intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:148

40
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn hướng tới tìm hiểu những giá trị cơ bản về nội dung, nghệ thuật của truyền thuyết ở Chi lăng, Lạng Sơn và ý nghĩa sâu sa của các lễ hội dân gian gắn với truyền thuyết. Qua đó khẳng định vai trò, vị trí và ý nghĩa của truyền thuyết và lễ hội dân gian nơi đây. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LƯƠNG MẠNH HOÀN TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LƯƠNG MẠNH HOÀN TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Hằng Phương THÁI NGUYÊN - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này do chính bản thân tôi thực hiện, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Hằng Phương. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một công trình khoa học nào khác. Thái Nguyên, ngày 02 tháng 9 năm 2018 Tác giả Lương Mạnh Hoàn i
  4. LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học trường Đại học sư phạm Thái Nguyên - Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập. Xin được cảm ơn quý thầy, cô đã nhiệt tình giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài luận văn của mình. Đặc biệt, tôi xin được gửi đến cô giáo hướng dẫn khoa học PGS.TS Nguyễn Hằng Phương lòng biết ơn chân thành. Cô đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn. Tôi xin cảm ơn các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn như: Sở Văn hóa thông tin, Hội Văn học nghệ thuật của tỉnh, Thư viện tỉnh, phòng văn hóa huyện Chi Lăng và gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, ủng hộ, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018 Tác giả Lương Mạnh Hoàn ii
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN................................................................................................................ ii MỤC LỤC ................................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn.......... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 5 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 5 5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 6 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 6 7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................ 7 NỘI DUNG .................................................................................................................. 8 Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN ....... 8 1.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm về kinh tế xã hội, đời sống văn hóa và truyền thống lịch sử ....................................................................................................... 8 1.1.1. Điều kiện tự nhiên............................................................................................... 8 1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội ................................................................................... 10 1.2.3. Đời sống văn hóa và truyền thống lịch sử ........................................................ 12 1.2. Khái niệm truyền thuyết và lễ hội........................................................................ 16 1.2.1. Khái niệm truyền thuyết ................................................................................... 16 1.2.2. Khái niệm lễ hội dân gian ................................................................................. 17 1.3. Khái lược về truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng, Lạng Sơn ................ 19 1.3.1. Truyền thuyết ở Chi Lăng, Lạng Sơn ............................................................... 19 1.3.2. Hệ thống lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn ............................................. 20 Chương 2: NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỀN THUYẾT Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN ................................................................................................. 25 2.1. Nội dung truyền thuyết ở Chi Lăng - Lạng Sơn .................................................. 25 2.1.1. Phản ánh thời kỳ lịch sử đầy biến động của dân tộc ......................................... 25 2.1.2. Thể hiện tấm lòng kính yêu, ngưỡng mộ của người dân với những vị anh hùng.. 36 iii
  6. 2.1.3. Lí giải những địa danh, tên gọi ......................................................................... 43 2.2. Nghệ thuật truyền thuyết ở Chi Lăng - Lạng Sơn ............................................... 51 2.2.1. Biểu tượng núi - đá trong truyền thuyết ở Chi Lăng - Lạng Sơn ..................... 51 2.2.2. Thời gian và không gian nghệ thuật ................................................................. 54 2.2.3. Motif trong truyền thuyết ở Chi Lăng - Lặng Sơn ........................................... 57 Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................... 62 Chương 3: LỄ HỘI DÂN GIAN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI TRUYỀN THUYẾT Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN ....................................................................... 63 3.1. Lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn .............................................................. 63 3.1.1. Những lễ hội còn tồn tại trong đời sống dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn ...... 63 3.1.2. Những lễ hội trong tâm thức dân gian của người dân Chi Lăng - Lạng Sơn ... 79 3.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn ....... 86 3.2.1. Truyền thuyết là nguồn gốc phát sinh lễ hội..................................................... 86 3.2.2. Lễ hội làm sống lại truyền thuyết trong đời sống nhân dân ............................. 90 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 99 PHỤ LỤC....................................................................................................................... PHỤ LỤC ẢNH ............................................................................................................. iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chi Lăng là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn, là vùng đất địa linh, nhân kiệt và rực rỡ chiến công ở miền biên ải phía Bắc của Tổ quốc. Huyện Chi Lăng nằm cách trung tâm thành phố Lạng Sơn khoảng 40km về phía nam, phía đông giáp huyện Lộc Bình, phía tây giáp huyện Văn Quan, phía bắc giáp huyện Cao Lộc, phía nam giáp huyện Hữu Lũng và huyện Lục Ngạn (tỉnh Bắc Giang). Mặc dù phong tục tập quán, ngôn ngữ và thời gian định cư sớm muộn khác nhau, nhưng nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện Chi Lăng luôn luôn đoàn kết, gắn bó tương trợ lẫn nhau cùng chung sống, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Huyện Chi Lăng hiện có 21 đơn vị hành chính, bao gồm 2 thị trấn và 19 xã, 205 thôn, 7 khu phố. Nhiều nơi không đơn thuần chỉ là địa danh hay là nơi sản sinh những nhân vật có thật trong lịch sử mà nó còn gắn với những câu chuyện truyền thuyết dân gian vô cùng sống động. Lịch sử và truyền thuyết gắn liền với những lễ hội dân gian hòa quyện, đan xen vào nhau đã tạo nên một Chi Lăng anh hùng. Từng địa danh, từng ngọn núi, dòng sông, dòng suối ở vùng Chi Lăng đều ghi dấu ấn lịch sử và mang những giá trị văn hóa rất ý nghĩa. Có nhiều công trình nghiên cứu khoa học cho thấy Chi Lăng là mảnh với nhiều giá trị văn hóa, văn học truyền thống. Việc tìm hiểu, nghiên cứu văn học và văn hóa dân gian qua tiến hành khảo sát, tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội ở vùng Chi Lăng được lưu truyền và tồn tại trong đời sống xã hội có tác dụng và ý nghĩa tăng cường sự hiểu biết về giá trị văn hóa tinh thần, phát huy sự đoàn kết, gắn bó các dân tộc ở Chi Lăng nói riêng, của cả dân tộc Việt Nam nói chung. Để từ đó, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, giàu đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian nói chung là việc làm vô cùng thiết thực để thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đến nay, có khá nhiều nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội ở Lạng Sơn. Tuy nhiên, mảng truyền thuyết và lễ hội ở địa phương còn ít và chưa có hệ thống. Trong tình hình ấy, truyền thuyết và lễ hội ở Chi Lăng - Lạng Sơn cho đến nay vẫn chưa có nhà nghiên cứu nào khảo cứu một cách có hệ thống. 1
  8. Là người con sinh ra và lớn trên mảnh đất Chi Lăng lịch sử, nơi ghi dấu bao chiến công chống giặc ngoại xâm của dân tộc, cũng là nơi hội tụ nhiều nét đẹp văn hóa dân gian với nhiều danh thắng nổi tiếng như Ải Chi Lăng, Núi Mặt Quỷ, Núi Mã Yên, Núi Cai Kinh… đồng thời là giáo viên tham gia giảng dạy bộ môn ngữ văn nói chung trong đó có văn học dân gian nên việc tìm hiểu, nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội ở Chi Lăng - Lạng Sơn là dịp để giữ gìn, bảo lưu và phát triển văn hóa, văn học quê hương mình. Cũng từ đó, khơi gợi và bồi đắp cho học sinh niềm tự hào về truyền thống văn hóa của quê hương, giúp các em có ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống lịch sử. Xuất phát từ những lý do khoa học và thực tiễn nêu trên mà chúng tôi chọn “Truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn” làm làm đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi sẽ điểm lại lịch sử nghiên cứu truyền thuyết dân gian xứ Lạng, các công trình nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội ở một số địa phương. Tình hình nghiên cứu truyền thuyết dân gian xứ Lạng. Bài viết: “Sắc thái truyền thuyết trong Folkore xứ Lạng” của tác giả Lê Trường Phát được đăng trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật năm 1993, đã có cái nhìn toàn diện về truyền thuyết dân gian xứ Lạng. Cuốn: “Truyện cổ xứ Lạng” của Nguyễn Duy Bắc (1997), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, thống kê các truyện kể dân gian ở xứ Lạng. Hai cuốn “Lễ hội dân gian Lạng Sơn”, của tập thể các tác giả Hoàng Páo, Hà Văn Thanh, Bế Kim Loan, Vũ Kiều Oanh (2002), Sở Văn hóa thông tin tỉnh Lạng Sơn.) và “Ai lên xứ Lạng”, của Hà Văn Thư - Hoàng Văn Nam - Vi Hồng Nhân - Vương Toàn (1994), Nxb văn hóa dân tộc Hà Nội có điểm qua sơ lược một số truyền thuyết dân gian Lạng Sơn gắn liền với lễ hội. Ngoài ra phải kể đến một số các công trình nghiên cứu là khóa luận, luận văn, luận án về truyền thuyết dân gian ở Lạng Sơn như: - Hoàng Thị Khánh Xuân (2007), “Truyền thuyết Bàn Hồ và tục thờ cúng Bàn Hồ của người Dao Lô Gang ở huyện Lộc Bình - tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 2
  9. - Phạm Thị Huyền (2008), “Truyền thuyết và lễ hội ven sông Kỳ Cùng - Lạng Sơn”, Khóa luận tốt nghiệp Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. - Nguyễn Thị Tân Hương (2012), “Khảo sát truyện kể dân gian Tày Nùng xứ Lạng”, luận văn thạc sĩ, trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên. - Phạm Duy Tùng (2014), “Truyền thuyết về núi non xứ Lạng”, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội ở một số địa phương - Bùi Văn Nguyên (1969), “Hình tượng anh hùng trong truyện dân gian các dân tộc thiểu số miền Bắc”, Tạp chí Văn học, số 9, tr 64-74. - Nguyễn Thế Dũng (2001), “Truyền thuyết và lễ hội Hai Bà Trưng ở Hát Môn- Phú Thọ - Hà Tây”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. - Mai Thu Thủy (2005), “Khảo sát những đặc điểm truyền thuyết của người Tày ở Bắc Kạn”, Luận văn thạc sĩ Đại học Sư phạm Hà Nội. - Trần Duy Phương (2008), “Truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả, Lục Ngạn, Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên. - Vũ Ngọc Long (2009), “Khảo sát truyền thuyết và lễ hội về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Hưng Yên”, Luận văn thạc sĩ Đại học Sư phạm Hà Nội. - Hồ Thị Mai Hương (2009), “Khảo sát truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng Đại Từ Thái Nguyên”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên. - Hà Xuân Hương (2011), “Mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội về người anh hùng lịch sử của dân tộc Tày ở vùng Đông Bắc”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. - Nguyễn Thị Phương Thủy (2013) “Hệ thống truyền thuyết và lễ hội về võ tướng Dương Tự Minh ở Thái Nguyên”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên. …. Những công trình trên đều nêu lên những nét đặc trưng của truyền thuyết ở địa phương gắn với văn hóa, tín ngưỡng và lễ hội. Nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn Chi Lăng - mảnh đất với bao kỳ tích lịch sử gắn liền với cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua các thời kỳ lịch sử. Chi Lăng cũng là mảnh đất của những giá trị truyền thống văn hóa, văn học. 3
  10. Tập kỷ yếu “Chi Lăng lịch sử” (với trên 30 bản báo cáo khoa học và tham luận của các nhà nghiên cứu ở Trung ương và địa phương) chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu thắng lợi quân sự của chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang ở thế kỷ XV, khẳng định vị thế hiểm yếu của vùng đất Chi Lăng. Chúng tôi tổng hợp được một số truyền thuyết trong tập kỷ yếu này. Cuốn “Kỳ tích Chi Lăng” của tác giả Nguyễn Trường Thanh. Chúng tôi nhận thấy ở cuốn sách, tác giả đã giới thiệu 52 truyền thuyết gắn với mảnh đất Chi Lăng lịch sử. Các câu chuyện truyền thuyết trong cuốn sách này đã kể lại những sự kiện hào hùng của dân tộc trên mảnh đất Chi Lăng lịch sử, đó là khi nước ta còn bị nhà Đường đô hộ, các cuộc đấu tranh của các nghĩa binh cùng nhân dân cả nước đánh đuổi bọn phong kiến phương Bắc, đến chiến thắng trước quân xâm lược Tống, Nguyên - Mông, Minh, Thanh, thực dân Pháp. Dự án “Đình Làng Mỏ, xã Quang Lang, Huyện Chi Lăng, Tỉnh Lạng Sơn” (Sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Lạng Sơn), đã cung cấp về truyền thuyết về người anh hùng nhân dân nơi đây thường gọi là Ngài gắn lịch sử của ngôi đền Cấm và đình làng Mỏ. Đặc biệt tác giả đã khảo tả về lễ hội dân gian đình làng Mỏ một cách khá tỉ mỉ và chi tiết. Đặc biệt luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội của tác giả Ngô Thị Huế (2016), “Hình tượng người anh hùng chống ngoại xâm qua nhóm truyền thuyết Chi Lăng, Lạng Sơn”. Trong luận văn này, tác giả có nghiên cứu, tập hợp khá nhiều truyền thuyết ở Chi Lăng. Ngoài ra tác giả còn đi sâu tìm hiểu về những đặc điểm nội dung và hình thức nghệ thuật về hình tượng người anh hùng chống giặc ngoại xâm qua nhóm truyền thuyết Chi Lăng, Lạng Sơn Như vậy, chúng tôi thấy đó là những tư liệu và kiến thức rất quý giá. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội ở Chi Lăng - Lạng Sơn một cách đầy đủ một cách đầy đủ và có hệ thống. Từ những điều kiện thực tế đó và trên cơ sở tìm hiểu các công trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi quyết định chọn “Truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn” làm đề tài nghiên cứu của mình. Chúng tôi xem những công trình đi trước là tiền đề khoa học quý giá, là những ý kiến gợi mở giúp chúng tôi thực hiện đề tài của mình. 4
  11. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Hệ thống các truyền thuyết dân gian ở vùng Chi Lăng, Lạng Sơn. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của truyền thuyết dân gian ở Chi Lăng, Lạng Sơn là thường gắn với các nghi lễ tế thần ở đình, đền, miếu…nên tác giả đồng thời khảo tả các lễ hội dân gian ở nơi đây. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi tư liệu nghiên cứu: + Tư liệu đã xuất bản như: Kỳ tích Chi Lăng (Nxb Thanh Niên - 2002); tập kỷ yếu (1987) Chi Lăng lịch sử; Ai lên xứ Lạng (Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1994); dự án Đình Làng Mỏ, xã Quang Lang, Huyện Chi Lăng, Tỉnh Lạng Sơn (Sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Lạng Sơn)…. + Tư liệu lưu truyền trong đời sống dân gian: Một số truyền thuyết và lễ hội dân gian do tác giả sưu tầm. - Phạm vi vấn đề nghiên cứu: luận văn chủ yếu tìm hiểu một số phương diện nội dung, nghệ thuật của truyền thuyết ở Chi Lăng, Lạng Sơn và một số thể thức về lễ hội dân gian nơi đây trong mối quan hệ với truyền thuyết. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Hướng tới tìm hiểu những giá trị cơ bản về nội dung, nghệ thuật của truyền thuyết ở Chi lăng, Lạng Sơn và ý nghĩa sâu sa của các lễ hội dân gian gắn với truyền thuyết. Qua đó khẳng định vai trò, vị trí và ý nghĩa của truyền thuyết và lễ hội dân gian nơi đây. - Trên cơ sở đó, bước đầu định hướng cho việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa, văn học dân gian địa phương nói riêng, bản sắc văn hóa dân tộc nói chung. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tế liên quan đến đề tài. - Điền dã, sưu tầm, tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội ở Chi Lăng, Lạng Sơn, đồng thời tìm hiểu thêm văn hóa ở địa phương nơi chúng tôi khảo sát, nghiên cứu. - Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm truyền thuyết, tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thuyết và tín ngưỡng lễ hội nơi đây. 5
  12. 5. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được kết quả và mục đích nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Phương pháp điền dã: Chúng tôi sử dụng để tiến hành điền dã sưu tầm văn học, văn hóa dân gian ở huyện Chi Lăng. Chúng tôi đến tham quan, tìm hiểu các di tích lịch sử, đền chùa, đình…có liên quan đến các truyền thuyết của Chi Lăng. Gặp gỡ, nói chuyện và trao đổi với những cán bộ văn hóa, quản lí di tích lịch sử, những người dân địa phương ở một số làng, xã trong địa bàn huyện. Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp đưa ra được những số liệu cụ thể, chính xác về vấn đề cần khảo sát. Từ đó dẫn đến những kết luận khách quan, có cơ sở khoa học. Phương pháp phân tích văn bản văn học dân gian: Để tìm ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của các truyền thuyết, chúng tôi lấy văn bản của các truyền thuyết làm cơ sở. Từ đó tiến hành hệ thống, phân tích cụ thể hóa để làm nổi bật trọng tâm của các vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Do văn học dân gian nói chung và truyền thuyết nói riêng có đặc trưng là nguyên hợp, tính chất sinh hoạt thực hành nên khi tiến hành đề tài này chúng tôi đã vận dụng phương pháp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: lịch sử, văn hóa, địa lý … để giải quyết vấn đề. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn phác họa diện mạo chung của truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng, Lạng Sơn một cách tương đối đầy đủ và hệ thống. - Làm rõ những đặc điểm về nội dung, hình thức nghệ thuật và ý nghĩa của thuyền thuyết và lễ hội dân gian Chi Lăng, Lạng Sơn. - Góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của văn học dân gian Chi Lăng, Lạng Sơn nói riêng và văn học dân gian cả nước nói chung. Từ đó khẳng định sự bền vững của bản sắc văn hóa dân tộc của địa phương và của đất nước Việt Nam. - Luận văn góp phần bồi đắp tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ý thức xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước của thế hệ trẻ hôm nay. Cũng thông qua 6
  13. đó, luận văn giúp có thêm nguồn tư liệu về truyền thuyết và lễ hội trong chương trình giảng dạy ở trường phổ thông, nhất là ở địa phương Chi Lăng, Lạng Sơn. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tế của việc nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Chi Lăng - Lạng Sơn. Chương 2: Nội dung, nghệ thuật truyền thuyết ở Chi Lăng, Lạng Sơn. Chương 3: Lễ hội dân gian trong mối quan hệ với truyền thuyết ở Chi Lăng, Lạng Sơn. 7
  14. NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN Ở CHI LĂNG - LẠNG SƠN 1.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm về kinh tế xã hội, đời sống văn hóa và truyền thống lịch sử 1.1.1. Điều kiện tự nhiên Địa danh Chi Lăng - tên gọi về mảnh đất thiêng - vùng đất lịch sử, nơi gắn liền với công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi, gìn giữ nền độc lập, tự chủ của Quốc gia, dân tộc. “Huyện Chi Lăng nằm trọn trong vùng nhiệt đới gió mùa, có diện tích tự nhiên 704,81 km2, trong đó núi và đồi chiếm 3/4 diện tích; có nhiệt độ trung bình hằng năm 21,5o C, với lượng mưa bình quân gần 1.500mm. Theo chu trình thời gian. gió mùa Đông Bắc thường xuất hiện từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Từ tháng 4 đến tháng 6 hàng năm thường có những đợt gió Tây khô nóng, dễ gây hạn hán kéo dài. Thời gian mưa nhiều từ tháng 7 đến tháng 9 hàng năm. Do sự kiến tạo tự nhiên của vùng núi khá khép kín mà Chi Lăng ít chịu ảnh hưởng của bão. Tuy nhiên, do có nhiều triền dãy núi đá cao thẳng đứng nên cũng thường xuất hiện mưa đấ và lốc gây không ít thiệt hại cho sản xuất và sinh hoạt đời sống của nhân dân” [ 20, tr.9]. Một đặc điểm nổi bật về tự nhiên của Chi Lăng là sự kiến tạo tự nhiên của vùng núi khá khép kín mà nơi đây ít chịu ảnh hưởng của bão. Tuy nhiên, do có nhiều triền dãy núi đá cao thẳng đứng nên cũng thường xuất hiện mưa đá và lốc gây không ít thiệt hại cho sản xuất và sinh hoạt đời sống của nhân dân. “Nguồn nước tự nhiên ở Chi Lăng khá dồi dào. Đặc biệt có dòng sông Thương chảy từ phía Đông Bắc xuống hướng Nam huyện Chi Lăng, là nguồn nước lớn phục vụ cho canh tác sản xuất và sinh hoạt của nhân dân các dân tộc thuộc các xã Bắc Thuỷ, Nhân Lý, Mai Sao, Quang Lang, Chi Lăng, thị trấn Đồng Mỏ và thị trấn Chi Lăng.” [ 20, tr.10]. Ngoài ra ở các nơi trong huyện đều có các con suối lớn, nhỏ chảy quanh qua các triền khe, chân đồi núi, ven các bản làng, chân ruộng… Có thể khẳng định đây là nguồn nước thường xuyên vô cùng thuận lợi cho canh tác và đời sống của nhân dân các dân tộc ở từng vùng khác nhau. 8
  15. Rừng Chi Lăng rất phong phú về thành phần loại cây. Vùng Chi Lăng nổi tiếng với các loại cây gỗ quý như: lim, trầm, mộc lan, nghiến, lát, hoàng đàn, cam thảo, hà thủ ô... Rừng núi Chi Lăng không chỉ bao bọc, che chở cho người dân mà còn cung cấp nguồn lương thực dồi dào và nhiều cây dược liệu quý hiếm. Yếu tố rừng khiến cho cảnh quan thêm phong phú, mặt khác cũng chính là những yếu tố, những điều kiện thuận lợi cho việc bố phòng quân sự. Dưới lòng đất ở vùng này cũng tiềm ẩn nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng và đang nhờ đôi bàn tay, khối óc con người phát hiện, khai thác, phục vụ phát tiển kinh tế - xã hội và đời sống lâu dài. Chi Lăng một thế hiểm đặc biệt hiếm có, bởi sự cắt xẻ của các yếu tố tự nhiên đã tạo cho toàn bộ vị trí của ải Chi Lăng nằm gọn trong một thung lũng nhỏ, hình bầu dục chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, trên tả ngạn sông Thương, nằm giữa một bên là dãy núi đá vôi thành vại cao ngất ở phía Tây, còn một bên là những núi đất nối tiếp nhau trùng điệp ở phía Đông. Có thể nhận thấy: “Từ đầu phía Bắc đến đầu phía Nam thung lũng dài khoảng 4km. Từ thành núi đá phía Tây sang chân núi đất phía Đông, chỗ rộng nhất khoảng 1km, chỗ trung bình từ 200 đến 300 mét. Tại hai đầu Bắc và Nam, hai mạch núi khép nhỏ lại, tạo ra hai cửa ải rất hiểm trở. Xung quanh chân núi Mã Yên, ngọn núi cuối cùng ở phía nam thung lũng, là một cánh đầm lầy, muốn đi qua phải bắc cầu. Kết hợp địa hình, khí hậu và thủy văn tạo thành các khe rạch chi chít và rừng cây cối gai góc, rậm rạp là một điều hết sức thuận lợi cho việc giấu quân mai phục. Đây là một yếu đại bậc nhất trên quan lộ này” [ 10, tr.13]. Và đặc biệt, với các yếu tố tự nhiên, Chi Lăng là “một thiên thời địa lợi” đối với ta, nhưng lại là “một bất lợi” lớn đối với kẻ thù. Núi rừng ở vùng đất này với thế hiểm độc đáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược. Nhờ nắm được đặc điểm của thế núi, thế sông với lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, ông cha ta đã đánh tan quân thù, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Niềm tự hào về mảnh đất Chi Lăng là nguồn cảm hứng bất tận cho tác giả dân gian thuê dệt và sáng tác nên vô vàn những câu chuyện truyền thuyết vô cùng hấp dẫn và sống động. Đặc biệt với những đặc điểm về tự nhiên nhiều đá núi, suối khe… nên chúng ta thấy, nhiều những câu chuyện truyền thuyết ở Chi Lăng không gian chủ yếu là cảnh rừng núi, sông suối, hang động. Điều này tạo nên sự hấp dẫn và độc đáo riêng cho những câu chuyện truyền thuyết ở Chi Lăng. 9
  16. 1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội Chi Lăng không chỉ được thiên nhiên ưu đãi đẹp tuyệt vời ở cảnh thiên nhiên hùng vĩ, non xanh nước biếc, tài nguyên quý hiếm mà hơn thế nữa cái đẹp, cái đáng quý hơn nữa ở Chi Lăng là những tộc người định cư sinh sống nơi đây. Họ đã góp phần làm nên lịch sử Chi Lăng, góp phần vào công cuộc dựng nước và giữ nước từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc cho đến ngày nay. “Chi Lăng vốn là địa bàn quần cư lâu đời của các dân tộc anh em cùng nhau chung sống. Đồng bào Tày, Nùng định sư sớm hơn, tạo dựng làng bản tập trung, ổn định theo một dòng họ hay nhiều dòng họ bên những cánh đồng, bờ bãi thung lũng, triền sông. Đồng bào các dân tộc anh em khác sống xen kẽ, rải rác các vùng đất mới khai khẩn trên triền đồi núi, khe dọc. Đồng bào Kinh sống tập trung chủ yếu ở thị trấn, ven các trục đường Quốc lộ và đường dân sinh. Mặc dù phong tục tập quán, ngôn ngữ và thời gian định cư sớm, muộn khác nhau, nhung đồng bào các dân tộc Tày, Nùng Kinh….” [ 20, tr.12]. Người dân ở Chi Lăng luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, hiểu biết, tôn trọng và đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế. Mỗi khi có giặc ngoại xâm hoặc thiên tai đe dọa tàn phá, các dân tộc anh em đều đồng lòng, chung sức đánh giặc, khắc phục thiên tai, bảo vệ làng xóm quê hương, đoàn kết xây dựng cuộc sống. Đó là mạch nguồn văn hóa, đạo đức lẽ sống của đồng bào các dân tộc ở vùng đất lịch sử này. Nhân dân các dân tộc Chi Lăng luôn luôn phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương, của dân tộc quyết tâm vươn lên phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống đường giao thông đi lại, giao lưu và trao đổi hàng hóa công thương ở Chi Lăng khá thuận tiện trong tỉnh. Đặc biệt là hiện nay con đường cao tốc mới đang được xây dựng quy mô và hiện đại, dự kiến hoàn thành vào năm 2020 thuận tiện cho việc đi lại và giao lưu phát triển kinh tế thương mại - dịch vụ, vốn đã diễn ra khá sôi động trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn khi Việt Nam mở cửa làm ăn, trao đổi hàng hóa, buôn bán với nước láng giềng Trung Quốc. Trục đường Quốc lộ 1A Hà Nội - Lạng Sơn đi qua Chi Lăng và tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn qua ga Sông Hóa, ga Chi Lăng, ga Đồng Mỏ mở cho phép giao lưu đi lại, trao đổi vận chuyển hàng hóa nhanh chóng, thuận lợi từ Chi Lăng đi thành phố Lạng Sơn, xuôi về Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng 10
  17. Yên, Vĩnh Phúc và các tỉnh khác trong cả nước. “Tuyến đường Đồng Mỏ vượt Đèo Bén, Đèo Lăn qua chợ Bãi đi Tu Đồn là trục đường giao thông quan trọng trong phát triển kinh tế, nối liền nhiều xã trong huyện. Đó cũng là con đường giao thông liên huyện Chi Lăng - Văn Quan, gặp nhau tại đường Quốc lộ 1B đi các huyện Bình Gia, Bắc Sơn rồi tới Thái Nguyên. Hầu hết các xã trong huyện đều có đường dân sinh liên xã đa số đã được bê tông hóa khá thuận lợi, tỏa ra các nhánh đường nhỏ nối liền các thôn, bản, phục vụ thiết thực cho vận chuyển hàng hóa, vật tư cho sản xuất và đi lại sinh hoạt của nhân dân các dân tộc”[ 20, tr.11]. Trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử, bao thế hệ lớp người Chi Lăng luôn đoàn kết gắn bó, không ngường tìm tòi, sáng tạo trong lao động sản xuất, chung sức đồng lòng, đấu tranh chế ngự thiên nhiên, biến những tiềm năng, thế mạnh của đồi rừng, sông suối, bãi bồi… phục vụ cho mục đích cuộc sống lâu dài, mở mang trồng trọt, chăn nuôi và khai thác lâm thổ sản. Nguồn thu chủ yếu trên địa bàn huyện Chi Lăng là sản xuất nông nghiệp, trồng cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Những vùng triền đồi núi đất, nhân dân các dân tộc còn tận dụng trồng thêm. Diện tích gieo cấy lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp. Huyện Chi Lăng đang tập trung phát triển trồng na và cây na được chú trọng là cây chủ lực của huyện. Cây na đươc trồng chủ yếu ở Thị trấn Chi Lăng, xã Chi Lăng, thị trấn Đồng Mỏ, xã Y Tịch… Trong những năm qua, quả na Chi Lăng được người dân cả nước biết đến và từng bước khẳng định được giá trị cũng như thương hiệu là cây đặc sản của vùng. Về công nghiệp, Ngày 08/10/2014, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1575/QĐ-UBND về việc thành lập Khu công nghiệp Đồng Bành, tỉnh Lạng Sơn. Theo đó, Khu công nghiệp đồng bành có diện tích sử dụng đất gần 322 ha, được xây dựng tại thị trấn Chi Lăng, huyện Chi Lăng. Thuộc Ban Quản lý Khu Kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn. Khu công nghiệp Đồng Bành là Khu công nghiệp được xây dựng tập trung, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ hiện đại, đáp ứng nhu cầu thu hút đầu tư trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Có các ngành nghề sản xuất công nghiệp đa ngành với công nghệ hiện đại, tiên tiến đảm bảo vệ sinh môi trường. Đến nay Chi Lăng đã tiến hành khai thác đá ở xã Mai Sao với công suất vài chục ngàn tấn/năm. Đặc biệt, hiện nay ở Thị trấn Chi Lăng có nhà 11
  18. máy xi măng Đồng Bành giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động ở địa phương. Đây là điều kiện thuận lợi để Chi Lăng phát triển sản xuất công nghiệp vật liệu xây dựng - ngành công nghiệp mũi nhọn của huyện. Hoạt động thương mại và dịch vụ ở Chi Lăng cũng từng bước phát triển. Khu chợ ở thị trấn Đồng Mỏ đã được đầu tư xây dựng khá khang trang là nơi giao lưu thông thương, trao đổi hàng hóa của toàn huyện, khu trưng bày hàng nông sản ở xã Quang Lang cũng là nơi thuận tiện cho việc trưng bày, quảng bá nông sản của huyện, chợ na Đồng Bành ở thị trấn Chi Lăng cũng được đầu tư xây dựng khá quy mô. Hầu hết ở các xã duy trì các chợ phiên góp phần đắc lực vào việc giao lưu thông thương, trao đổi hàng hóa. Chi Lăng được biết đên với nhiều địa danh nổi tiếng như dãy núi Cai Kinh, núi Mặt Quỷ, núi Mã Yên, quỷ Môn quan. Nơi đây còn có đền Chầu Năm, đền Chầu Bát, đền Cô Chín, đền Chầu Mười…hàng năm đón một lượng khách du lịch rất đông đảo khách thập phương đến cúng bái, cầu lộc, cầu tài, cầu mùa màng bội thu, buôn may bán đắt đồng thời góp phần bảo tồn, lưu giữ, phát huy và tôn vinh các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc nước nhà. Hiện nay, ở các xã trong huyện đều có các trường phổ thông cơ sở, các trường tiểu học, các trường mầm non. Đặc biệt toàn huyện có ba trường phổ thông trung học là trường THPT Chi Lăng, trường THPT Đồng Bành, trường THPT Hòa Bình và 1 trung tâm giáo dục nghề, giáo dục thường xuyên. Hàng năm, các trường học phổ thông thường xuyên thu hút hàng nghìn con em các dân tộc trong độ tuổi theo học. “Cùng với sự mở mang hệ thống giáo dục, mạng lưới y tế trong huyện cũng được thiết lập rộng khắp đến các cơ sở xã. Toàn huyện có một bệnh viện đa khoa tập trung được đầu tư xây dựng quy mô, hiện đại và ba phòng khám khu vực luôn sẵn sàng phục vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân các đân tộc trong huyện. Đời sống kinh tế - xã hội đã và đang có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực, nếp sống mới, đời sống mới đã và đang tỏa khắp các làng bản, ngõ xóm và thị trấn quê hương. Trong bước đi đổi mới đất nước, huyện Chi Lăng đã có nhiều đổi thay cơ sở vật chất được nâng lên, trình độ dân trí ngày càng phát triển và được nâng cao. 1.2.3. Đời sống văn hóa và truyền thống lịch sử Chi Lăng mảnh đất có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời. Lịch sử dân tộc đã khắc ghi cuộc kháng chiến 10 năm trường kỳ chống quân Minh xâm lược, 12
  19. với chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang vang dội năm 1427, giành lại độc lập tự chủ cho nước nhà. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của nhiệm vụ cách mạng, căn cứ điều kiện địa lý tự nhiên và cư dân có nhiều đặc điểm phù hợp, từ năm 1964, triểu theo quyết định của Hội đồng Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Ôn Châu và 8 xã phía Đông Nam của huyện Bằng Mạc được hợp nhất thành huyện mới có tên gọi là huyện Chi Lăng cho đến ngày nay. Trong cuốn Lịch Sử Đảng Bộ huyện Chi Lăng có viết về vùng đất Chi Lăng: “Dưới thời Minh Mệnh (Triều đình phong kiến nhà Nguyễn 1819 - 1840), Ôn Châu và Bằng Mạc là 2 trong số các đơn vị hành chính trực thuộc Trùng Khánh. Từ năm1894, sau khi hoàn tất xâm chiếm, sắp xếp bộ máy cai trị ở Lạng Sơn, thực dân Pháp vẫn đặt nguyên trạng địa danh Ôn Châu và Bằng Mạc là hai châu trong tỉnh Lạng Sơn. Trải qua hơn nửa thế kỷ (1894 -1964) trong khuôn khổ của mỗi đơn vị hành chính có các yếu tố đặc trưng kinh tế - xã hội khác nhau. Ôn Châu và Bằng Mạc vẫn là tên gọi rất đỗi thân thương, găn bó mật thiết với bao thế hệ con người lớn lên cùng năm tháng, hun đúc lên truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng quý báu đáng trân trọng .”[ 18, tr.8-9]. Niềm tự hào về truyền thống quê hương, truyền thống cách mạng là dấu ấn tình cảm cao qui, là giá trị văn hóa, là sự lưu giữ lịch sử hơn là ghi nhận riêng rẽ, biệt lập hơn là sự phân chia địa giới hành chính và sự biến thiên của bối cảnh xã hội qua các thời kỳ lịch sử. Cũng chính bởi thế mà các thế hệ con người trong vùng đất này vốn đã có sự giao lưu mật thiết hòa đồng phong tục, cùng chung sống, cùng tồn tại và phát triển. Mỗi khi có giặc ngoại xâm, mọi người trên dải đất kiên cường ấy đều nhất tề đứng lên đánh giặc bảo vệ quê hương. Khi bình yên, núi rừng sông suối hiền hòa reo vui ấm áp tình người vượt đồi, vượt núi để giao lưu, để gắn bó với nhau. Ôn Châu - Bằng Mạc, chợ Đồng Mỏ (Châu lỵ Ôn Châu) hay chợ Vạn Linh (Châu lỵ Bằng Mạc) đều là nơi hội tụ tình nghĩa, hội tụ văn hóa giữa các dân tộc anh em từ bao đời nay và còn truyền lại mãi cho thế hệ mai sau. Người dân Chi Lăng rất đỗi tự hào về mảnh đất quê hương, về những thế hệ ông cha đã không tiếc xương máu, nêu cao tinh thần yêu nước đã ghi danh và để lại truyền thống yêu nước, cách mạng tươi đẹp cho con cháu đời đời noi theo học tập. “Năm 1427, đội binh của người anh hùng Đại Huề đã đóng góp đáng kể cùng quân dân cả nước làm nên chiến công hiển hách của dân tộc chống giặc phương Bắc. 13
  20. Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang lịch sử đã đi qua nhiều thế kỷ song những tên đất, tên làng ở Chi Lăng vẫn như đang lay động âm hưởng của niềm tự hào lớn lao ấy: Làng Đăng, Làng Cóc, Làng Lìu, Ba Đàn, Quán Bầu….”[ 18, tr.13]. Giai đoạn lịch sử từ năm 1883 - 1885, trong cuộc chiến đấu chống sự xâm lấn của thực dân Pháp lên Lạng Sơn, quân ta đã dựa vào thế hiểm yếu của núi rừng Chi Lăng - Hữu Lũng, nghĩa quân Hoàng Đình Kinh đã anh dũng đánh trả, tiêu diệt kẻ thù, làm cho địch bao phen khốn quẫn. Cũng từ đó, dãy núi Cai Kinh lưu truyền nhiều chiến công và khí phách anh hùng của nghĩa quân Hoàng Đình Kinh, mãi mãi là niềm tự hào sống động ngay trên mảnh đất Chi Lăng hào hùng, “Năm Thành Thái thứ 3 (1891 - Triều đình phong kiến nhà Nguyễn), thực dân Pháp tiến hành mở rộng quy mô chiếm lĩnh và thống trị lên mảnh đất Lạng Sơn, với tinh thần yêu nước, không chịu khuất phục giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc ở Bằng Mạc đã dựa vòa thế thuận lợi ở rừng núi, liên tiếp chiến đấu chống trả kẻ thù suốt hơn ba năm ròng rã với muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, làm cho kẻ thù không dễ gì thiết lập chế độ cai trị ở đây.”[ 18, tr.14]. Từ mạch nguồn của truyền thống yêu nước, bước vào thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc. Đặc biệt trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân các dân tộc trên quê hương Chi Lăng lịch sử đã phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, sát cánh với nhân dân các dân tộc trong tỉnh chung sức, chung lòng cùng nhau xây dựng quê hương giàu đẹp Chi Lăng có truyền thống lịch sử rất oai hùng. Trải qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc, vào thế kỷ thứ X, Nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập chính thức được xác lập. Cũng từ đó, tên gọi Chi Lăng, mảnh đất Chi Lăng được nói tới như một tấm cửa lim vững chắc ở cửa ngõ phía bắc của Tổ quốc. Nơi đây có nhiều khu di tích văn hóa lịch sử, thời gian qua, huyện Chi Lăng đã xây dựng phương án phát triển du lịch di tích gắn với sinh thái của vùng. Mảnh đất Chi Lăng là nơi có nhiều điểm di tích lịch sử, đó cũng là điều kiện thuận lợi, là tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa tâm linh của vùng. Chẳng thế mà người du khách thập phương vẫn thường gọi Chi Lăng là “đất Chầu”, bởi lẽ trong huyện có ba ngôi đền là đền Chầu Năm, đền Chầu Bát và đền Chầu Mười rất linh 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2