intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam: Các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng

Chia sẻ: Tri Nhân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:143

34
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm ba mục đích sau: Tìm hiểu các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố xét từ phương diện cấu trúc để thấy được đặc điểm của các biểu thức này trong hành vi sở chỉ; tìm hiểu các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố xét từ phương diện ngữ nghĩa để thấy được căn cứ xây dựng các biểu thức của tác giả; phân tích vai trò của các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam: Các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐỖ HUYỀN TRANG CÁC BIỂU THỨC ĐỒNG SỞ CHỈ BIỂU THỊ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ, VỠ ĐÊ VÀ GIÔNG TỐ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2017
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐỖ HUYỀN TRANG CÁC BIỂU THỨC ĐỒNG SỞ CHỈ BIỂU THỊ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ, VỠ ĐÊ VÀ GIÔNG TỐ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 60.22.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TÚ QUYÊN THÁI NGUYÊN - 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017 Tác giả luận văn Đỗ Huyền Trang i
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo Sau đại học Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên, Ban giám hiệu và Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Tôi xin đặc biệt bày tỏ lòng kính trọng và sâu sắc tới: Tiến sĩ Nguyễn Tú Quyên - người cô giáo mẫu mực đã trực tiếp hướng dẫn tôi, đã tận tình chỉ bảo cho tôi những kiến thức qúy báu không những trong chuyên môn mà cả những kiến thức trong cuộc sống trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô và các Bạn học viên trong lớp chuyên ngành Ngôn Ngữ Việt Nam K22 đã cho tôi những kiến thức và những góp ý chuyên môn quý báu trong suốt quá trình tôi học tập và làm đề tại tại bộ môn. Đồng thời trân quý cảm ơn sự nhiệt tình của các thầy, các cô, các bạn đồng nghiệp trong lớp, trong khoa đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình tôi thực hiện đề tài này. Cuối cùng tôi xin được gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lê và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017 Tác giả luận văn Đỗ Huyền Trang ii
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii MỤC LỤC ................................................................................................................... iii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................... iv DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... v MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 3 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 4 6. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 4 7. Bố cục của luận văn .................................................................................................. 5 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................... 6 1.1. Khái quát về sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ ...................................................... 6 1.1.1. Khái quát về sở chỉ ............................................................................................. 6 1.1.2. Khái quát về hiện tượng đồng sở chỉ ................................................................ 16 1.2. Những vấn đề lý thuyết liên quan đến sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ trong tiếng Việt ........................................................................................................... 17 1.2.1. Hoạt động giao tiếp và các nhân tố giao tiếp .................................................... 17 1.2.2. Khái quát về đoản ngữ, danh ngữ trong tiếng Việt ........................................... 20 1.3. Tiểu kết ................................................................................................................ 23 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC BIỂU THỨC ĐỒNG SỞ CHỈ BIỂU THỊ NHÂN VẬT TRONG SỐ ĐỎ, VỠ ĐÊ VÀ GIÔNG TỐ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG ...................................................................................................... 25 2.1. Đặc điểm cấu trúc của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng .............................................................. 25 2.1.1. Đặc điểm cấu trúc của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật qua việc dùng tên riêng ...................................................................................................... 28 iii
  6. 2.1.2. Đặc điểm cấu trúc của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật qua việc dùng biểu thức miêu tả ........................................................................................ 34 2.1.3. Đặc điểm cấu trúc của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật qua việc dùng biểu thức chỉ xuất ....................................................................................... 40 2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng ......................................................... 46 2.2.1. Các biểu thức đồng sở chỉ là tên riêng .............................................................. 46 2.2.2. Các biểu thức đồng sở chỉ có nghĩa phi miêu tả ............................................... 46 2.2.3. Các biểu thức đồng sở chỉ có nghĩa miêu tả ..................................................... 47 2.3. Tiểu kết ................................................................................................................ 51 Chương 3: VAI TRÒ CỦA CÁC BIỂU THỨC ĐỒNG SỞ CHỈ BIỂU THỊ NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM SỐ ĐỎ, VỠ ĐÊ VÀ GIÔNG TỐ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG ....................................................................................... 53 3.1. Bộc lộ đặc điểm giới tính và ngoại hình của nhân vật ......................................... 53 3.1.1. Bộc lộ đặc điểm giới tính của nhân vật ............................................................ 53 3.1.2. Bộc lộ đặc điểm ngoại hình của nhân vật ......................................................... 56 3.2. Bộc lộ tính cách, thái độ của nhân vật ................................................................. 81 3.2.1. Bộc lộ tính cách của nhân vật: .......................................................................... 81 3.2.2. Bộc lộ thái độ của nhân vật ............................................................................... 89 3.3. Bộc lộ nghề nghiệp của nhân vật ....................................................................... 102 3.3.1. Nghề dạy học .................................................................................................. 102 3.3.2. Học sinh, sinh viên.......................................................................................... 103 3.3.3. Nghề khám, chữa bệnh ................................................................................... 103 3.3.4. Nghề buôn bán ................................................................................................ 105 3.3.5. Nghề đưa thư................................................................................................... 106 3.3.6. Nghề nghiệp mang tính chất nghệ thuật ......................................................... 106 3.3.7. Nghề thợ may.................................................................................................. 107 3.3.8. Nghề bói toán .................................................................................................. 107 3.3.9. Nghề hoạt động trong lĩnh vực thể thao ......................................................... 108 3.3.10. Nghề đi tu theo đạo Phật ở chùa ................................................................... 109 iv
  7. 3.3.11. Nghề nông ..................................................................................................... 110 3.3.12. Nghề lái đò .................................................................................................... 111 3.3.13. Nghề làm thợ................................................................................................. 111 3.4. Bộc lộ vị thế của nhân vật giao tiếp ................................................................... 112 3.4.1. Vị thế xã hội .................................................................................................... 112 3.4.2. Vị thế gia đình................................................................................................. 122 3.5. Tiểu kết .............................................................................................................. 127 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 129 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 129 v
  8. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DN Danh ngữ ĐT định tố P phụ Phs phụ sau Pht phụ trước Trt trung tâm iv
  9. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Tổng số các nhân vật, tổng số các biểu thức đồng sở chỉ và tần số xuất hiện của các biểu thức trong Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng .....................25 Bảng 2.2. Các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong Số đỏ .......................................26 Bảng 2.3: Các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong Vỡ đê ......................................27 Bảng 2.4: Các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong Giông tố ..................................28 Bảng 2.5. Số lượng và tần số xuất hiện của biểu thức tên riêng trong Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố ..................................................................................................................29 Bảng 2.6. Biểu thức tên riêng trong tác phẩm Số đỏ ..............................................................29 Bảng 2.7. Biểu thức tên riêng trong tác phẩm Vỡ đê .............................................................30 Bảng 2.8. Biểu thức tên riêng trong tác phẩm Giông tố .........................................................30 Bảng 2.9. Đặc điểm cấu tạo của biểu thức tên riêng ..............................................................34 Bảng 2.10. Số lượng và tần số xuất hiện của biểu thức miêu tả trong Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố ..................................................................................................................34 Bảng 2.11. Biểu thức miêu tả trong tác phẩm Số đỏ ..............................................................34 Bảng 2.12. Biểu thức miêu tả trong tác phẩm Vỡ đê..............................................................35 Bảng 2.13. Biểu thức miêu tả trong tác phẩm Giông tố .........................................................36 Bảng 2.14. Số lượng và tần số xuất hiện của biểu thức chỉ xuất trong Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố ..................................................................................................................40 Bảng 2.15. Biểu thức chỉ xuất trong tác phẩm Số đỏ .............................................................40 Bảng 2.16: Biểu thức chỉ xuất trong tác phẩm Vỡ đê.............................................................41 Bảng 2.17: Biểu thức chỉ xuất trong tác phẩm Giông tố ........................................................42 v
  10. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Lịch sử ngôn ngữ học trước những năm 70 của thế kỷ trước chủ yếu quan tâm đến cấu trúc nội tại của ngôn ngữ. Theo đó, những câu như Tôi đói, Hôm nay trời lạnh nhỉ sẽ được xem là những câu đúng bởi chúng chuẩn về mặt ngữ pháp và logic về mặt ngữ nghĩa. Tuy nhiên, khi ngôn ngữ phải thực hiện chức năng quan trọng nhất của nó - chức năng giao tiếp thì việc nghiên cứu câu dưới dạng “chất liệu cấu thành” đã bộc lộ những hạn chế rõ rệt. Tác giả Hoàng Cao Cương đã chỉ rõ: có ít nhất 7 lý do để tin rằng nếu dừng câu lại ở quan niệm cú pháp truyền thống thì sẽ không nhận được các giải thích đúng đắn ngay cả đối với cái định nghĩa về câu mà chúng ta đang sử dụng. Sang nửa cuối thế kỷ 20, sau khi nhận rõ những sai lầm của việc nghiên cứu câu chỉ trong địa hạt riêng của nó, các nhà ngôn ngữ học bắt đầu chuyển dần sang hướng tiếp cận mới, đó là nghiên cứu câu gắn với ngữ cảnh. Hướng tiếp cận này đánh dấu sự ra đời của chuyên ngành Ngữ dụng học. Lúc này, ngôn ngữ bắt đầu “vận động theo quỹ đạo hồi quy đi từ mô tả triệt để các yếu tố trong khung lý thuyết hẹp sang mô tả các quá trình tương tác trong bối cảnh xã hội rộng lớn và toàn diện; từ thực thể ngôn ngữ sang biểu hiện của lời nói; từ các biểu diễn bề mặt hình thức sang biểu diễn ngữ nghĩa học; từ việc quên quyền lợi người dùng sang đề cao mặt dụng học của các biểu lộ ngôn từ”. Như vậy, có thể nói, sự ra đời của Ngữ dụng học thực sự là bước đột phá mới, giải quyết được những bế tắc mà cú pháp truyền thống đang gặp phải. 1.2. Góp phần quan trọng vào việc giải quyết những bế tắc của cú pháp truyền thống có lý thuyết về sở chỉ. Sở chỉ là vấn đề đầu tiên mà các nhà logic học quan tâm và cũng là vấn đề thứ nhất của ngữ dụng học. Trong hoạt động giao tiếp, hành vi sở chỉ giúp cho người nghe (người đọc) nhận diện được đối tượng được quy chiếu, nhờ đó mới giải thuyết nghĩa của phát ngôn. Với vai trò quan trọng như vậy, vấn đề sở chỉ đã được tương đối nhiều các nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu với những tên gọi khác nhau như chiếu vật, quy chiếu, tham chiếu, sở chỉ. Nói điều này để thấy hiện tượng ngôn ngữ này không phải là vấn đề nghiên cứu mới mẻ. 1.3. Trong giao tiếp, để quy chiếu một đối tượng, người ta không dùng một biểu thức duy nhất mà sử dụng linh hoạt nhiều biểu thức. Các biểu thức khác nhau quy chiếu vào một đối tượng như vậy được gọi là các biểu thức đồng sở chỉ. 1
  11. Nếu như vấn đề sở chỉ được nhiều nhà Việt ngữ học nghiên cứu thì hiện tượng đồng sở chỉ chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Hiện nay, chúng tôi mới chỉ tìm thấy có một công trình nghiên cứu về vấn đề này là Luận án Tiến sĩ “Sở chỉ và đồng sở chỉ trong tiếng Việt” của Nguyễn Tú Quyên. Trong công trình này, tác giả đã chỉ ra các cơ sở tạo lập, thay thế, nhận diện các biểu thức đồng sở chỉ trong tiếng Việt cũng như vai trò của chúng. Tuy nhiên, đây là công trình nghiên cứu hiện tượng đồng sở chỉ nói chung nên chưa chỉ ra được phong cách của nhà văn khi sử dụng các biểu thức này trong tác phẩm. Điều này cho thấy, việc tìm hiểu hiện tượng đồng sở chỉ ở một tác giả cụ thể là điều rất cần thiết. 1.4. Ba tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng được nhiều nhà phê bình văn học đánh giá là bộ tam kiệt tiểu thuyết đồng sáng tác năm 1936 có nhiều giá trị to lớn. Bộ tam kiệt tiểu thuyết này đề cập đến xã hội chuyển từ “phi ngã” sang khẳng định bằng mọi cách và mọi giá cá tính và bản ngã của mỗi cá nhân, cá thể con người. Đó là một xã hội mà yêu cầu giải phóng cá nhân, cá tính được đặt lên hàng đầu (kể cả yêu cầu giải phóng bản năng, đề cao đời sống tình dục). Để thể hiện được nội dung tư tưởng này, tác giả sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật độc đáo trong đó có việc sử dụng các biểu thức đồng sở chỉ. Trong tác phẩm, các biểu thức này rất phong phú và được thể hiện có chủ đích. Những điều trình bày ở trên phần nào cho thấy tính cấp thiết của việc nghiên cứu vấn đề đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng. 2. Lịch sử vấn đề: 2.1. Tình hình nghiên cứu sở chỉ và đồng sở chỉ trong tiếng Việt Sở chỉ không phải là vấn đề mới mẻ trong giới nghiên cứu ngôn ngữ học. Sự ra đời của lý thuyết này gắn liền với sự hình thành và phát triển của Ngữ dụng học. Trong các công trình nghiên cứu trong nước và trên thế giới, các tác giả đề cập đến hiện tượng sở chỉ như một sự thừa nhận vai trò của nó trong việc hiểu giá trị chân thực của phát ngôn. Nếu như vấn đề sở chỉ, ở một mức độ nhất định, đã được các nhà ngôn ngữ học đề cập đến thì hiện tượng đồng sở chỉ lại chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Ở một vài công trình nghiên cứu, hiện tượng này mới chỉ được dưới hình thức lí giải một vài trường hợp cụ thể. Điều này cho thấy hiện tượng đồng sở chỉ vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ cần được quan tâm hơn. Xét thấy vấn đề nghiên cứu về hiện tượng 2
  12. đồng sở chỉ mới chỉ có một tác giả tham gia nghiên cứu chuyên sâu, đó là tác giả Nguyễn Tú Quyên với Luận án Tiến sĩ “Sở chỉ và đồng sở chỉ trong tiếng Việt” (Trên cơ sở về nhân vật trong tác phẩm văn học). 2.2. Tình hình nghiên cứu các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng Khi nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng đã có nhiều vấn đề xung quanh những tác phẩm của ông, khen cũng lắm mà chê cũng nhiều. Đã nhiều người viết về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, các ngòi bút tiểu luận đã khai thác sự tạo thành và mối tương quan giữa những nhân vật độc đáo của ông với hoàn cảnh lịch sử, xã hội. Trong nghiên cứu phê bình văn học những năm gần đây, nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình có tên tuổi đã thông qua nhiều phương tiện thông tin báo chí, phát thanh, phát biểu về tác phẩm và tác giả Vũ Trọng Phụng. Đáng chú ý là Hội thảo khoa học kỷ niệm 50 năm ngày mất Vũ Trọng Phụng do Viện Văn học và Hội nhà văn Việt Nam tổ chức tháng 10 - 1989, tại Văn miếu Hà Nội. Đã có hơn hai mươi bản tham luận của các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ, các nhà nghiên cứu phê bình Văn học đọc tại hội nghị, bước đầu nhận thức lại và khẳng định lại một lần nữa vị trí của nhà văn và tác phẩm trong văn học sử Việt Nam. Qua việc nghiên cứu và tìm hiểu các tác giả đi trước chúng tôi nhận thấy các tác giả đã nghiên cứu khá toàn diện về Vũ Trọng Phụng và sự nghiệp văn chương của ông. Tuy nhiên, có thể thấy, trong các công trình nghiên cứu về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, chưa có công trình nào nghiên cứu về đồng sở chỉ. Đây chính là lý do mà chúng tôi chọn vấn đề này làm đối tượng nghiên cứu trong đề tài của mình. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đặt ra ba mục đích sau: 3.1. Tìm hiểu các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố xét từ phương diện cấu trúc để thấy được đặc điểm của các biểu thức này trong hành vi sở chỉ. 3.2. Tìm hiểu các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố xét từ phương diện ngữ nghĩa để thấy được căn cứ xây dựng các biểu thức của tác giả. 3.3. Phân tích vai trò của các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích trên, đề tài này phải thực hiện những nhiệm vụ sau: 3
  13. 4.1. Trình bày cách hiểu về sở chỉ và đồng sở chỉ. Tìm hiểu những vấn đề lý thuyết có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài. 4.2. Thống kê, phân loại và miêu tả các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ xét từ phương diện cấu trúc và ngữ nghĩa. 4.3. Phân tích giá trị của các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các biểu thức thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật (các biểu thức chỉ cá thể nhân vật). 5.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các biểu thức thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng về ba phương diện: - Cấu tạo ngữ pháp; - Ngữ nghĩa; - Giá trị (vai trò của các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm) 6. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 6.1. Phương pháp điều tra ngôn ngữ Phương pháp nghiên cứu này được dùng để thu thập các biểu thức ngôn ngữ được coi là đồng sở chỉ biểu thị nhân vật tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng. 6.2. Phương pháp thống kê - phân loại: Phương pháp này được dùng khi khảo sát các ngữ liệu để tìm ra số lượt sử dụng của các cách gọi một nhân vật với những tên khác nhau trong bộ ba tác phẩm Số đỏ, Giông tố và Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng. 6.3 Phương pháp miêu tả cấu trúc Phương pháp nghiên cứu này được vận dụng khi miêu tả cấu trúc của các biểu thức đồng sở chỉ cũng như tìm hiểu các thành tố ngôn ngữ cấu thành nên biểu thức. 4
  14. 6.4 Phương pháp phân tích, tổng hợp Phương pháp nghiên cứu này được dùng để phân tích nguồn tư liệu đã thống kê (cụ thể là các biểu thức đồng sở chỉ được dùng để biểu thị nhân vật trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố), sau đó khái quát, tổng hợp các kết quả nghiên cứu thành từng nhóm, từng tiểu loại. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận. Chương 2. Đặc điểm của các biểu thức đồng sở chỉ biểu thị nhân vật trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng. Chương 3: Vai trò của các biểu thức đồng sở chỉ trong tác phẩm Số đỏ, Vỡ đê và Giông tố của Vũ Trọng Phụng. 5
  15. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN Chương này trình bày hai vấn đề lớn, đó là: - Khái quát về sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ trong tiếng Việt - Những vấn đề lý thuyết liên quan đến sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ trong tiếng Việt. Những vấn đề lý thuyết trên là cơ sở cho việc nhận diện cũng như tìm hiểu đối tượng nghiên cứu ở các phương diện khác nhau. 1.1. Khái quát về sở chỉ và hiện tượng đồng sở chỉ 1.1.1. Khái quát về sở chỉ Nghĩa của từ và những hiện tượng liên quan được bàn đến khá sơ sài trong Cấu trúc luận, do chỗ chủ nghĩa này chủ trương mô tả hình thức ngôn ngữ thông qua những thế đối lập và phân bố trong một hệ thống ngôn ngữ. Từ và các hành động ngôn từ được bàn đến với một nội dung phong phú hơn, khi các nhà triết học ngữ nghĩa mà mở đầu là B. Carnap (1939) và B. Russell (1903) trong trào lưu triết học ngữ nghĩa thực chứng, quan niệm rằng hành vi quan trọng nhất của con người là dùng ngôn ngữ trong giao tiếp hàng ngày. Và vì vậy, để hiểu nghĩa của từ phải thông qua các hành động ngôn từ (J.R. Austin (1962) và J.R.Searle (1969)). Chính bằng cách đặt vấn đề như vậy, mặt chức năng của ngôn ngữ được chú trọng hơn theo một tiếp cận hoàn toàn mới: cấu trúc và các đặc điểm cấu trúc của từ hoặc của các cấu trúc lớn hơn từ, suy cho cùng chỉ là những phương tiện giúp người nói nhận diện ra được những sự vật có trong thực tế khách quan mà trong nội dung các thông điệp đã được nhắc tới. Một câu có hình thức trần thuật vẫn có thể đảm đương nhiệm vụ của một câu nghi vấn hay một câu cầu khiến. Vấn đề là câu đó được sử dụng vào lúc nào và chủ đích của người nói là hướng tới cái gì, đã sử dụng những phương tiện gì đi kèm hoặc kết hợp với câu đó khi biểu lộ những chủ đích này. Nói cách khác, cái quan trọng chính là phát ngôn đó dùng để nói lên cái gì trong một hoàn cảnh cụ thể. Đó chính là nghĩa của lời. Nghĩa của lời quan trọng nhất chính là việc hướng tới các sự vật có trong thực tế khách quan mà nội dung mệnh đề muốn bàn luận tới. Ngôn ngữ học trong thời hiện đại, nhất là ngữ nghĩa học quan tâm tới hành vi hướng tới thực tế khách quan này của lời, cái thường được gọi là hành vi sở chỉ của hành động nói năng. 6
  16. 1.1.1.1. Quan niệm về sở chỉ (reference) Không phải ngẫu nhiên mà A.Cruse lại nói rằng: “Chủ đề về sở chỉ là nguyên nhân tuôn tràn hàng tấn mực: một vài bộ óc triết học huyền ảo nhất đã giáp lá cà với nó và các cuộc tranh luận dễ mất lòng chẳng bao giờ có hồi kết.” [77, tr.317] Nhận định trên của A.Cruse trong Meaning in Language: An introduction to Semantics and Pragmatics (Nghĩa trong ngôn ngữ: Một nhập môn vào Ngữ nghĩa học và Ngữ dụng học) đã cho thấy tính phức tạp của vấn đề sở chỉ. Có thể nhận thấy sự phức tạp này qua những quan niệm tiêu biểu trong và ngoài nước dưới đây: a. Quan niệm của các tác giả nước ngoài Để xác định hiểu được nghĩa của phát ngôn, có một cách xuất phát là tìm hiểu quy luật tương ứng giữa các biểu thức ngôn ngữ với các sự vật có trong thực tế khách quan. Nói cách khác, sở chỉ chính là hành vi của người nói nhằm đồng nhất hóa nội dung của một biểu thức ngôn ngữ với sự vật có trong thực tế. Như M.Green trong Pragmatics and Natural languages understanding (1989) đã phát biểu: “Thuật ngữ chiếu vật (sở chỉ) được dùng để chỉ cách mà người nói phát âm ra một biểu thức ngôn ngữ với hy vọng rằng biểu thức đó sẽ giúp cho người nghe của anh ta suy ra được một cách đúng đắn cái thực thể nào, đặc tính nào, sự kiện nào anh ta đang nói đến” [dẫn theo 79, tr.193]. Như vậy, M.Green quan niệm sở chỉ là một hành vi ngôn ngữ mà từ hành vi này, một “thực thể”, một “đặc tính”, một “sự kiện” sẽ được người nghe nhận diện thông qua một biểu thức ngôn ngữ. Cùng quan điểm với M.Green, G. Yule và A. Cruse viết: “Chúng ta, tốt hơn hết là cho rằng chiếu vật là một hành vi nhờ nó mà người nói và người viết dùng các hình thức ngôn ngữ nhằm làm cho người nghe hoặc người đọc biết được một sự vật nào đó” [dẫn theo 70, tr.194]. Và: “Dưới cái đầu đề sở chỉ, chúng ta sẽ gặp một trong những bình diện cơ bản, sống còn nhất của ngôn ngữ và việc dùng ngôn ngữ, đó chính là mối quan hệ giữa ngôn ngữ như là phương tiện giao tiếp giữa con người và cái thế giới mà chúng ta giao tiếp về nó” [77, tr.137]; “Sở chỉ được quan tâm cùng với việc thể hiện các thực thể có trong thế giới nhờ các phương tiện ngôn ngữ học” [77, tr.137]. Thừa nhận sở chỉ là một hành vi ngôn ngữ có nghĩa là các nhà ngôn ngữ học đã đồng thuận khi cho rằng: sở chỉ không phải là “việc làm tự thân của ngôn ngữ mà là 7
  17. của con người” [13, tr.192]. G. Yule nhấn mạnh: “Chúng ta cần phải biết rằng từ ngữ - ở đây là biểu thức chiếu vật - tự chúng không quy chiếu được với bất cứ một cái gì cả. Chỉ con người mới chiếu vật.” [dẫn theo 70, tr.192]. Từ sự khẳng định sở chỉ là một hành vi ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm đến các yếu tố làm nên hành vi sở chỉ. Yếu tố thứ nhất rất dễ nhận diện, đó chính là “cái gì đó có trong thế giới” [77, tr.17]. Bởi suy cho cùng, mục đích của sự sở chỉ là thông qua ngôn ngữ làm nảy ra cái thực thể có trong thế giới và để cho người nghe xác định được thực thể đó. Vậy yếu tố thứ hai là gì? A. Cruse cho rằng, yếu tố thứ hai chính là biểu thức ngôn ngữ (linguistic expression). Một ví dụ được ông đưa ra để phân tích cho sự khẳng định này: (1) Geoge Bush is to visit Ireland in May. (Tổng thống Geoge Bush sẽ đi thăm nước Ireland vào tháng 5) Biểu thức Geoge Bush ở đây quy chiếu đến một vị tổng thống Hòa Kỳ. Người nghe xác định được điều này bởi vì người nghe nhận ra được mối quan hệ giữa các yếu tố làm nên hành vi sở chỉ, đó là một cá nhân trong thực tế (yếu tố thứ nhất) và biểu thức ngôn ngữ Geoge Bush (yếu tố thứ hai). Tuy nhiên, ông cũng nhất mạnh: “Không có một quan hệ một đối một đặc quyền nào giữa biểu thức Geoge Bush và ông Geoge Bush đang là tổng thống Hoa Kì. Không nghi ngờ gì có hàng trăm (là ít nhất) các ông Geoge Bush trên thế giới. Sở dĩ Geoge Bush quy chiếu với ông tổng thống đương nhiệm của Hoa Kì chỉ là bởi vì có một người nói nào đó định dùng biểu thức này cho cái mục đích ở một dịp đặc biệt nào đó” [77, tr.318]. Như vậy, để có thể nhận diện được mối quan hệ giữa hai yếu tố trên, người nghe cần phải xác định được chủ đích của người nói trong việc tạo lập ra phát ngôn. Tóm lại, khi nói về sở chỉ, các nhà ngôn ngữ học đều thừa nhận: sở chỉ là một hành vi ngôn ngữ và sở chỉ thể hiện mối quan hệ giữa đối tượng, sự vật trong thế giới khách quan với một hình thức biểu đạt là phương tiện ngôn ngữ. b. Quan niệm của các tác giả Việt Nam Cũng bàn về vấn đề sở chỉ, ở Việt Nam, có hai nhà ngôn ngữ học không thể không nhắc tới, đó là Cao Xuân Hạo và Đỗ Hữu Châu. - Quan niệm của Cao Xuân Hạo: Cần phải nói ngay rằng, Cao Xuân Hạo đã dùng thuật ngữ sở chỉ để chỉ cả hành động sở chỉ (reference) lẫn vật sở chỉ (referent). Trong công trình nghiên cứu của mình, 8
  18. ông không đưa ra quan niệm cụ thể về sở chỉ như một hành động mà chỉ thể hiện quan niệm này qua cách định nghĩa về vật sở chỉ. Chính vì vậy, những trích dẫn dưới đây của ông về sở chỉ phải được hiểu là vật sở chỉ (referent). + Cao Xuân Hạo cho rằng: “Sở chỉ là một sự vật cụ thể hay một tập hợp xác định gồm những đối tượng cụ thể” [31, tr.104]. Sở chỉ của từ chỉ xác định được khi từ nằm trong câu (phát ngôn). Nói khác đi, “Trong câu nói các từ ngữ mới có thể có sở chỉ (referent)” [33, tr.105]. Chẳng hạn, một danh từ riêng như Hương chỉ có thể xác định được sở chỉ của nó khi danh từ này nằm trong phát ngôn, kiểu như: (2) Hương lớp 7A học rất giỏi. Nhờ định ngữ lớp 7A mà sở chỉ của từ Hương trong trường hợp này được xác định (với điều kiện lớp 7A chỉ có một người tên là Hương, còn nếu lớp 2A có hai người tên là Hương thì phải thêm các điều kiện khác). Đó là một con người cụ thể, phân biệt với tất cả những người cụ thể khác (cũng có tên là Hương hoặc không có tên là Hương). Tách từ Hương ra khỏi phát ngôn, Hương vẫn là một danh từ riêng nhưng chúng ta không thể xác định được nghĩa sở chỉ của từ này, tức là không thể xác định được từ Hương ở đây chỉ ai, tức chỉ đối tượng cụ thể nào. + Về khái niệm nghĩa sở chỉ, Cao Xuân Hạo nói rõ: Nghĩa sở chỉ của từ ngữ “là mối liên hệ giữa từ ngữ và thế giới hiện thực”. [31, tr.104] Chẳng hạn: (3) Cái bút ở trên bàn là của bạn Trang. Cái bút trong trường hợp này đã xác định được sở chỉ bởi ta biết nó quy chiếu đến đối tượng nào trong thực tế. Đây là một cái bút cụ thể của một nhân vật cụ thể. Tuy nhiên, để hiểu được nghĩa sở chỉ của từ (cái) bút, người nghe phải có sự liên hệ với thực tế khách quan, tức là phải biết được một vật như thế nào được gọi là (cái) bút, nói khác đi là phải hiểu được nghĩa biểu vật của từ bút. Cao Xuân Hạo còn nói thêm: “Việc xác định sở chỉ của từ ngữ không thuộc bình diện nghĩa mà thuộc bình diện dụng pháp” [33, tr.54]. Tức là chỉ xác định được nghĩa sở chỉ của từ ngữ khi chúng đi vào hoạt động. Ví dụ: (4) Tôi đói quá! Khi phát ngôn này tồn tại ở dạng tĩnh tại, người nghe sẽ không thể xác định được nghĩa sở chỉ của từ tôi bởi không biết tôi ở đây quy chiếu vào ai. Nhưng nếu câu này phát ra bởi chủ thể A, tại thời điểm t, khi mà A vừa đi làm về và chưa ăn gì thì người nghe sẽ dễ dàng xác định được nghĩa sở chỉ của từ tôi. 9
  19. Tóm lại, theo cách hiểu của Cao Xuân Hạo thì sở chỉ là đối tượng cụ thể, xác định, tồn tại trong một thế giới khả hữu (một thế giới có thể có thực và có thể không có thực). Còn nghĩa sở chỉ của từ là mối liên hệ giữa từ với đối tượng mà từ phản ánh. Khi chưa được sử dụng, từ không có nghĩa sở chỉ. - Quan niệm của Đỗ Hữu Châu: Đỗ Hữu Châu không dùng thuật ngữ sở chỉ để chỉ cả hành động sở chỉ (reference) và vật sở chỉ (referent) như Cao Xuân Hạo mà dùng thuật ngữchiếu vật vàvật quy chiếu. Ông quan niệm: + “Chiếu vật (reference) là quan hệ giữa phát ngôn - cũng tức là giữa biểu thức chiếu vật - với các bộ phận trong ngữ cảnh của nó” [13, tr.192]. Vật quy chiếu (referent) là sự vật, hiện tượng tồn tại trong một thế giới khả hữu - hệ quy chiếu. Điều này có nghĩa là bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có thể trở thành vật quy chiếu nếu nó tồn tại trong một thế giới khả hữu nhất định. Ví dụ: (5) Nai Nhỏ xin phép cha được đi chơi xa cùng bạn. Đặt trong thế giới hiện thực mà ta đang sống, phát ngôn trên sẽ là sai bởi Nai chỉ là một loài động vật bậc thấp, không biết nói để có thể “xin phép cha” đi chơi. Tuy nhiên, sẽ là bình thường nếu phát ngôn trên được đặt trong hệ quy chiếu là thế giới truyện cổ tích của trẻ em. Điều này cho thấy, ở thế giới hiện thực này, có vật quy chiếu được chấp nhận, nhưng nếu đem sang thế giới hiện thực khác, tức hệ quy chiếu khác, nó lại trở nên vô nghĩa. Đỗ Hữu Châu đã có cùng quan điểm với các tác giả nước ngoài khi chỉ rõ: “Tự bản thân mình, từ ngữ không có chiếu vật. Chỉ có con người mới thực hiện hành vi chiếu vật (sở chỉ). Bằng hành vi chiếu vật, người nói đưa sự vật hiện tượng mình định nói tới vào diễn ngôn của mình bằng các từ ngữ, bằng câu” [12, tr.61]. Điều này có nghĩa chỉ xác định được vật quy chiếu của từ ngữ khi chúng đi vào hoạt động. Chẳng hạn, từ hôm nay khi đứng độc lập vẫn có nghĩa nhưng ta không thể biết nó quy chiếu vào thời gian nào trong thực tế. Nhưng khi ta đưa nó vào diễn ngôn, kiểu như “Hôm nay tôi đi Hà Nội” và diễn ngôn này được phát bởi chủ thể A, tại thời điểm t thì ta dễ dàng xác định được hôm nay là thời gian cụ thể nào, tức là xác định được vật quy chiếu của từ hôm nay. Tóm lại, cách hiểu về chiếu vật và vật quy chiếu (sở chỉ) của Đỗ Hữu Châu không có gì khác so với cách hiểu của Cao Xuân Hạo. 10
  20. + Về khái niệm nghĩa sở chỉ, Đỗ Hữu Châu không gọi là nghĩa sở chỉ mà gọi là nghĩa chiếu vật. Theo ông, có thể hiểu về nghĩa chiếu vật (nghĩa sở chỉ) như sau: Nghĩa chiếu vật là sự tương ứng giữa sự vật với một biểu thức chiếu vật. Biểu thức chiếu vật là kết cấu ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu) được dùng để chiếu vật. Ví dụ: (6) Con mèo nhà tôi rất thích bắt chuột. Trong phát ngôn trên, con mèo nhà tôi là một biểu thức chiếu vật và biểu thức chiếu vật này được cấu tạo bởi một cụm từ. Ở đây, con mèo nhà tôi có nghĩa chiếu vật là chỉ một con mèo trong thực tế, đã được xác định, phân biệt với những sinh vật khác cũng được gọi là mèo. Nằm trong hệ thống, các từ có nghĩa biểu vật (và nghĩa biểu niệm). Nghĩa của từ ghi trong từ điển là nghĩa biểu vật. Khi được sử dụng, nghĩa biểu vật của từ chuyển hoá thành nghĩa chiếu vật. Ví dụ, từ mẹ khi chưa sử dụng (trong từ điển) có nghĩa biểu vật là “người đàn bà có con, trong quan hệ với con” [71, tr.604]. Nhưng khi chúng ta nói: (7) a. Mẹ Hương là bác sĩ. b. Mẹ Trang vừa đi chợ về. c. Mẹ Minh đang buồn. thì ba từ mẹ ở trong ví dụ (7) có nghĩa chiếu vật không giống nhau bởi nó chỉ ba đối tượng khác nhau (ba bà mẹ cụ thể, khác nhau). Như vậy, tương tự như cách hiểu về sở chỉ, cách hiểu về nghĩa sở chỉ (nghĩa chiếu vật) của Đỗ Hữu Châu cũng đồng nhất với cách hiểu của Cao Xuân Hạo về khái niệm này. 1.1.1.2. Khái niệm về sở chỉ Chúng tôi hoàn toàn tán đồng với quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trước khi cho rằng sở chỉ là một hành vi ngôn ngữ và sở chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa đối tượng, sự vật trong thế giới khách quan với một hình thức biểu đạt là phương tiện ngôn ngữ như đã phân tích ở trên. Theo đó, sở chỉ (reference) được chúng tôi định nghĩa như sau: “Sở chỉ là một hành vi ngôn ngữ mà nhờ nó, đối tượng/ sự vật trong thế giới khả hữu được người nghe/ đọc nhận diện thông qua một biểu thức ngôn ngữ (còn gọi là biểu thức sở chỉ)”. 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2