìm những hình thức cổ của địa danh 4. Phải nắm vững đặc điểm về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của phương ngữ tại địa bàn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 670 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 667 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 303 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 229 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 248 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 240 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 168 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 166 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 155 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 155 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 122 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn