intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu từ mới với sự biến đổi xã hội trong báo chí tiếng Việt thời kỳ đổi mới (1986 – nay)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

49
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tiến hành nghiên cứu sự biến đổi của các từ mới xuất hiện trong báo chí tiếng Việt thời kỳ đổi mới (1986 –nay) để từ đó rút ra những kết luận về sự phát triển của lớp từ mới này đối với sự biến đổi của xã hội Việt Nam theo hai mặt xác định: văn hóa hữu hình và văn hóa phi hữu hình được biểu đạt. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu từ mới với sự biến đổi xã hội trong báo chí tiếng Việt thời kỳ đổi mới (1986 – nay)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------------------------- DƢƠNG NHẬT BÌNH NGHIÊN CỨU TỪ MỚI VỚI SỰ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI TRONG BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – NAY) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC Hà nội – 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------------------------- DƢƠNG NHẬT BÌNH NGHIÊN CỨU TỪ MỚI VỚI SỰ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI TRONG BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – NAY) Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 02 40 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS Lê Quang Thiêm Hà nội – 2016
  3. Lời cảm ơn ! Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn thầy giáo hướng dẫn GS. TS Lê Quang Thiêm, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để đưa ra những định hướng khoa học, tận tình hướng dẫn và cung cấp nhiều tài liệu quí báu cho tôi hoàn thành công trình khoa học này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngôn ngữ đã truyền thụ cho tôi kiến thức quí báu trong thời gian tôi học tập tại trường. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình đã luôn sát cánh bên cạnh và động viên tôi cả về vật chất lẫn tinh thần, tạo điều kiện để tôi vững vàng hơn trong học tập và nghiên cứu. Cảm ơn những người bạn thân thiết đã giúp đỡ động viên, góp ý và tìm kiếm tư liệu để tôi hoàn thành tốt luận văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà nội, tháng 11 năm 2016 Tác giả Dƣơng Nhật Bình
  4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 3 4. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 3 5. Ngữ liệu nghiên cứu .................................................................................... 5 6. Cái mới của luận văn .................................................................................. 6 7. Bố cục của luận văn..................................................................................... 7 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỪ MỚI ......................................................................................... 8 1. Dẫn nhập ...................................................................................................... 8 1.1. Lịch sử tình hình nghiên cứu về từ mới ................................................. 8 1.1.1. Trong Việt ngữ học ................................................................................. 8 1.1.2. Trong Hán ngữ học.............................................................................. 12 1.2. Quan niệm của luận văn về từ ngữ mới ............................................... 17 1.3. Quan niệm về văn hóa hữu hình và văn hóa phi hữu hình ................ 19 1.3.1. Khái niệm văn hóa ............................................................................... 20 1.3.2. Văn hóa hữu hình và văn hóa phi hữu hình ...................................... 22 1.4. Tiểu kết .................................................................................................... 25
  5. CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG TỪ MỚI THUỘC VỀ VĂN HÓA HỮU HÌNH PHẢN ÁNH SỰ BIỂN ĐỔI XÃ HỘI VIỆT NAM ............... 28 2.1. Dẫn nhập ................................................................................................. 28 2.2. Ba từ loại thực từ (danh từ, động từ, tính từ) thuộc văn hóa hữu hình....... 28 2.2.1. Từ mới trong phạm vi văn hóa hữu hình là các danh từ ................... 30 2.2.2. Từ mới trong phạm vi văn hóa hữu hình là các động từ ................... 49 2.2.3. Từ mới trong phạm vi văn hóa hữu hình là các t nh từ ..................... 58 2.3. Những từ mới thuộc phạm vi văn hóa hữu hình với sự biến đổi của xã hội Việt Nam ............................................................................................. 62 2.4. Tiểu kết .................................................................................................... 66 CHƢƠNG 3: NHỮNG NỘI DUNG TỪ MỚI THUỘC VỀ VĂN HÓA PHI HỮU HÌNH PHẢN ÁNH SỰ BIỂN ĐỔI XÃ HỘI VIỆT NAM ....... 67 3.1. Những từ mới thuộc về sự vật hiện tƣợng tôn giáo, tín ngƣỡng ........ 68 3.2. Những từ mới thuộc về sự vật hiện tƣợng văn học, nghệ thuật, âm nhạc ................................................................................................................. 73 3.2.1. Khái niệm về văn học, nghệ thuật, âm nhạc....................................... 73 3.2.2. Những từ mới thuộc về sự vật hiện tượng văn học, nghệ thuật, âm nhạc .... 74 3.3. Những từ mới thuộc về sự vật hiện tƣợng thể thao ............................ 79 3.3.1. Khái niệm thể thao ............................................................................... 79 3.3.2. Từ mới thuộc về sự vật hiện tượng thể thao ....................................... 80 3.4. Những từ mới thuộc phạm vi văn hóa phi hữu hình với sự biến đổi
  6. của xã hội Việt Nam ...................................................................................... 83 3.5. Tiểu kết .................................................................................................... 86 KẾT LUẬN .................................................................................................... 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 96
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1 SỐ LIỆU VỀ TỪ MỚI THUỘC PHẠM VI VĂN HÓA HỮU HÌNH .............................................................................................................. 30 Bảng 2.2 SỐ LIỆU DANH TỪ MỚI............................................................ 30 Bảng 2.3 SỐ LIỆU VỀ ĐỘNG TỪ MỚI THUỘC PHẠM VI VĂN HÓA HỮU HÌNH ..................................................................................................... 50 Bảng 2.4 TỪ MỚI LÀ CÁC TÍNH TỪ ....................................................... 59 Bảng 3.1 TỪ MỚI THUỘC PHẠM VI VĂN HÓA HỮU HÌNH.................. 68 Bảng 3.2 TỪ MỚI THUỘC LĨNH VỰC TÍN NGƢỠNG/ TÔN GIÁO ... 70 Bảng 3.3 TỪ MỚI THUỘC LĨNH VỰC VĂN HỌC/ NGHỆ THUẬT/ ÂM NHẠC ............................................................................................................. 75 Bảng 3.4 TỪ MỚI THUỘC LĨNH VỰC THỂ THAO............................... 80
  8. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong xã hội, luôn luôn có những sự vật, hiện tượng mới xuất hiện, đồng thời lại có những sự vật, hiện tượng ít được chú ý đến hơn hoặc dần dần mất đi. Những hiện tượng này thường được phản ánh trong vốn từ vựng: có những từ ngữ, những nghĩa mới xuất hiện lại có những từ ngữ mới, nghĩa mới bị thu hẹp dần hoặc mất đi sự hoạt động của nó, tần số xuất hiện nhỏ đi hoặc biến mất hẳn [7, tr.iii]. Từ ngữ là tên gọi để biết được một sự vật hiện tượng trong cuộc sống xã hội. Khi có một sự vật hoặc một hiện tượng mới xuất hiện thì mới có một từ để gọi tên cho nó, cũng giống khi có một người mới ra đời thì phải có một tên gọi cho người đấy. Trong từ ngữ có những từ ra đời từ lâu, ngược lại có những từ ngữ ra đời gần đây. Vì là mới ra đời cho nên thường là chỉ những sự vật hiện tượng cụ thể và trừu tượng mới. Vậy thế nào là ―mới‖? Nên đánh giá cái ―mới‖ như thế nào? Theo chúng tôi, việc đánh giá một từ nào đó là ―mới‖ chỉ được xem xét trên cơ sở đặt các từ đó trong một khoảng thời gian nhất định, tức là ―mới‖ so với một thời điểm nào đó. Tuy nhiên, đại đa số các từ ngữ mới xuất hiện không được nhiều người nói nhận thức ra là có màu sắc mới, bởi lẽ khi những từ đó đã có giá trị giao tiếp thì chúng sẽ nhanh chóng đi vào đời sống xã hội, được mọi người sử dụng như những người bình thường khác. Mặc dù những từ ngữ đấy chưa được nhiều người biết đến, nhưng đã là 1
  9. từ mới thì được coi như là có một hiện tượng, sự vật hay tên gọi mới, ý nghĩa mới ra đời. Khi có từ mới xuất hiện, chứng tỏ trong xã hội đã xuất hiện một hiện tượng mới, sự việc mới hoặc một tên gọi mới, ý nghĩa mới. Và những cái mới này hễ có giá trị giao tiếp hoặc có giá trị sử dụng thì tốc độ đi vào cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của chúng sẽ nhanh đến mức chúng ta không thể tưởng tượng được. Sự ra đời của những cái mới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của xã hội. Do đó, việc nghiên cứu những từ này sẽ giúp chúng ta hiểu được những sự vật hiện tượng mới xuất hiện như thế nào, và tác động của nó đối với sự phát triển của xã hội ra sao? Từ những lí do phân tích ở trên, luận văn của chúng tôi lựa chọn đề tài NGHIÊN CỨU TỪ MỚI VỚI SỰ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI TRONG BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – NAY). 2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những từ mới (bao gồm cả những từ mới xuất hiện cũng như những từ đã có từ thời kì trước đã mất dần rồi lại được xuất hiện trong giai đoạn nghiên cứu của chúng tôi) trong tiếng Việt. Ngữ liệu khảo sát của chúng tôi là những từ mới trong lĩnh vực báo chí mới xuất bản. Bên cạnh việc khảo sát, thu thập tư liệu trên các báo xuất bản trong thời kỳ đổi mới của Việt Nam, tức là từ năm 1986 trở lại đây, chúng tôi chủ yếu tham khảo, sử dụng những từ mới trong cuốn TỪ ĐIỂN TỪ MỚI TIẾNG VIỆT (do Phòng Từ điển học – Viện Ngôn ngữ học đã thu thập trong báo chí tiếng Việt từ năm 1986 cho đến nay). 2
  10. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những từ mới (3 loại thực từ: danh từ, động từ, tính từ) thuộc hai phạm vi nghiên cứu, tức là văn hóa hữu hình và văn hóa phi hữu hình. Cụ thể là những từ mới được dùng để gọi tên cho những sự vật hiện tượng mới thuộc về vật chất, và những từ mới được dùng để gọi tên cho những sự vật hiện tượng mới thuộc về tinh thần. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Luận văn tiến hành nghiên cứu sự biến đổi của các từ mới xuất hiện trong báo chí tiếng Việt thời kỳ đổi mới (1986 –nay) để từ đó rút ra những kết luận về sự phát triển của lớp từ mới này đối với sự biến đổi của xã hội Việt Nam theo hai mặt xác định: văn hóa hữu hình và văn hóa phi hữu hình được biểu đạt. Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành khảo sát và thống kê các đơn vị từ mới trong báo chí tiếng Việt thời kỳ đổi mới (1986 –nay), mà chủ yếu là ba từ loại thực từ trong cuốn Từ điển từ mới tiếng Việt. Sau đó phân loại chúng theo 3 nhóm thực từ (danh từ, động từ, tính từ) thuộc 2 phạm vi lớn là hữu hình và phi hữu hình. Cuối cùng là miêu tả, phân tích và đánh giá sự biến đổi của lớp từ mới này đồng thời rút ra những kết luận về sự phát triển của chúng đối với sự biến đổi của xã hội Việt Nam trong thời kì đổi mới. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để có tư liệu là những từ ngữ mới, chúng tôi chấp nhận cách hiểu từ 3
  11. ngữ mới đó là những từ ngữ mới xuất hiện trong thời kỳ đổi mới tại Việt Nam mà trước giai đoạn nghiên cứu chưa có. Và có thể căn cứ vào những từ được tìm ra trong báo chí nhưng chưa được xuất hiện trong từ điển đã xuất bản, hoặc là đã xuất hiện trong các từ điển đó nhưng nội dung nghĩa là mới trong phạm vi giai đoạn nghiên cứu. Trong trường hợp hiện nay, ở viện Ngôn ngữ học đã có cuốn Từ điển từ mới tiếng Việt do một nhóm tập thể các nhà Ngôn ngữ học sưu tập và biên soạn. Chúng tôi dựa vào nguồn tài liệu này để chọn lựa và phân tích theo phạm vi nghiên cứu của luận văn. Chúng tôi thông qua một số phương pháp nghiên cứu như phương pháp đánh dấu, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích nghĩa, phương pháp lịch sử - so sánh để khảo sát các vấn đề về từ mới trên báo chí tiếng Việt. Thực hiện các phương pháp nghiên cứu về từ mới trong hai phạm vi văn hóa hữu hình và văn hóa phi hữu hình. Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng những phương pháp và thủ pháp cụ thể sau đây: Một là phương pháp thống kê, xác định từ mới. Vì từ mới là những từ ngữ mới xuất hiện cho nên trước hết chúng tôi điều tra khảo sát những từ mới đã được thu thập do tập thể khoa học đã có, đó là một bộ phận từ mới ở trong cuốn Từ điển Từ mới tiếng Việt do viện Ngôn ngữ học sưu tầm, điều tra và xuất bản. Hai là áp dụng phương pháp thống kê phân loại từ mới. Chúng tôi tổng hợp nguồn tư liệu từ mới có số lượng bao nhiêu và sau đó tiến hành phân loại 4
  12. tiếp. Trước hết là tiến hành phân loại theo hai phạm vi nội dung, có bao nhiêu từ thuộc về nội dung phạm vi văn hóa hữu hình và có bao nhiêu từ thuộc về nội dung phạm vi văn hóa phi hữu hình, bởi vì chúng tôi quan niệm văn hóa là một phạm vi rộng bao gồm tất cả mọi sự biến đổi xã hội, tức là có thể phân theo hai phạm vi vật chất và tinh thần. Thứ ba, tiến hành phân tích theo hai phạm vi tương ứng với những bộ phận từ mới. Về phân loại, có bao nhiêu từ mới thuộc về văn hóa hữu hình và văn hóa phi hữu hình và những từ mới này trong hai phạm vi gồm có bao nhiêu từ là danh từ, động từ, tính từ, chúng tôi phải thống kê rõ ràng. Từ các từ mới được phân loại đó tiến hành phân loại nhỏ tiếp theo nhóm về các chức năng hay lĩnh vực trong xã hội, sau đó tiến hành tổng hợp phân tích, so sánh trong hai phạm vi nghiên cứu phân tích trong nội bộ của cuốn từ điển từ mới tiếng Việt, tức là so sánh với những từ chưa phải là từ mới trong khung lượng nhất định để nhận diện sự biến đổi xã hội thông qua hai phạm vi văn hóa hữu hình và văn hóa phi hữu hình. Tất nhiên, khi thực hiện phương pháp chúng tôi luôn luôn thực hiện theo tư duy khoa học là phân tích định lượng kết hợp với phân tích định tính, là tư duy khoa học thì sẽ quán triệt cái tư duy nhận diện và quy luật. 5. Ngữ liệu nghiên cứu Để thực hiện luận văn này, như đầu đề ghi rõ thì việc xác định từ mới (tức là nguồn ngữ liệu cho phân tích của luận văn) là có vị trí hàng đầu. Và 5
  13. như trên trong phần phương pháp chúng tôi đã nói rõ là nguồn ngữ liệu mà chúng tôi thu thập là trong Từ điển từ mới tiếng Việt do viện Ngôn ngữ học công bố và xuất bản. Đây là cuốn Từ điển được một tập thể các tác giả và là những nhà chuyên môn Ngôn ngữ học sưu tầm, nghiên cứu và công bố năm 2002. Để phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ lựa chọn những từ thuộc về văn hóa hữu hình và những từ thuộc về văn hóa phi hữu hình xuất hiện trong từ điển này. Và đó là một nguồn ngữ liệu quan trọng, phản ánh thực trạng của xã hội Việt Nam từ sau năm 1986 đến nay. Và những từ ngữ được lựa chọn nghiên cứu này sẽ phản ánh một cách cụ thể, rõ ràng và chính xác nhất về sự phát triển của xã hội Việt Nam trong một giai đoạn nhất định. 6. Cái mới của luận văn Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu từ mới trong mối quan hệ với sự biến đổi của xã hội Việt Nam trong báo chí xuất bản từ năm 1986 – nay. Bởi vì, thông qua điều tra, chúng tôi nhận thấy mỗi từ mới là một thực từ (danh từ, động từ, tính từ), là tên gọi, hoạt động, tính chất của sự vật. Do đó, thông qua tên gọi sự vật, hoạt động, tính chất được gọi tên, được biểu đạt, chúng ta có thể biết được sự vật hiện tượng mà nó đánh dấu, phản ánh. Từ ngữ mới đi đôi với sự vật hiện tượng, hoạt động, tính chất mới. Phân tích nghiên cứu chuyên thuộc về hai phạm vi văn hóa hữu hình và văn hóa phi hữu hình cũng chính là phân tích xác định sự tồn tại biến đổi của xã hội thông qua từ ngữ mới. Chúng 6
  14. tôi nhận thấy, từ trước đến nay, vấn đề này chưa có công trình nào thực hiện cũng như nghiên cứu, nhất là trong Việt ngữ học. Vì vậy thực hiện đề tài này là việc làm mới mẻ và có ý nghĩa và mong rằng công trình này có sự đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu khoa học tương lai. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì nội dung luận văn chúng tôi bao gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận về từ mới Chương 2: Những nội dung từ mới thuộc về văn hóa hữu hình phản ánh sự biến đổi xã hội Việt Nam Chương 3: Những nội dung từ mới thuộc về văn hóa phi hữu hình phản ánh sự biến đổi xã hội Việt Nam 7
  15. CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỪ MỚI 1. Dẫn nhập Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của ngôn ngữ. Do tính chất hiển nhiên, có sẵn của các từ cho nên ngôn ngữ của loài người bao giờ cũng được coi là ngôn ngữ của các từ. Chính tổng thể các từ là vật liệu xây dựng nên thiếu nó thì không thể hình dung được một ngôn ngữ. Có thể thừa nhận một định nghĩa chung về từ như sau: ―Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức‖ [3, tr.440]. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan niệm về từ mới như thế nào trong hệ thống lĩnh vực nghiên cứu từ mới? Chúng tôi sẽ tiến hành thảo luận cụ thể trong luận văn. 1.1. Lịch sử tình hình nghiên cứu về từ mới 1.1.1. Trong Việt ngữ học Xét về lịch sử vấn đề, chúng ta đề cập đến từ mới như là một lớp từ để phân biệt với lớp từ cổ. Như vậy, các lớp từ mới ở trên trục lịch đại phân biệt với từ cổ là những từ đã được dùng một thời và bây giờ không còn được dùng nữa, còn từ mới là những từ mới được xuất hiện và có thể thuộc nhiều loại khác nhau, nhưng tính về thời gian là những từ xuất hiện chưa lâu trong ngôn ngữ nghiên cứu. Trong Việt ngữ học, theo hiểu biết của chúng tôi, có lẽ người đầu tiên đề cập đến từ mới là Nguyễn Văn Tu trong cuốn giáo trình Từ và vốn từ tiếng 8
  16. Việt xuất bản năm 1976. Trong cuốn sách này, Nguyễn Văn Tu nhận diện từ mới và phân chia từ mới thành hai loại chính: - Những từ mới chỉ tên mới để chỉ những sự vật, hiện tượng mới xuất hiện trong xã hội như: máy kéo, nguyên tử, tên lửa…. - Những từ mới dùng để chỉ những sự vật hoặc hiện tượng, trước đây đã xuất hiện, nay lại được tạo ra một tên gọi hoặc một từ mới để thay thế hoặc tồn tại song song với những từ đã có. Ví dụ: tên lửa thay cho hỏa điện, máy thu thanh thay cho radio, chắn bùn thay cho gác - đơ - bu, chắn xích thay cho gác – đơ – xen, bởi vì những từ này là từ thường do người Việt tạo ra để thay thế cho những từ tiếng nước ngoài. Còn một loại nữa theo Nguyễn Văn Tu là những từ dùng để thay thế những từ đã có cách diễn đạt mới. Đó là loại từ mới thuộc về tu từ học hay là những từ ngữ nghệ thuật. Ví dụ: bà tiên hòa bình, ga trăng… thường tồn tại trong tác phẩm văn học [8, tr.232]. Sau Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Thiện Giáp cũng có quan niệm về từ mới. Ông cho rằng: từ mới là những từ thực sự được coi như là mang màu sắc mới, được thừa nhận từ là vừa mới xuất hiện, tính chất riêng của nó vẫn còn được mọi người thừa nhận. Đại đa số từ mới xuất hiện không được người nói nhận thức là có màu sắc mới, bởi vì nếu đó là những từ sáng tạo ngôn ngữ thành công và nếu đối tượng hoặc hiện tượng mà chúng biểu thị chắc chắn đã đi vào đời sống xã hội thì những từ ngữ đó nhanh chóng được mọi người sử dụng 9
  17. như những từ bình thường khác, được nhanh chóng nhập vào lớp từ vựng tích cực của toàn dân hay nghề nghiệp nào đó. Như: đài phát thanh, báo chí, máy thu hình... là những phương tiện có thể truyền bá thông tin đại chúng một cách nhanh chóng và rộng rãi. Những từ ngữ mới có thể chỉ là những tên gọi định danh thuần túy, ví dụ: bộ nhớ ngoài, bộ nhớ trong, bộ vi xử lý, cổ đông, cổ phần, cổ phiếu...; cũng có thể là những tên gọi định danh tu từ của đối tượng, như: ăng ten rổ rá, đề bạt chui, văn minh tắm, viêm mạng túi... [2, tr.283]. Trong cuốn sách 777 Khái niệm Ngôn ngữ học, ông cũng có nhắc đến: ―từ ngữ mới là những từ xuất hiện gần đây nhất, là từ xuất hiện mới nhất, cho nên chưa được quen thuộc và chưa được dùng phổ biến‖. Do đó, căn cứ vào đối tượng mà những từ ngữ này biểu thị có thể chia chúng thành hai loại: Thứ nhất là từ ngữ mới biểu thị những sự vật, hiện tượng hay khái niệm mới nảy sinh. Thí dụ: lưu sinh học, cổ đông, trường sinh học, tên lửa, vệ tinh, điện thoại di động, v.v… Những từ ngữ này cần thiết trong giao tiếp nên chúng dễ dàng trở thành từ vựng tích cực. Những từ ngữ là tên gọi mới của những đối tượng đã có tên gọi. Những từ này phổ biến và quen dùng, sẽ nhập vào từ vựng tích cực nếu chúng hay hơn những tên gọi cũ, và đặc biệt chúng phản ánh đúng bản chất của đối tượng hơn những tên gọi cũ. Chẳng hạn, chúng ta thay cu li bằng công nhân, dân cày bằng nông dân, người ở bằng người giúp việc, đầu bếp bằng cấp dưỡng, địa dư bằng địa lí, địa đồ bằng bản đồ, v.v. Những từ ngữ này sẽ có 10
  18. thể phản ánh bản chất thực tế của đối tượng hơn những từ ngữ trước đã có. Thứ hai là chúng ta cần phân biệt tên gọi thuần túy định danh và tên gọi mới có tính chất định danh – tu từ. Những thí dụ vừa dẫn ở trên là những tên gọi mới thuần túy định danh, còn tên gọi mới có tính chất định danh – tu từ, chẳng hạn như ga trăng “mặt trăng”, đường mây “đường bay của máy bay”, sao lửa “lửa đạn trên không”, phi vũ công “phi công‖… ngoài nội dung trí tuệ, những tên gọi định danh – tu từ còn mang cả giá trị biểu cảm nữa [3, tr.460]. Quan niệm của một nhóm tác giả gần đây nhất trong cuốn sách Nhập môn Ngôn ngữ học do Mai Ngọc Chừ chủ biên cũng đã có quan niệm về từ mới. Đó là: ― từ vựng mới là từ vựng mới xuất hiện từ những năm gần đây, từ vựng mới có thể có phạm vi phổ biến chưa cần và mới chỉ được dùng ở một phạm vi nào đó‖ [1, tr.251]. Ví dụ: hộ chiếu, cổ phiếu, thị trường, chứng khoán, lên sàn... là những từ mới xuất hiện trong từ vựng tiếng Việt. Với sự phát triển của xã hội, từ vựng mới dễ dàng trở thành từ vựng tích cực của ngôn ngữ. Từ vựng mới có thể được xuất hiện theo nhiều phương thức khác nhau, ví dụ như: - Vay mượn: imeo, chat,... - Cấu tạo mới theo phương thức cấu tạo từ của ngôn ngữ: đầu tư cổ phiếu, giao dịch cổ phiếu, ... - Rút gọn: vấn nạn, ... - Chuyển nghĩa: máy sống, sàn giao dịch...‖ Trong lịch sử tiếng Việt có lẽ việc nghiên cứu từ mới công phu hơn cả 11
  19. là luận án của Bùi Thị Thanh Lương với tiêu đề: ―Từ mới xuất hiện trong tiếng Việt giai đoạn 1986 -2005‖ [5]. Tác giả luận án sau khi khảo sát qua tình hình nghiên cứu từ mới trong và ngoài nước, đã nhìn nhận và đi đến nhiều kết luận có ý nghĩa về từ mới. Đây là những kết luận mà chúng tôi coi là rất có giá trị, đồng thời chúng tôi cũng sử dụng đó làm cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu luận văn của mình. Khái niệm từ mới được nhiều nhà nghiên cứu cũng như chúng tôi đặc biệt quan tâm. Vấn đề này được coi là phức tạp và nhạy cảm bởi có nhiều ý kiến trái chiều của nhiều người với nhiều quan điểm khác nhau. Trước tình hình đó, để việc thu tập tư liệu và triển khai nội dung luận văn được nhất quán, rõ ràng, chúng tôi kế thừa và phát triển quan niệm về từ ngữ mới của tập thể tác giả cuốn Từ điển từ mới tiếng Việt của viện Ngôn ngữ học do Chu Bích Thu chủ biên. 1.1.2. Trong Hán ngữ học Trong Hán ngữ học cũng có nhiều tác giả bàn thảo về từ mới. Ở đây, trong luận văn này, do thời gian có hạn, trong tiếng Hán, chúng tôi chỉ dẫn quan điểm của tác giả Diêu Hán Minh – một tác giả có nhiều đóng góp trong công tác nghiên cứu tiếng Hán. Diêu Hán Minh có quan niệm về từ ngữ mới như sau: ―từ ngữ mới là những từ ngữ chưa từng xuất hiện trong kho từ vựng vốn có của ngôn ngữ và sự xuất hiện của từ mới là sự phá vỡ những chuẩn mực vốn có của ngôn ngữ‖. 12
  20. Đồng thời, ông khẳng định: ―vốn từ vựng phải không ngừng tạo ra những từ mới để phản ánh những sự vật mới, quan điểm mới liên tục xuất hiện cũng cần phải không ngừng đào thải những từ cũ, nghĩa cũ hay thay đổi nghĩa từ về độ sâu, về phạm vi sử dụng và sắc thái tốt xấu để có thể giao tiếp một cách thích hợp, phải không ngừng sử dụng những hàm nghĩa và cách dùng mới của những từ vốn có cũng như cách kết hợp mới giữa các từ mới hay sự biến đổi sắc thái các tu từ để làm phong phú cách diễn đạt ngôn ngữ và hoàn thiện chức năng làm công cụ giao tiếp của ngôn ngữ‖ [6, tr.185]. Để quan điểm của mình được rõ ràng hơn, Diêu Hán Minh đưa ra bốn nguyên tắc mà ông gọi là: ―nguyên tắc chuẩn hóa từ ngữ mới‖. Đây chính là những tiêu chí xác định từ mới, cụ thể là: 1) Nguyên tắc lấp chỗ trống, tức là: ―Trong vốn từ vựng của tiếng Phổ thông không có những từ mới như vậy, nhưng do sự phát sinh của sự vật mới, khái niệm mới, cần có những từ ngữ diễn đạt sự vật mới, khái niệm mới này, nếu không có những từ ngữ đó sẽ dẫn đến sự thiếu sót trong giao tiếp‖ [6, tr. 187 - 188]. Những từ mới chính là những từ lấp vào chỗ trống, chúng là một loạt những từ ngữ bức thiết nhất trong số những từ mới. 2) Nguyên tắc tính minh xác: ―là điều kiện cơ bản của từ mới để xã hội có thể chấp nhận‖. Vì các từ mới được hình thành trên cơ sở các ―ngữ tố‖ – yếu tố cấu tạo từ - đều là những ngữ tố đã được nhiều người quen biết và được dùng trong thế đối lập với những từ ngữ đã hình thành trước đó, nên người sử dụng tiếng Hán có thể tiếp nhận rất nhanh [6, tr.189]. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
17=>2