Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Yếu tố tự truyện trong Sống mòn của Nam Cao
lượt xem 9
download
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu mối quan hệ giữa yếu tố đời tư và tính tự truyện trong văn học nói chung và sự phóng chiếu của cái tôi cá nhân trong quá trình sáng tạo. Chất liệu đời tư của nhà văn thể hiện qua các mối quan hệ với gia đình, xã hội, nghề nghiệp... Phương thức nghệ thuật thể hiện các yếu tố tiểu sử, đời tư của Nam Cao trong tiểu thuyết Sống mòn. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Yếu tố tự truyện trong Sống mòn của Nam Cao
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC –––––––––––––––––––––––– PHẠM THỊ HÀ NINH YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG SỐNG MÒN CỦA NAM CAO LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2017
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC –––––––––––––––––––––––– PHẠM THỊ HÀ NINH YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG SỐNG MÒN CỦA NAM CAO Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP THÁI NGUYÊN - 2017
- i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào khác. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017 Tác giả luận văn
- ii LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, quan tâm, giúp đỡ quý báu của các thầy giáo, cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới: - PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, tạo điều kiện tốt nhất để giúp tôi hoàn thành luận văn. - Ban giám hiệu nhà trường, Phòng Đào tạo và các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên, đặc biệt là các thầy cô giáo trong Khoa Văn - xã hội. - Bạn bè, đồng nghiệp và gia đình luôn quan tâm, chia sẻ, động viên trong suốt thời gian thực hiện luận văn. Tác giả Phạm Thị Hà Ninh
- iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i MỤC LỤC ........................................................................................................ iii MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .............................................................. 10 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 11 5. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 12 6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 12 7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 12 NỘI DUNG..................................................................................................... 13 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỰ TRUYỆN VÀ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT ........................................................... 13 1.1. Khái niệm tự truyện.................................................................................. 13 1.2. Tự truyện trong tiểu thuyết ...................................................................... 17 1.2.1. Vài nét về tiểu thuyết ............................................................................ 17 1.2.2. Tiểu thuyết có yếu tố tự truyện ............................................................. 21 1.3. Sự xuất hiện yếu tố tự truyện trong các sáng tác của Nam Cao .............. 24 * TIỂU KẾT CHƯƠNG 1............................................................................... 32 Chương 2: TIẾNG NÓI CÁI TÔI - BIỂU HIỆN YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG SỐNG MÒN CỦA NAM CAO ................................... 33 2.1. Cái tôi trong đời sống cơm áo hàng ngày ................................................ 33 2.2. Cái tôi trong quan hệ với gia đình ............................................................ 43 2.2.1. Cái tôi trong quan hệ với vợ con ........................................................... 43 2.2.2. Cái tôi trong quan hệ với những người thân trong gia đình.................. 53 2.3. Cái tôi trong quan hệ với những người xung quanh ................................ 59
- iv 2.3.1. Cái tôi trong quan hệ với đồng nghiệp .................................................. 59 2.3.2. Cái tôi trong quan hệ với các nhân vật khác ......................................... 63 2.4. Cái tôi trong quan hệ với chính nó ........................................................... 66 2.4.1. Cái tôi trong nghề nghiệp ...................................................................... 66 2.4.2. Cái tôi với những khát khao, ước vọng thầm kín ................................. 72 * TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................... 76 Chương 3: PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG SỐNG MÒN CỦA NAM CAO ..................................................... 78 3.1. Phương thức trần thuật ............................................................................. 78 3.2. Miêu tả tâm lí nhân vật............................................................................. 82 3.3. Thời gian, không gian nghệ thuật ............................................................ 87 3.3.1. Không gian chật chội, tù túng ............................................................... 87 3.3.2. Thời gian trì trệ và dồn nén ................................................................... 90 3.4. Ngôn ngữ .................................................................................................. 93 * TIỂU KẾT CHƯƠNG 3............................................................................... 97 KẾT LUẬN .................................................................................................... 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101 PHỤ LỤC
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội, việc khẳng định cái tôi cá nhân luôn trở thành khát vọng và nhu cầu của con người. Nếu như trong văn học trung đại Việt Nam, người ta không nói nhiều đến những cảm xúc mang tính riêng tư thì đến văn học hiện đại, cảm xúc cá nhân gần như được giải phóng. Các tác giả đều bày tỏ đời sống nội tâm và những khát khao mang tính chủ thể. Do đặc thù về điều kiện lịch sử văn hóa, thể tự truyện vào những năm 1940 mới xuất hiện với ít tác phẩm như: Những ngày thơ ấu - Nguyên Hồng, Cỏ dại - Tô Hoài, Sống mòn - Nam Cao, Dã tràng - Thiết Can, Sống nhờ - Mạnh Phú Tư… Sự dân chủ xã hội trở thành môi trường đích thực để tự truyện phát triển. Thể tự truyện bắt đầu phát triển mạnh mẽ trong văn học 1930 - 1945 và lắng xuống trong giai đoạn 1945 - 1975. Đến thời kì đổi mới, thể tự truyện lại càng có cơ hội phát triển mạnh. Vì thế, nghiên cứu vấn đề tự truyện trong thực tiễn văn học Việt Nam hiện đại là một vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 1.2. Trong chương trình SGK phổ thông, Nam Cao là tác giả được chọn giảng dạy trong nhà trường. Ông là nhà hiện thực lớn, nhà nhân đạo chủ nghĩa xuất sắc của văn học Việt Nam, có đóng góp quan trọng đối với quá trình hiện đại hóa truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XX. Tính tự truyện trong văn xuôi của Nam Cao thể hiện qua toàn bộ các tác phẩm của ông, đặc biệt qua Sống mòn - cuốn tiểu thuyết kết thúc sự nghiệp viết của Nam Cao trước 1945; cũng là cuốn tiểu thuyết kết tinh trọn vẹn gương mặt hiện đại của văn học Việt Nam - sau 30 năm hình thành và phát triển. Cùng với những sáng tác gần gũi về đề tài, giọng điệu như Trăng sáng, Nước mắt, Đời thừa….thì Sống mòn tập trung toàn bộ suy nghĩ của Nam Cao về người tri thức. Với gần 300 trang tiểu thuyết, tác phẩm đã dựng lên cuộc đời người trí thức nghèo cả bề rộng, bề dài và bề sâu. Cuộc sống của những
- 2 người lao động áo trắng, những vô sản đeo cổ cồn đó cũng toàn một màu xám nhức nhối: Không tối đen mà xam xám nhờ nhờ (Xuân Diệu). Sống mà như lạc ra ngoài dòng đời, quẫy cựa để thoát ra khỏi một vòng quay nghiệt ngã của số phận; nhưng càng quẫy lại càng lún sâu hơn vào bi kịch và bất hạnh. Vì nghèo túng triền miên, vì chết mòn về tinh thần. Giá trị của tác phẩm mang lại một phần là do yếu tố tự truyện chân thực về chính bản thân Nam Cao, về tầng lớp trí thức của ông trong cuộc sống nghèo khổ, bế tắc. Tác phẩm viết ra không chỉ với ngòi bút vuốt ve, thi vị hóa mà còn vạch ra cả những ước vọng thầm kín, thậm chí thói xấu của chính mình. 1.3. Xuất phát từ sự yêu mến, trân trọng nhà văn Nam Cao, từ nhu cầu thực tế để phục vụ cho quá trình giảng dạy THPT, trên cơ sở tri thức về tự truyện, khuynh hướng tự truyện trong văn học, luận văn đi nghiên cứu Yếu tố tự truyện trong Sống mòn của Nam Cao để phát hiện những mới mẻ trong tổ chức tự sự cũng như trong trình hiện cái tôi của nghệ sĩ trong tác phẩm. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Nghiên cứu thể tự truyện ở Việt Nam Tự truyện tuy không chiếm vị trí quan trọng nhất trong loại hình văn xuôi, nhưng là thể loại không thể không kể đến trong hệ thống thể loại văn học hiện đại. Tự truyện ra đời không những làm phong phú bộ mặt văn học mà còn góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Trong quá trình vận động của nền văn học Việt Nam từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại, tính tự truyện đã thể hiện khá rõ trong tác phẩm Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Sơ kính tân trang của Phạm Thái… Tuy nhiên, đó chưa phải là những tác phẩm tự truyện. Đến thời kì văn học cuối XIX, đầu XX,tính tự truyện có dấu hiệu xuất hiện rõ hơn ngay từ tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên: Thầy Lazarô Phiền: của Nguyễn Trọng Quản. Toàn bộ truyện dài 32 trang in, không có một dòng nào là đề tự thuật hay tự truyện
- 3 nhưng nó dường như lại đầy đủ tính cách của một tác phẩm tự truyện. Tác phẩm có hai tầng trần thuật, hai người kể xưng tôi: một là Lazarô Phiền, hai là người đã nghe chuyện của Phiền rồi kể lại cho độc giả. Người đọc đều nhận ra Lazarô Phiền chính là nhân vật của tự truyện bởi Phiền tự kể lại câu chuyện của đời mình, những lầm lỗi trong quá khứ, tâm trạng đau khổ tột cùng của một con chiên sám hối. Tuy nhiên, truyện này cũng chỉ kể về một cái tôi hư cấu, không có bằng chứng nào để chứng tỏ người kể xưng tôi trong truyện là tác giả Nguyễn Trọng Quản. Đến thời kì văn học 1930 - 1945, tự truyện đã có mặt cùng với các thể loại khác, làm nên diện mạo mới cho văn học Việt Nam. Góp phần vào sự thành công của thể loại tự truyện chúng ta không thể không nói tới Phan Bội Châu niên biểu của Phan Bội Châu hay Tản Đà với Giấc mộng lớn. Song đến mãi hơn mười năm sau, khi Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư…xuất hiện, thì sự nhận thức cho rằng tự truyện là một thể loại mới bắt đầu. Vấn đề tự truyện trong văn học được giới phê bình quan tâm, trong đó có thể kể đến các ý kiến đánh giá: Trong bài viết Tự thuật và tiểu thuyết Pháp ở thế kỉ XX của Đặng Thị Hạnh, mặc dù đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết Pháp nhưng những vấn đề như bối cảnh, hành trình đặc điểm của thể loại được đề cập đến trong công trình nghiên cứu này đã giúp cho việc hiểu về tự truyện Việt Nam thêm cụ thể, rõ ràng. Nhà nghiên cứu sau khi mô tả nguồn gốc của việc lấy cái tôi làm đối tượng miêu tả là tinh thần tự thú và hành trình của nó trong văn học Pháp đã nêu định nghĩa về thể loại của P.Lejeune làm cơ sở: Năm 1971, trong cuốn Tự thuật ở Pháp, Philippe Lejeune đã định nghĩa nó như sau: Truyện kể mang tính nhìn lại dĩ vãng, mà một người có thật viết về cuộc sống của mình, khi người đó đặt trọng âm lên đời sống riêng, nhất là lên sự hình thành nhân cách. [13, tr.36]. Tác giả bài viết đã nhấn mạnh, tự truyện tức là kể lại cái tôi cá nhân trong hiện tại, chiêm nghiệm về quá khứ.
- 4 Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân (chủ biên) cho rằng: Tự truyện là tác phẩm tự sự thường được viết bằng văn xuôi trong đó tác giả tự kể và miêu tả cuộc đời của bản thân mình [2, tr.28]. Theo quan niệm này, một tác phẩm tự truyện là bức tranh của cái tôi thuần túy. Tác giả, người kể chuyện và nhân vật chính là một, ngoài ra không có sự xuất hiện của cá nhân khác. Trong bài viết Tự truyện không hẳn là văn học, Triệu Xuân viết: Nó là một thể văn viết ghi lại tư liệu có thật nhằm thuật lại cuộc đời, sự nghiệp của một cá nhân, gia đình, dòng họ. Tự truyện chỉ có thể là văn học khi nó được viết theo cái cách của văn học. Thông qua số phận cá nhân ấy, gia đình ấy, phản ánh và biểu hiện tâm thế của cộng đồng, một dân tộc, một thời đại… Các cuốn như Thép đã tôi thế đấy của N. Ôxtrovski, Bộ ba tác phẩm: Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi của M. Gorki, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Cai của Vũ Bằng là tự truyện chính cống. Điều này giải thích tự truyện có hai phạm vi tồn tại: Tự truyện mang phẩm chất văn học và tự truyện phẩm chất văn học ít hơn (Ví dụ như tự truyện của ca sĩ, cầu thủ bóng đá…). Bởi trên thực tế, tự truyện còn có thể đọc ở nhiều phương diện khác nữa như phương diện tư liệu, phương diện văn hóa, phương diện xã hội… chứ không chỉ cảm nhận bằng mỗi phương diện văn chương. Không cùng quan điểm với tác giả trên, Đoàn Cầm Thi trong bài phỏng vấn Tương lai của tự truyện Việt Nam cho rằng, sự lên ngôi của cái tôi trong đời sống và trong văn học là tiền đề của sự phát triển tự truyện. Những câu chuyện như Cỏ dại, Cát bụi chân ai, Chiều chiều của Tô Hoài, Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào của Phùng Quán, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng có thể gọi là tự sự và tự sự với ý nghĩa chỉ văn học viết về chính mình, là chiếc áo mặc nhờ. Tuy nhiên, chị cũng khẳng định, cuộc sống hàng ngày thay đổi, tự truyện sẽ mọc ra như nấm ở Việt Nam. Hơn thế nữa, tôi tin trong tương lại gần, nó sẽ có những chuyển biến về chất. Đó không chỉ là những tác
- 5 phẩm được viết để thỏa mãn nhu cầu giãi bày uẩn khúc, mà sẽ là cuộc tìm kiếm nghệ thuật đích thực [46]. Đỗ Hải Ninh trong luận án tiến sĩ: Khuynh hướng tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hướng nghiên cứu tự truyện: Vấn đề tự truyện là vấn đề có ý nghĩa đối với văn học đương đại bởi nó gắn với cái tôi của tác giả - sự khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, sự tương tác và dung nạp lẫn nhau giữa các thể loại. Cùng với quá trình đổi mới, yếu tố tự truyện xuất hiện ngày càng nhiều thể hiện nhu cầu được bộc lộ cái tôi, ý thức phản tỉnh và khuynh hướng nhận thức lại thực tại của dòng văn học tự vấn [26]. Có thể coi công trình của Đỗ Hải Ninh là một trong những công trình nghiên cứu sâu và khá toàn diện về tiểu thuyết sử dụng chất liệu tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại. Ngoài ra, còn có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về tự truyện mà trong phạm vi bao quát còn hạn chế của mình, chúng tôi xin được điểm qua như sau: Luận văn Yếu tố tự truyện trong văn xuôi Đoàn Lê của tác giả Bùi Thị Thu đã chỉ ra sự có mặt của yếu tố tự truyện trên các thể loại như: trữ tình, tự sự: Viết những tác phẩm văn học mang yếu tố tự truyện cũng là một cách để tác giả thể hiện cái tôi cá nhân của mình… Có thể thấy, cái tôi bản thể của người viết luôn có nhu cầu được bộc lộ, tìm đến sự đồng cảm, chia sẻ từ độc giả. Ở Việt Nam, yếu tố tự truyện trong văn học tuy phát triển muộn nhưng đã có mầm mống từ rất lâu đời và có mặt trên hầu hết các thể loại [50]. Bùi Thị Mát với Yếu tố tự truyện trong hồi kí và tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng đã trình bày những quan điểm, vấn đề cơ bản xoay quanh vấn đề tự truyện. Không những vậy, luận văn còn đi so sánh những điểm giống và khác nhau giữa yếu tố tự truyện trong hồi kí và tiểu thuyết. Rồi khẳng định cùng với xu hướng của nghệ thuật đương đại, sự thâm
- 6 nhập lẫn nhau giữa các thể loại sáng tác là điều không thể tránh khỏi… Mặt khác, xét từ bản chất của sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà văn khi cầm bút đều xuất phát từ nhu cầu giải phóng tư tưởng và bộc lộ tình cảm của mình. Mỗi trang viết đều là những trải nghiệm của bản thân nhà văn, là hành trình đi tìm cái tôi của cá nhân, tuy nhiên, với mỗi thời đại, mỗi khu vực văn hóa, trong mỗi nền văn học và mỗi nhà văn lại có cách thức thể hiện riêng, mục đích riêng. Do vậy, không cần phải quá cứng nhắc trong việc xác định thể loại, chỉ cần người đọc tìm thấy điều gì có ý nghĩa đối với họ trong tác phẩm mới là đủ [25]. Tác giả Trần Thị Xuân Hợp trong Luận văn Thạc sĩ Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới [19] khai thác yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Khải trên các phương diện cốt truyện, hệ thống nhân vật, giọng điệu, quan điểm trần thuật dựa trên các khái niệm cơ bản về tự truyện. Với những phác thảo trên đây, có thể khẳng định rằng, yếu tố tự truyện trong văn học là một vấn đề đang được giới nghiên cứu phê bình quan tâm, đặc biệt trong xã hội ngày nay, khi mà cái tôi cá nhân luôn được đề cao, khẳng định. Dựa trên những cơ sở lý thuyết về tự truyện, luận văn của chúng tôi sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu một trường hợp cụ thể là yếu tố tự truyện trong Sống mòn của Nam Cao. Không có nhiều tham vọng cung cấp cho người đọc những lý thuyết mới về tự truyện, nhưng chúng tôi hi vọng sẽ giúp người đọc đến gần hơn với nhà văn Nam Cao và tác phẩm Sống mòn của ông. 2.2. Nghiên cứu về tác phẩm Sống mòn - Nam Cao Cho đến thời điểm hiện tại, số lượng các bài viết, các công trình nghiên cứu phê bình và giới thiệu về con người của Nam Cao đã lên đến một con số đáng nể, không thua kém bất kỳ một tên tuổi cùng thời nào như: Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng, Hàn Mặc Tử... Với tiểu thuyết Sống mòn, Nam Cao cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm, đánh giá của giới nghiên cứu, phê bình.
- 7 Nhà nghiên cứu Hà Bình Trị trong bài viết Chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao - sự ý thức về cá nhân có dành một nửa dung lượng để bàn về Sống mòn. Ông cho rằng, trong tác phẩm này, Nam Cao phân biệt sự sống trên hai bình diện. Bình diện thứ nhất: sống chỉ như sự tồn tại sinh học. Bình diện thứ hai: sống với đầy đủ giá trị sự sống, sống đúng với ý nghĩa cuộc sống của con người [51, tr.45]. Ông cũng chỉ rõ nếu cuộc sống chỉ là sự tồn tại thì cuộc sống ấy không khác gì đã chết. Thứ là người ý thức rõ về sự sống mòn của cá nhân nhưng không làm cách nào thoát ra được. Trong bài viết Hai không gian sống trong Sống mòn Đỗ Đức Hiểu đã chỉ ra được sự xung đột giữa không gian xã hội (xó nhà quê và ngoại ô Hà Nội nhem nhuốc) và không gian tinh thần, mơ ước, không gian hồi tưởng, không gian khát vọng [28, tr.488] của nhân vật Thứ. Không gian xã hội chật hẹp tù túng đối lập gay gắt với không gian tinh thần lớn lao của nhân vật. Qua đó, người đọc thấy được những bi kịch tinh thần đau đớn mà tầng lớp trí thức phải gánh chịu. Trong Nam Cao - tiếng cười đầy xót thương cho những kiếp Sống mòn của nhà nghiên cứu Trần Văn Hiếu, tác giả đã đi sâu tìm hiểu tiếng cười Nam Cao trong các truyện ngắn có tính trào phúng giai đoạn 1941 - 1945 và tiểu thuyết Sống mòn. Sau đó, kết luận lại, đối tượng của tiếng cười Nam Cao không phải là bản thân sự sống mòn hay chết mòn mà là sự không cưỡng lại được, không thoát ra được, không vượt lên sự sống mòn, chết mòn kia do ham muốn thèm khát thỏa mãn những dục vọng tầm thường [34, tr.202]. Phong Lê là một tác giả có nhiều năm nghiên cứu về Nam Cao, với bài viết Đọc lại và lại đọc Sống mòn, ông đã nhận thấy: Có lẽ, Nam Cao là người đầu tiên và cũng là người cuối cùng của văn học hiện thực Việt Nam cho ta cảm nhận một cách đầy đủ hơn bất cứ ai cái dư vị nhạt phèo mà thật mặn chát của một sự sống…mòn; cái sống mòn đã trở thành một phát hiện kỳ thú, một biểu trưng cho sự độc đáo trong sáng tạo của Nam Cao [38, tr.488].
- 8 Quản Thị Diệp với luận văn thạc sĩ: Giá trị và vị trí của Sống mòn trong sự nghiệp viết của Nam Cao. Tác giả bài viết phân tích những giá trị về nghệ thuật và nội dung tác phẩm, khẳng định một lần nữa giá trị to lớn của Sống mòn trong sự nghiệp của Nam Cao nói riêng và văn học Việt Nam nói chung [5]. Ngoài ra, còn có rất nhiều những bài viết, bài nghiên cứu, phê bình, tiểu luận khác về tác phẩm Sống mòn. Có thể khẳng định, Sống mòn là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp của Nam Cao. Đã gần 70 năm trôi qua, nhưng Sống mòn vẫn còn nguyên giá trị. Đó là hình ảnh của người trí thức ở một thời kì đã qua nhưng bạn đọc dường như vẫn thấy bản thân mình ngày hôm nay trong tác phẩm. Cuốn tiểu thuyết dài gần 300 trang của Nam Cao vẫn được bạn đọc yêu thích, vẫn được giới phê bình quan tâm và nghiên cứu. Không những vậy, người đọc còn quan tâm tới những tâm sự, trăn trở về cuộc sống, gia đình, nghề nghiệp của tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Đó chính là thành công lớn nhất trong sự nghiệp viết văn của Nam Cao. 2.3. Nghiên cứu về yếu tố tự truyện trong Sống mòn - Nam Cao Nghiên cứu tự truyện là vấn đề còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Đặc biệt, trong xã hội hiện nay, đó là vấn đề mang ý nghĩa khoa học và thực tiến. Yếu tố tự truyện của Nam Cao thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết Sống mòn. Đây là tác phẩm nhận được nhiều sự quan tâm, đánh giá của giới phê bình: Như đã nói, Phong Lê là nhà phê bình có nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao, sau này trong bài viết Đọc lại và lại đọc Sống mòn, ông viết: Sống mòn có phần được hiểu như một tiểu thuyết nội tâm, thậm chí còn hẹp hơn, một kiểu tự truyện của Nam Cao. Vì vậy đọc Sống mòn là để hiểu Nam Cao, hiểu một thế hệ trí thức kiểu Nam Cao và hiểu một thời thanh niên Nam Cao đã sống. Đồng thời cũng như là một cách tự soi lại con người mình, thế hệ mình. Soi lại mà thấy sao những Thứ, San, Đích, Oanh và cả thế giới những người thân kẻ sơ chung quanh họ vẫn cứ là thế giới quen thuộc, dẫu
- 9 thời thế đã đổi khác. Từ đặc điểm ấy mà nhìn, có lẽ Nam Cao là người đầu tiên và cũng là người cuối cùng của văn học hiện thực Việt Nam cho ta cảm nhận được một cách đầy đủ hơn bất cứ ai cái dư vị nhạt phèo mà thật mặn chát của một sự sống mòn; cái sống mòn đã trở thành một phát hiện kì thú, một biểu trưng cho sự độc đáo trong sáng tạo của Nam Cao [32, tr.488]. Viết về tác phẩm Đời thừa nhưng nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung thường xuyên nhắc kèm tới Sống mòn: Một số nhân vật trí thức nghèo của Nam Cao thường là nhà văn, nhà giáo, những nhân vật mà người đọc dễ dàng nhận ra là hình ảnh tác giả... Với Đời thừa (sau đó là Sống mòn, Nam Cao đã đề cập gần như trực diện vấn đề cá nhân, nói lên yêu cầu được khẳng định và phát triển của cá nhân - vấn đề mà lâu nay, người ta tưởng đâu chỉ đặt ra trong văn học lãng mạn đương thời. Tác giả cũng khẳng định, chủ đề cá nhân không có trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan nhưng lại là chủ đề tâm huyết của Nam Cao. Và niềm khao khát được làm đầy trái tim, khao khát được sống mạnh mẽ, sâu sắc, vượt lên trên cái bằng phẳng, tầm thường [34, tr.144]. Nhà phê bình Đỗ Đức Hiểu với Hai không gian sống trong Sống mòn cũng viết: Sống mòn là một quyển tiểu thuyết kiểu tự thuật, khi viết ở ngôi thứ ba, nó như một độc thoại dài, với những dằn vặt day dứt, với những câu hỏi lớn về cuộc sống, gợi đến Sống hay không sống; từ chương này đến chương khác. Thứ, nhân vật trung tâm, khao khát sống cho ra sống, lùi lại, hèn nhát, lại ước mơ hi vọng một cuộc đời có ý nghĩa. Kết thúc hơn hai trăm trang quyển tiểu thuyết nội quan này, là một câu hỏi lớn: Thứ đã làm gì chưa? [34, tr.173]. Cuối cùng, ông kết luận: Tiểu thuyết kiểu tự truyện này gợi người đọc nhớ đến Rútxô, nhà văn Pháp đầu tiên viết tự truyện Tự thú, gợi nhớ đến Gide, nhà văn đa dạng có ảnh hưởng sâu rộng trong văn xuôi Việt Nam 1930 - 1945... Sống mòn gây xáo lộn, gây tình trạng bất ổn trong tâm tư con người, nó hé mở cuộc sống tự do, chân chính của người trí thức [34, tr.181].
- 10 Nói về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm, nhà phê bình Nguyễn Ngọc Thiện với bài Bút pháp tự sự đặc sắc trong Sống mòn có đoạn: Trước cách mạng tháng Tám, một nhà phê bình đồng thời với Nam Cao đã sớm nhận ra ở tác giả mới xuất hiện này một tài năng đích thực, với một bút pháp độc đáo, mới mẻ: Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối riêng, ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới [32, tr.470]. Tác giả chỉ rõ, lối đi riêng, lối văn mới ấy, tức là những tìm tòi nghệ thuật của bút pháp và giọng điệu Nam Cao, phải chăng là cách kể như là tự thú tự vấn và sám hối trước sự tha hóa của tâm hồn khi đối diện trước lương tri, lẽ phải và điều thiện [32, tr.471]. Sự tổng hợp trên cho thấy mỗi công trình có một hướng nghiên cứu, tiếp cận khác nhau. So với những tác phẩm như Giăng sáng, Đời thừa… thì Sống mòn chính là tác phẩm thể hiện trọn vẹn yếu tố tự truyện của Nam Cao. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình nào mang tính quy mô, nghiên cứu chuyên sâu yếu tố tự truyện thể hiện trong Sống mòn mà chỉ là những bài đánh giá mang tính đơn lẻ. Các bài viết, các bài nghiên cứu trên sẽ là nguồn tư liệu quý báu, là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu một cách cụ thể yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao. Với hướng tiếp cận này, hi vọng độc giả sẽ hiểu sâu sắc hơn con người cá nhân của nhà văn, khẳng định lại một lần nữa vị trí của Nam Cao trong nền văn học hiện đại. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao. 3.2. Mục tiêu nghiên cứu - Trên cơ sở lý thuyết tự truyện, luận văn sẽ nhận diện, phân tích yếu tố tự truyện trong Sống mòn, từ đó, khẳng định thể loại tiểu thuyết có yếu tố
- 11 tự truyện là một trong những thành công lớn nhất của tác giả bên cạnh sở trường truyện ngắn. - Khẳng định một lần nữa vị trí và vai trò của Nam Cao trong sự nghiệp văn học Việt Nam, đặc biệt là thể tự truyện, góp phần phong phú nền văn nghệ nước nhà. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu mối quan hệ giữa yếu tố đời tư và tính tự truyện trong văn học nói chung và sự phóng chiếu của cái tôi cá nhân trong quá trình sáng tạo. - Chất liệu đời tư của nhà văn thể hiện qua các mối quan hệ với gia đình, xã hội, nghề nghiệp… - Phương thức nghệ thuật thể hiện các yếu tố tiểu sử, đời tư của Nam Cao trong tiểu thuyết Sống mòn. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn là sự kết hợp của nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó có các phương pháp cơ bản sau: - Phương pháp tiểu sử: Đây là phương pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu văn học nói chung và trong việc nghiên cứu về yếu tố tự truyện nói riêng. Phương pháp tiểu sử giúp người nghiên cứu có sự đối sánh giữa cuộc đời thực của nhà văn với con người nhà văn trong tác phẩm. - Phương pháp xã hội học: giúp người viết tìm hiểu về mối quan hệ của bản thân nhà văn với xã hội thông qua các mối quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp và những người xung quanh. Qua đó, thấy được cách cảm nhận, đánh giá của nhà văn với cuộc đời. - Tiếp cận thi pháp học: Đây là con đường quan trọng để người viết tìm hiểu các phương thức thể hiện yếu tố tự truyện của tác giả như về ngôn ngữ, cách trần thuật, thời gian, không gian nghệ thuật, miêu tả diễn biến tâm lí… - Phương pháp phân tích tác phẩm: đây là phương pháp cơ bản, thường xuyên được sử dụng trong luận văn, góp phần tìm hiểu rõ nét, cụ thể về nội
- 12 dung và nghệ thuật tác phẩm, từ đó nổi bật những luận điểm cơ bản trong Sống mòn. - Phương pháp liên ngành: Vận dụng kiến thức của các ngành khác nhau như lịch sử, xã hội học, tâm lí học, dân tộc học…để cái nhìn nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về yếu tố tự truyện trong tác phẩm. 5. Phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn của một luận văn, bước đầu chúng tôi tìm hiểu yếu tố tự truyện qua tác phẩm Sống mòn - cuốn tiểu thuyết để đời của Nam Cao - viết về chính bản thân và tầng lớp trí thức của mình. Trong quá trình viết, chúng tôi có đi so sánh với các tác giả khác với mong muốn đánh giá sâu sắc và toàn diện hơn yếu tố tự truyện trong Sống mòn của Nam Cao. 6. Đóng góp của luận văn Với đề tài Yếu tố tự truyện trong Sống mòn của Nam Cao, luận văn đã tổng hợp tìm hiểu một cách khá sâu sắc về con người cá nhân, nhân vật văn học và hình tượng tác giả trong tác phẩm Sống mòn. Bên cạnh đó, qua việc tìm hiểu phương thức thể hiện yếu tố tự truyện trong tác phẩm của Nam Cao, luận văn góp phần khẳng định đóng góp xuất sắc của nhà văn trong việc phát triển một loại hình văn học mới là tự truyện. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỰ TRUYỆN VÀ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT Chương 2: TIẾNG NÓI CÁI TÔI - BIỂU HIỆN YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG SỐNG MÒN CỦA NAM CAO Chương 3: PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN YẾU TỐ TỰ TRUYỆN TRONG SỐNG MÒN CỦA NAM CAO
- 13 NỘI DUNG Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỰ TRUYỆN VÀ TỰ TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT 1.1.Khái niệm tự truyện Thuật ngữ tự truyện trong tiếng Pháp viết là Autobiographie, được tạo ra từ ba gốc từ Hi Lạp: autos nghĩa là chính mình, bios nghĩa là cuộc đời, graphein nghĩa là viết. Tự truyện hay cái nhìn về bản thân, có thể coi là một đặc sản của văn minh phương Tây. Nó có hai nguồn gốc chính: từ nền văn minh Hi Lạp qua câu ngạn ngữ nổi tiếng connais - toi toi - même (ý nói kẻ thông thái phải biết về cá nhân mình), và từ truyền thống Thiên chúa giáo qua lệ tự vấn lương tâm. Trong các nền văn hóa khác, nó chỉ tồn tại một cách hiếm hoi, thậm chí bị cấm, như trong các nước theo đạo Hồi. Ngay tại châu Âu, ý muốn kể lại đời mình cũng không phải dễ Chấp nhận. Pascal - triết gia thế kỷ XVII, tuyên bố: Cái tôi thật đáng ghét [25, tr.12]. Vì vậy, tự truyện chỉ thực sự xuất hiện ở thế kỷ ánh sáng, vào buổi sơ khai của dòng văn học lãng mạn, khi chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh. Trên thế giới, tác phẩm Những lời tự thú của Jean Jacques Rousseau được coi là tác phẩm tự sự đầu tiên. Trong tác phẩm Lịch sử tính dục (Historie de la sexualité), Michel Foucault cho rằng nếu trong xã hội phong kiến, người ta cấm nói chuyện tình dục công khai thì trong phòng xưng tội của nhà thờ Thiên Chúa giáo, con chiên được phép nói chuyện tình dục thoải mái trước mặt Đức cha. Văn học thế kỉ XVIII và XIX đã biến lời thú tội thầm kín đó là lời thú tội công khai [8, tr.78]. Những định nghĩa sau này của các từ điển, của các nhà nghiên cứu, xác định truyện kể hồi cố bằng văn xuôi do một con người có thực kể về cuộc sống của chính mình, khi người đó nhấn mạnh vào tầm quan trọng của đời sống cá nhân, đặc biệt vào lịch sử hình thành nhân cách mình, chính là căn
- 14 cứ vào tác phẩm của Rousseau. Xuất phát từ đó mà có rất nhiều cách hiểu về thể loại tự truyện. Tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học viết: Tự truyện là tác phẩm văn học thuộc thể loại tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình… [12, tr.389]. Đồng quan điểm, tác giả Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cũng cho rằng: Tác phẩm tự truyện thường có thiên hướng lí giải cuộc sống đã qua (của tác giả) như một chỉnh thể, tạo ra những đường nét mạch lạc cho cuộc sống kinh nghiệm của mình. Người viết tự truyện có khi cũng vận dụng hư cấu, thêm thắt hoặc sắp xếp lại các chi tiết của cuộc đời mình, nhằm làm cho sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp lý, nhất quán. Tự truyện luôn là hành vi khắc phục cái thời gian đã lùi xa, là mưu toan quay về thời tuổi thơ, tuổi trẻ, làm sống lại những đoạn đời quan trọng nhất, nhiều kỷ niệm nhất, như là sống lại cuộc đời mình từ đầu. Tự truyện do vậy thường được viết vào thời tác giả đã trưởng thành, đã trải qua phần lớn các chặng đường đời [2, tr.29]. Theo Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên viết: Tự truyện thường là những câu chuyện viết bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của chính tác giả... Theo Lơjon, bởi vì, về quá khứ, kỷ niệm bị xóa mờ với thời gian, vì tư duy khi viết về tự truyện đã trải qua biết bao cảnh đời, và vì các sự kiện được sắp xếp, bố cục lại, suy ngẫm lại, nên khó mà trùng hợp với sự thật... Tự truyện không phải là một tập hợp những kỷ niệm tản mạn, mà được bố trí như một truyện, một tiểu thuyết…[14, tr.1905-1906]. Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia thì Tự truyện là những tác phẩm văn học thuộc thể loại tự sự, thường được viết bằng văn xuôi trong đó tác giả tự kể lại và miêu tả cuộc đời mình trong tác phẩm. Như vậy, theo quan điểm của các tác giả nói trên thì tự truyện được coi là một thể loại văn học trong đó tác giả tự kể về cuộc đời mình. Tác phẩm tự truyện thường có thiên hướng lí giải cuộc sống đã qua của tác giả như một
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 670 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 667 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 303 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 229 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 248 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 240 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 168 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 166 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 155 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 155 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 122 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn