intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Cụm từ cân đối từ văn học dân gian đến văn học thành văn (khảo sát qua Thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều Nguyễn Du)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:166

24
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu về cụm từ cân đối được sử dụng trong dân gian, đặc biệt trong thành ngữ và văn khấn Nôm đến văn học thành văn, được Nguyễn Trãi và Nguyễn Du vận dụng kế thừa sáng tạo trong sáng tác thơ ca bằng tiếng Việt để thấy được mạch ngầm từ văn hóa dân gian đến sáng tác của hai đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi và Nguyễn Du trong sự thống nhất phát huy giá trị ngôn ngữ dân tộc. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Cụm từ cân đối từ văn học dân gian đến văn học thành văn (khảo sát qua Thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều Nguyễn Du)

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC LƯU MINH DỰ CỤM TỪ CÂN ĐỐI TỪ VĂN HỌC DÂN GIAN ĐẾN VĂN HỌC THÀNH VĂN (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI VÀ TRUYỆN KIỀU NGUYỄN DU) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thái Nguyên - 2017
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC LƯU MINH DỰ CỤM TỪ CÂN ĐỐI TỪ VĂN HỌC DÂN GIAN ĐẾN VĂN HỌC THÀNH VĂN (KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI VÀ TRUYỆN KIỀU NGUYỄN DU) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM THỊ PHƯƠNG THÁI Thái Nguyên – 2017
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên,15 tháng 6 năm 2017 Tác giả luận văn Lưu Minh Dự
  4. ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn PGS.TS Phạm Thị Phương Tháiđã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn. Thái Nguyên,15 tháng 6 năm 2017 Tác giả luận văn Lưu Minh Dự
  5. iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 2 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 5 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 5 5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 6 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6 Chương 1: CỤM TỪ CÂN ĐỐI – THÓI QUEN DIỄN ĐẠT CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN .................................................... 7 1.1. Khái lược về cụm từ cân đối ...................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm cụm từ cân đối ....................................................................... 7 1.1.2. Giá trị của cụm từ cân đối .................................................................... 10 1.2. Cụm từ cân đối từ lối diễn đạt trong văn hóa dân gian đến văn học dân gian ....................................................................................................... 11 1.2.1. Cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm .................................................... 11 1.2.2. Khảo sát phân loại cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm ..................... 12 1.2.3. Ý nghĩa của cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm ................................. 16 1.3. Cụm từ cân đối trong văn học dân gian ................................................... 17 1.3.1. Cụm từ cân đối được sử dụng trong tục ngữ, thành ngữ ...................... 17 1.4. Cơ sở kiến tạo cụm từ cân đối.................................................................. 26 Tiểu kêt chương 1…………………………………………………………………..27 Chương 2: CỤM TỪ CÂN ĐỐI TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI....... 28 SỰ VẬN DỤNG VÀ SÁNG TẠO ................................................................. 28 2.1. Nguyễn Trãi và Quốc âm thi tập .............................................................. 28 2.1.1. Tác giả Nguyễn Trãi.............................................................................. 28 2.1.2. Sự nghiệp thơ văn .................................................................................. 30
  6. iv 2.1.3. Quốc âm thi tập ..................................................................................... 31 2.2. Cụm từ cân đối trong Quốc âm thi tập ..................................................... 32 2.2.1. Sự vận dụng văn học dân gian và sáng tạo đa dạng cụm từ cân đối 4 chữ trong Quốc âm thi tập ........................................................................ 32 2.2.2. Sự vận dụng văn học dân gian và sáng tạo cụm từ cân đối 6 chữ trong Quốc âm thi tập......................................................................................... 41 2.3. Ý nghĩa của việc sử dụng cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi... 46 Tiểu kết chương 2……………………………………………………………………47 Chương 3: CỤM TỪ CÂN ĐỐI TRONG TRUYỆN KIỀU– SỰ KẾ THỪA TÀI TÌNH VÀ ĐIÊU LUYỆN ........................................................................ 49 3.1. Nguyễn Du với Truyện Kiều.................................................................... 49 3.1.1. Cuộc đời ................................................................................................ 49 3.1.2. Sự nghiệp thơ văn .................................................................................. 51 3.1.3. Truyện Kiều ........................................................................................... 51 3.2. Nghệ thuật sử dụng cụm từ cân đối trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ........ 54 3.2.1. Sự kế thừa tài tình của Nguyễn Du trong việc sử dụng cụm từ cân đối chéo 55 3.2.2. Vận dụng kết cấu của cụm từ cân đối chéo để kiến tạo ra tiểu đối trong thơ lục bát ................................................................................................. 62 3.3. Ý nghĩa của việc sử dụng cụm từ cân đối trong Truyện Kiều Nguyễn Du...... 77 Tiểu kêt chương 3…………………………………………………………........... 80 Kết luận ……………………………………………………………………………...82 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 83 PHỤ LỤC ........................................................................................................ 85 PHỤ LỤC 1. .................................................................................................... 85 PHỤ LỤC 2. .................................................................................................. 129 PHỤ LỤC 3. ................................................................................................... 133 PHỤ LỤC 4. ................................................................................................... 136
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Như một quy luật nhất thành bất biến, các thi hào dân tộc bao giờ cũng chịu ảnh hưởng và tiếp thu mạch nguồn ngôn ngữ dân gian. Dante – niềm tự hào của nền thi ca Ý thế kỷ XIII đã coi ngôn ngữ dân gian Ý “đóng vai trò trụ cột”; Lomonosov – thi hào vĩ đại nước Nga thế kỷ XIX xem ngôn ngữ dân gian là nguồn ngữ liệu vô giá. Những tuyệt phẩm thơ Nôm của nhà văn hóa Đại Việt – Nguyễn Trãi và thi hào dân tộc Nguyễn Du cũng đều khởi nguyên từ ngôn ngữ dân gian. Xuất phát từ đặc trưng giàu âm thanh, tiết tấu của tiếng Việt, từ trước đến nay người Việt Nam rất ưa lối nói vần vè, cân đối trong cách diễn đạt. Từ giao tiếp thông thường đến sáng tác văn chương, người Việt đều có thói quen, sở thích nói vần vè, cân đối, nhịp nhàng. Nhã thú diễn đạt đăng đối, vần điệu của người Việt có lẽ bắt nguồn từ ưu thế đặc trưng của tiếng Việt – loại hình ngôn ngữ đơn lập, biểu âm cùng hệ thống thanh điệu phong phú. Nhiều nhà thơ đã vận dụng và phát huy thói quen, sở thích trong lối diễn đạt của dân tộc trong sáng tác bằng tiếng Việt. Có lẽ, trong suốt hành trình 10 thế kỷ của văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai thi sĩ chú tâm vận dụng nhiều hơn cả đặc điểm diễn đạt nói trên. Có thể nhận thấy, từ cách diễn đạt bằng cụm từ cân đối vốn tồn tại trong lối diễn đạt dân gian, thi hào Nguyễn Trãi và Nguyễn Du đã sáng tạo rất nhiều những cụm từ cân đối và cả những biến thể của nó. Với khả năng thi công tài tình, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du đã tạo nên vẻ đẹp hài hòa của ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, gần gũi với lối diễn đạt của người bình dân. Đồng thời, với làm giàu đẹp lên rất nhiều ngôn ngữ dân gian, nâng ngôn ngữ giao tiếp đời sống hàng ngày thành ngôn ngữ văn học. Đó là cách tốt nhất tự nhiên nhất và hiệu quả để góp phần đưa tiếng Việt trở thành ngôn ngữ thống nhất của quốc gia.
  8. 2 Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dù đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình đánh giá, nhận định, nghiên cứu về thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều của Nguyễn Du, tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu về kế thừa, sáng tạo cụm từ cân đối trong sáng tác dân gian đến văn học thành văn (khảo sát qua thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều Nguyễn Du). Chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu Quốc âm thi tập và Truyện Kiều bằng việc đi sâu khám phá cụm từ cân đối sẽ là hướng tiếp cận phù hợp và đáng tin cậy cho việc đánh giá khách quan về những đóng góp của hai đại thi hào về nền thơ dân tộc viết bằng tiếng Việt, về sự phát triển của ngôn ngữ, văn hóa Việt Nam. Đó là lí do, chúng tôi lựa chọn đề tài “Cụm từ cân đối từ văn học dân gian đến văn học thành văn (Khảo sát qua thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều Nguyễn Du)”. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2.1. Những công trình đánh giá chung về Nguyễn Trãi và thơ Nôm Nguyễn Trãi Với tập thơ vĩ đại Quốc âm thi tập gồm 254 bài, Nguyễn Trãi được xem là nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Đây cũng là lí do khiến các thi nhân và giới nghiên cứu cùng quan tâm viết bình giảng, bình thơ, cảm thụ thơ Nôm Nguyễn Trãi chi tiết với từng đề tài, từng bài thơ, thậm chí từng câu chữ. Ở phương diện ngôn ngữ dân gian trong thơ Nôm Nguyễn Trãi cũng đã được khá nhiều người nghiên cứu, nhưng cũng chỉ dừng lại ở một khía cạnh hay phương diện nhất định nào đó, do vậy chưa những bài nghiên cứu về vấn đề cụm từ cân đối. Nghiên cứu về thơ văn Nguyễn Trãi trong đó có nhiều bài viết đề cập đến ảnh hưởng của ngôn ngữ dân gian trong thơ Quốc âm thi tập của những tác giả lớn như: Hoàng Trung Thông, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Hoàn, Đặng Thai Mai, Bùi Văn Nguyên… mỗi nhà nghiên cứu có cách tiếp cận và nhận định riêng nhưng điểm chung là vẫn khẳng định sự kế thừa có
  9. 3 phần sáng tạo của Ức Trai khi sử dụng những từ ngữ bình dân, thành ngữ, tục ngữ vào sáng tác của mình. Phần lớn các câu ca dao tục ngữ mà ông dùng không giữ nguyên trạng thái vốn có, mà được nhào nhuyễn lại, được biến hóa một cách tài tình để hình thành kết cấu nghệ thuật sinh động. Bên cạnh đó tác giả Nguyễn Thiên Thụ cũng đã đề cập đến sự phong phú về thành ngữ và tục ngữ trong Quốc âm thi tập, bài viết“Ảnh hưởng và địa vị của Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam” phần nào chứng tỏ Nguyễn Trãi đã sử dụng tài nguyên phong phú của nền văn chương Việt Nam, đó là ca dao, tục ngữ. Song song đó Nguyễn Trãi và cuộc đời cũng đã được các nhà nghiên cứu phê bình khai thác trên bình diện tác giả, tác phẩm hay nội dung, nghệ thuật.Đó là nguồn tư liệu quý giá và thuận lợi cho người viết thực hiện khóa luận này. Những sách báo tuy viết về về Nguyễn Trãi rất nhiều nhưng chỉ đi sâu nghiên cứu một cách khái quát chung. Vì vậy, trong bài viết này chúng tôi tìm hiểu cụm từ cân đối từ văn học dan gian đến thơ Nôm Nguyễn Trãi sẽ đi sâu vào cách sử dụng, lựa chọn và sáng tạo cụm từ cân đối trong thơ Nôm. 2.2. Những công trình đánh giá chung về Nguyễn Du và Truyện Kiều Truyện Kiềumột kiệt tác nghệ thuật của nền văn học nước nhà. Truyện Kiều được nhân dân ta đón nhận một cách say mê, nhiều lúc đã trở thành vẫn đề xã hội, tiêu biểu. Không chỉ được đón nhận ở tầng lớp thị dân, Truyện Kiều còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận. Ngày nay các nhà nghiên cứu trên thế giới vẫn đánh giá rất caoTruyện Kiều. Dịch giả người Pháp Rơ-Ne-Crir-Sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài viết dài 96 trang, trong đó có đoạn: “Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kì quốc gia nào, thời đại nào” Ông so sánh với văn học Pháp:“Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác
  10. 4 phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sung kính và yêu chuộng bằng quyển truyện này ở Việt Nam”. Sở dĩ như thế là vì ngoài nội dung sâu sắc phong phú, Truyện Kiều còn là một tác phẩm chứa đựng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Ở Truyện Kiều ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân đã kết hợp với nhau bổ sung cho nhau, phát huy cao độ những mặt tích cực của nó. Thông qua Truyện Kiều người đọc phần nào thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc cùng với tài năng bạc thầy của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Hệ thống từ ngữ được tác giả sử dụng rất tự nhiên, dung dị, mang đậm hơi thở của cuộc sống.Trong đó các thành ngữ được Nguyễn Du sử dụng rất hiệu quả. Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ mang tính dân tộc sâu sắc. Nó thường xuyên có mặt trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của mỗi người dân trong cuộc sống. Bất kì ở nới đâu, trong hoàn cảnh nào thì thành ngữ cũng có thể xuất hiện. Thành ngữ là một tài sản quý báu, nói cách khác thành ngữ được sáng tạo trong qua trình sinh hoạt quần chúng. Tất cả các đặc điểm trên làm cho thành ngữ là một đối tượng hấp dẫn đối với giới nghiên cứu và trong Truyện Kiều không là một ngoại lệ. Nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt nói chung có thể nói đến công trình nghiên cứu vềTục ngữ ca dao của Phạm Quỳnh được công bố vào năm 1921. Tuy nhiên những năm 60 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu thành ngữ mới có cơ sở khoa học nghiêm túc. Cái mốc quan trọng trong việc nghiên cứu thành ngữ học Việt Nam xuất hiện bản từ điển Thành ngữ tiếng Việt1976 của Nguyễn Lực và Lương Văn Đang. Công trình này tuy còn chưa bao quát được hết tất cả các thành ngữ trong tiếng Việt nhưng nó đã cung cấp cho các nhà ngôn ngữ học và những sai quan tâm đến vấn đế này một tài liệu to lớn. Năm 1989, Nguyễn Lân xuất bản cuốn Từ điển tục ngữ và thành ngữ Việt Nam Gần đây nhất là cuốn Phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng mô hình cấu trúc của Triều Nguyên. Như vậy cho đến nay thành ngữ vẫn đang được tiếp cận, khám phá theo nhiều khía cạnh khác nhau nhằm làm sáng rõ những giá trị phong phú của đơn vị từ này. Rất nhiều bài nghiên cứu vấn đề này trong các sáng tác
  11. 5 của các tên tuổi lớn như Hồ Chí Minh, Nguyên Hồng, Tản Đà, Tô Hoài…đã được tiến hành trong thời gian gần đây nhưng vẫn chưa có công trình nào tìm hiểu kĩ lưỡng về nghệ thuật dùng thành ngữ, dùng Cụm từ cân đối của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Trong cuốn Những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều (2004) của Phạm Đan Quế cũng đã đề cập đến việc vận dụng thành ngữ trong Truyện Kiều nhưng mới ở mức độ khái quát. Những ý kiến, những đánh giá trên là định hướng quan trọng cho chúng tôi nghiên cứu cụm từ cân đối từ văn học dân gian đến văn học thành văn (Khảo sát qua thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều Nguyễn Du) 3.Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu đối tượng là cụm từ cân đối trong văn học, văn hóa dân gian đến văn học thành văn trên cơ sở khảo sát qua Quốc âm thi tập và Truyện Kiều. 3.2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu về cụm từ cân đối được sử dụng trong dân gian, đặc biệt trong thành ngữ và văn khấn Nôm đến văn học thành văn, được Nguyễn Trãi và Nguyễn Du vận dụng kế thừa sáng tạo trong sáng tác thơ ca bằng tiếng Việt để thấy được mạch ngầm từ văn hóa dân gian đến sáng tác của hai đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi và Nguyễn Du trong sự thống nhất phát huy giá trị ngôn ngữ dân tộc. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đặt ra những yêu cầu chính sau: - Khảo sát cụm từ cân đối trong văn học dân gian. - Khảo sát cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.
  12. 6 - Khảo sát cụm từ cân đối trong Truyện Kiều- Nguyễn Du. - Nghiên cứu tác dụng của cụm từ cân đối trong văn học dân gian và trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều Nguyễn Du. - Nghiên cứu một số tài liệu liên quan là cơ sở lí thuyết, lý luận cho đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu đề tài trên, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: + Phương pháp thống kê phân loại: Sử dụng trong quá trình khảo sát và thống kê số lần sử dụng cụm từ cân đối trong văn học dân gian và trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều-Nguyễn Du. + Phương pháp so sánh đối chiếu: Sử dụng thao tác đối chiếu giữa cụm từ cân đối được sử dụng trong văn học dân gian và cụm tư cân đối được sử dụng trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều Nguyễn Du. So sánh tần số sử dụng cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi với cụm từ cân đối được sử dụng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. + Phương pháp hệ thống: Nhằm hệ thống lại việc sử dụng và tác dụng của cụm từ cân đối trong dân gian, trong sáng tác của tác giả Nguyễn Trãi và Nguyễn Du. + Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở các thao tác phân tích, chúng tôi tiến hành tổng hợp, đánh giá, đưa ra các luận điểm, các kết luận khoa học. 5. Phạm vi nghiên cứu Cụm từ cân đối trong văn học dân gian, trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. 6. Đóng góp của luận văn Chúng tôi hi vọng kết quả của luận văn sẽ có được những đóng góp sau:
  13. 7 + Thông qua việc khảo sát thống kê các cụm từ cố định trong văn học dân gian, thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều – Nguyễn Du, chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm một lời khẳng định sự phong phú trong kho tàng dân gian Việt Nam; sự sáng tạo và những đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đối với kho tàng ngôn ngữ văn học dân tộc thể hiện qua cụm từ cân đối. + Trong chừng mực nhất định, luận văn chứng minh một dấu ấn trong thói quen diễn đạt rất đặc trưng của người Việt trong những tác phẩm được đánh giá là kiệt tác của văn học Việt Nam thời trung đại. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Cụm từ cân đối –thói quen diễn đạt của người Việt và trong văn học dân gian Chương 2. Cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi - Sự vận dụng chọn lọc và sáng tạo Chương 3.Cụm từ cân đối trong Truyện Kiều Nguyễn Du- Sự kế thừa tài tình và điêu luyện Chương 1 CỤM TỪ CÂN ĐỐI – THÓI QUEN DIỄN ĐẠT CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN 1.1. Khái lược về cụm từ cân đối 1.1.1. Khái niệm cụm từ cân đối Cụm từ cân đốilà cách gọi tên của ngữ có cấu trúc cân đối gồm hai vế. Mỗi vế, ngoài số chữ trong bằng nhau, số chữ chẵn (có thể là bốn chữ, có thể
  14. 8 là sáu chữ), hài hòa cân đối về đối thanh đối ý, tạo ra tính nhạc trong câu. Cụm từ cân đối yêu cầu phải đối về thanh điệu và đối về từ loại [25,tr.61]. Ví dụ:“Ăn vóc học hay”, “Ăn trông nồi ngồi trông hướng”. Các câu trên có cấu trúc gồm hai vế với số chữ bằng nhau, đối thanh điệu rất rõ ràng, ở cụm từ cân đối 4 chữ: “Ăn vóc học hay”, thanh trắc “vóc” đối với thanh bằng “hay”. Trong cụm từ cân đối 6 chữ: “Ăn trông nồi ngồi trông hướng”, các chữ trong câu bằng nhau có sự cân đối hài hòa, bắt vần với nhau và cùng thanh điệu: “nồi”- “ngồi”. Trong ví dụ cụm từ cân đối 6 chữ có xuất hiện đối về từ loại: danh từ “nồi” đối với danh từ “hướng” Hình thức của cụm từ cân đối khá đa dạng có thể là cụm từ cân đối 4 chữ, cụm từ cân đối 6 chữ, cụm từ cân đối 8 chữ. Ví dụ: Cụm từ cân đối 4 chữ: “Ăn chắc mặc bền”, “Cơm lành canh ngọt”, “ Con dại cái mang”, “Cờ bí dí tốt”, “Cốc mò cò xơi”, “Chó treo mèo đậy”… Cụm từ cân đối 6 chữ:“Buôn có bạn bán có phường”, “Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, “Của một đồng công một nén”, “Đâm bị thóc chọc bị gạo”… Cụm từ cân đối 8 chữ: “Một lần ngại tốn, bốn lần chẳng xong”,“Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”, “Mỏng môi hay hớt, trớt môi nói thừa”… Các từ trong cụm từ cân đối phải bắt vần với nhau, có thể là vần liền kề hoặc cách vần. Vần liền kề có thể là 2 vần bằng, và có thể là 2 vần trắc. Trong ví dụ về cụm từ cân đối 4 chữ, các chữ ở 2 vế có số tiếng bằng nhau. Các từ trong câu là vần liền kề bắt vần với nhau. Chẳng hạn, trong “Chó treo mèo đậy”, vần “eo” (treo – mèo) nằm liền kề và bắt vần với nhau cùng vần bằng trong câu “Cốc mò cò xơi”. Hoặc trong cụm từ cân đối, các chữ bắt vần liền kề với nhau và vần liền kề có thể là hai
  15. 9 vần trắc, có thể kể đến câu “Người sống đống vàng”, cùng bắt vần “ông” và cùng vần trắc (sống – đống). Có trường hợp các tiếng bắt vần với nhau nhưng không nằm liền kề nhau.Ví như câu “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”, kiện và kiến bắt vần với nhau nhưng nằm cách nhau bởi chữ “như”. Hay như trong câu “Gần mực thì đen gần đèn thì rạng”,“đen” và “đèn” bắt vần với nhau và cũng nằm cách nhau bởi chữ “gần”. Trong cụm từ cân đối còn có sự hài thanh, hai từ gần nhau trong câu cùng vần nhưng trái dấu. Trong câu “Ăn chắc mặc bền”, “chắc” và “mặc” cùng vần “ăc” nhưng khác dấu, từ “chắc” là thanh trắc, từ “mặc” là thanh bằng. Trong câu “Ăn cây táo rào cây bưởi” cũng có sự hài thanh như thế. Về đối thanh: Hai chữ vế sau cùng thanh nhưng trái thanh với hai chữ vế trước: “Năm thê bảy thiếp” BB TT. “Nòi nào giống đấy” BB TT. “Khác máu tanh lòng” TT BB. “Thấy quế phụ hương” TT BB. Chữ thứ nhất vế trước đối chữ thứ nhất vế sau, chữ thứ hai vế trước với chữ thứ hai vế sau cũng đối nhau như vậy: “Bới lông tìm vết” TB BT. “Đứt tay hay thuốc” TB BT. “Bồi ở lở đi” BT TB. “Suy chín xét xa” BT TB. Trong trường hợp cụm từ có ba chữ cùng thanh thì chữ cuối cùng của chữ chia vế nhất thiết phải đối nhau:
  16. 10 “Đất phàm cõi tục “ TB TT. “Ngòi nguyệt ngàn mai” BT BB. Đối về từ loại: Danh từ và tính từ đối với danh từ và tính từ: “Cần tái cải nhừ”; “Liễu yếu mai oằn”. Động từ và danh từ đối với động từ và danh từ: “Vạch lá tìm sâu”;“Qua đò khinh sóng”. Lượng từ và danh từ đối với lượng từ và danh từ:“Năm thê bảy thiếp”; “Một công hai việc”. Cụm từ cân đối còn xuất hiện trường hợp cân đối chéo. Trong trường hợp cân đối chéo nghĩa là tách từng tiếng kép ra thành hai, rồi lồng vào nhau làm thành một bộ, gọi là cụm từ kết hợp chéo cân đối, như cụm từ cân đối chéo “Ong bướm lả lơi” tách ra thành “Bướm lả ong lơi” (“Biết bao bướm lả ong lơi”– Truyện Kiều). Hay “Bồi ở lở đi”, “Bỏ kinh bỏ kệ”, “Cày ruộng cuốc vườ”, “Đường danh lối lợi”. Các cụm từ cân đối có hình ảnh và mang tính chất tái hiện. Về mặt ngữ nghĩa, chúng có thể tương ứng với một từ hoặc những cụm từ tự do, về mặt cấu trúc, chúng tương ứng với một cụm từ, một câu đơn. Về mặt cấu trúc, cụm từ cân đối là một chính thể phức hợp, trong đó các thành tố được người nói tái hiện như là những từ độc lập, là những đơn vị có sẵn trong ngôn ngữ, có cấu trúc cố định vững chắc. 1.1.2. Giá trị của cụm từ cân đối Từ ngàn xưa, người Việt luôn có thói quen nghe lời nói êm tai, vần vè nhịp nhàng. Đặc thù ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam không chỉ giàu nhạc điệu, cùng với lối chơi chữ còn tạo ra nhạc tính trong diễn đạt. Cụm từ cân đối giúp
  17. 11 cho cách diễn đạt vần vè, nhằm nhấn mạnh và gợi ấn tượng với người đọc người nghe, biểu đạt cảm xúc và ý nghĩa. Chúng ta đã biết, cụm từ cân đối thường là ngôn ngữ thông tục của nhân dân, được nhào nặn thành thứ ngôn ngữ trau chuốt về ý nghĩa, âm thanh, nhịp điệu. Bởi thế cho nên cụm từ cân đối tạo ra tính nhạc trong câu. Việc tạo ra tính nhạc trong câu cũng là thói quen của người Việt. Trong câu nói, câu thơ khi sử dụng cụm từ cân đối giúp câu thơ giàu nhạc điệu, tạo ấn tượng đối với người nghe người đọc. Thậm chí như cách nói vần vè giàu nhạc tính trong ngôn ngữ diễn đạt hiện này của giới trẻ, dường như người sử dụng chỉ còn chú trọng đến ngữ âm, bất chấp ngữ nghĩa: “Buồn như con chuồn chuồn”, “Nhí nhảnh cá cảnh”, “Nhọ như đội Phú Thọ”, “Chán như con gián”…Cách diễn đạt vần vè, nhịp nhàng của cụm từ cân đối được thể hiện rất rõ trong văn học dân gian. Sau này đến văn học thành văn, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai tác giả kế thừa và thể hiện rất thành công cụm từ cân đối trong sáng tác, mang hồn cốt của người Việt Xét ở bình diện bên ngoài, nghĩa là cấu trúc hình thức của cụm từ cân đối, thì cụm từ cân đối là đơn vị ngôn ngữ, bản thân nó là cụm từ cố định. Xét ở bình diện bên trong, tức là ngữ nghĩa, cụm từ cân đối là đơn vị ngôn ngữ có ý nghĩa được tái tạo mang tính hình ảnh cao. 1.2. Cụm từ cân đối từ lối diễn đạt trong văn hóa dân gian đến văn học dân gian 1.2.1. Cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm 1.2.1.1. Giới thuyết văn khấn Nôm Văn khấn Nôm là những bài văn khấn được viết bằng chữ Nôm sau này được dịch lại bằng chữ quốc ngữ để người dân dễ dùng trong các buổi lễ cúng. Những từ ngữ trong văn khấn Nôm là thành tâm chứ chẳng sử dụng từ ngữ hoa
  18. 12 mĩ cầu kỳ và lúc khấn người ta không khấn to cho người xung quanh nghe thấy mà chỉ khấn lâm dâm trong miệng đủ để cho mình và những cụ nghe thấy. Văn khấn là lời trình bày với tổ tiên và những người đã khuất lý do về lễ cúng ngày hôm đó. Thường có từng bài văn khấn cho từng ngày lễ và các bài này không giống nhau như: Văn khấn thần tài, văn khấn ngày giỗ ông bà cha mẹ, văn khấn mùng một và ngày rằm hàng tháng, văn khấn ở chùa, văn khấn lễ giao thừa trong nhà, văn khấn chúng sinh, cúng ông địa… 1.2.1.2. Ý nghĩa của văn khấn Nôm cổ truyền Việt Nam Theo truyền thống từ ngày xưa để lại, trong một năm mang hầu hết ngày lễ tết mà tất cả người, mọi nhà bắt buộc tuân thủ theo để làm tròn đạo mang Trời, Đất. Đây cũng được coi là một nét văn hóa vô cùng đặc biệt của người Việt. Những lễ tết và nghi thức trong lễ tết như: tìm lễ, thắp hương, cầu khấn bằng văn khấn luôn được những thế hệ đi sau thay những thế hệ đi trước giữ gìn, tôn trọng và truyền đạt lại cho con cháu thế hệ mai sau. Việc cầu khấn bằng văn khấn nhằm bày tỏ lòng thành tâm hướng về tổ tiên của người làm lễ dâng hương trước các đấng vô hình, linh thiêng như: vong linh Tổ tiên, mẫu tộc, Thần thánh, những chư vị Thánh hiền, chư vị Bồ Tát, chư Phật mười phương tám hướng. Lời lẽ trong văn khấn của người xưa luôn bao hàm mong muốn một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc bình an. Văn khấn là một nét văn hóa rất đặc trưng của người Việt Nam, thuộc loại hình văn hoá dân gian. Điều đáng nói ở đây là trong câu văn khấn Nôm, người Việt thường dùng cụm từ cân đối với tần số khá cao. 1.2.2. Khảo sát phân loại cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm 1.2.2.1. Cụm từ cân đối 4 chữ trong văn khấn Nôm
  19. 13 Khảo sát Văn khấn cô Bơ với 30câu thì đã có đến 10 cụm từ cân đối loại 4 chữ. Ví dụ: “Non xanh nước biếc”, “Cung cao mạng dài”, “Đồng tươi lính tốt”, “Cờ vàng lộng tía”, “Hoa tươi quả tốt”… Khảo sát Văn khấn Quan Tuần Tranh với 16 câu, có 10 cụm từ cân đối 4 chữ: “Cứu dân hộ quốc”, “Lẫm liệt oai hùng”, “Đắp lũy xây thành”, “Nước chảy hoa trôi”,” Sơn cùng thủy kiệt”… Các cụm từ cân đối 4 chữ trong văm khấn Nôm có cấu trúc hai vế với số chữ bằng nhau, đối về thanh điệu rất rõ ràng. Về đối thanh, trong cụm từ khấn Nôm “Non xanh nước biếc”, thanh bằng “xanh” đối với thanh trắc “biếc”. Hai chữ vế sau cùng thanh nhưng trái thanh với hai chữ vế trước: “Đắp lũy xây thành” - TT BB “Sơn cùng thủy kiệt” - BB TT Chữ thứ nhất của vế trước đối với chữ thứ nhất của vế sau, chữ thứ hai của vế trước với chữ thứ hai của vế sau cũng vậy: “Ong bướm lả lơi” - BT TB Với trường hợp cụm từ có ba chữ cùng thanh thì chữ cuối của hai vế nhất thiết phải đối nhau: “Tốt hay xấu dở” – TB TT Đối về từ loại: Danh từ và tính từ đối với danh từ và tính từ: “Mưa dầu nắng dãi” “Non xanh nước biếc” Động từ và danh từ đối với động từ và danh từ:
  20. 14 “Đắp lũy xây thành” “Nước chảy hoa trôi” Trong việc tạo ra cụm từ cân đối 4 chữ ở văn khấn Nôm, tác giả dân gian còn dùng lối kết hợp chéo, tách từng tiếng kép ra làm hai rồi lồng vào nhau thành một bộ, đó chính là cụm từ kết hợp chéo cân đối, như “Đắp lũy xây thành”, “Tốt hay xấu dở”. Đặc biệt, hiện tượng kết nối các cụm từ cân đối 4 tiếng thành một đoạn, thậm chí một đoạn văn dài khá phổ biến trong Văn khấn như: “Phù hộ độ trì, vuốt ve che chở, ăn ngoan chóng lớn, vô bệnh vô tật, vô tai vô ương, vô hạn vô ách”Văn cúng mụhay “Toàn gia lớn bé, già trẻ bình an thịnh vượng, luôn luôn mạnh khỏe, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hòa thuận”Văn khấn tất niên “Toàn thể gia chủ năm mới tốt lành, sức khỏe dồi dào, tấn tài tấn lộc, vạn sự tốt lành, vạn sự như ý”Văn khấn giao thừa trong nhà; “Gặp nhiều may mắn, tấn tài tấn lộc, tai qua nạn khỏi” Văn khấn Thần Linh trong nhà; “Đầu năm chí giữa, cuối năm chí cuối, sự nghiệp hanh thông, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm”Văn khấn Thần Linh trong nhà,“Bốn mùa không hạn ách, tám tiết được hưởng điềm lành”Văn khấn tổ tiên,“Che tai cứu nạn, ban tài tiếp lộc, điều lành mang đến, điều dữ xua đi”Lễ vong linh ngoài mộ; “Luôn luôn mạnh khoẻ, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hòa thuận, trên bảo dưới nghe” Văn khấn tết Hàn Thực; “Luôn luôn mạnh khỏe, mọi sự bình an, lộc tài vượng tiến, gia đạo hung long, gia đình hòa thuận, vạn sự tốt lành”Văn khấn Rằm tháng Bảy 1.2.2.2. Cụm từ cân đối 6 chữ và 8 chữ trong văn khấn Nôm So với loại cụm từ cân đối 4 chữ, cụm từ cân đối 6 chữ, 8 chữ được dùng ít hơn. Ví dụ: “Nhất tâm phụng thỉnh kêu cầu” Văn khấn Cô Bơ “Chỉ ngón tay xoay ngòi bút” Văn khấn Quan Tuần Tranh “Ra tay phù ngả tay trị” Văn khấn Quan Giám Sát.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1