intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, Văn học và Văn hóa Việt Nam: Câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

20
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan; qua đó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc nghiên cứu, dạy học tiếng Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, Văn học và Văn hóa Việt Nam: Câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––– ĐẶNG THỊ NGỌC LINH CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ TRONG “TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC” CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ PHÁP, NGỮ DỤNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2020
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––– ĐẶNG THỊ NGỌC LINH CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ TRONG “TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC” CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ PHÁP, NGỮ DỤNG Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 8.22.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Lộc THÁI NGUYÊN - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ là công trình nghiên cứu của bản thân. Các kết quả, số liệu trình bày trong luận văn là đúng sự thật, nguồn gốc rõ ràng. Thái Nguyên, ngày 01 tháng 06 năm 2020 Tác giả Đặng Thị Ngọc Linh i
  4. LỜI CÁM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trong bộ môn Ngôn ngữ Việt Nam,Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã dành thời gian góp ý giúp tôi hoàn thiện luận văn của mình. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người đã tận tình chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện luận văn. Xin cảm ơn gia đình, các học viên cùng lớp Ngôn ngữ Việt Nam và đã tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tôi trong ngày tháng học tập và nghiên cứu. Xin cảm ơn các nhà khoa học trong và ngoài trường; các đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong công việc để hoàn thành luận văn này. Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng năng lực bản thân còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô, các nhà khoa học và đồng nghiệp. Thái Nguyên, ngày 01 tháng 6 năm 2020 Học viên Đặng Thị Ngọc Linh ii
  5. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan ........................................................................................................ i Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii Mục lục ............................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2 5. Dự kiến đóng góp của đề tài ............................................................................ 3 6. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................... 3 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................................................ 4 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 4 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu ..................................................................... 4 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu không đầy đủ .............................................. 9 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan .................. 12 1.2. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 16 1.2.1. Một số vấn đề khái quát về câu ............................................................... 16 1.2.2. Câu không đầy đủ .................................................................................... 24 1.2.3. Vài nét về Nguyễn Công Hoan và “Truyện ngắn chọn lọc” ................... 29 1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 33 Chƣơng 2: CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP .............. 34 2.1. Nhận xét chung ........................................................................................... 34 2.2. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược ................................... 36 2.2.1. Xác định câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược ................. 36 iii
  6. 2.2.2. Vấn đề phân biệt câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược với câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu ............................................ 38 2.2.4. Các kiểu câu tỉnh lược ............................................................................. 40 2.2.5. Vấn đề khôi phục lại thành phần bị tỉnh lược ......................................... 52 2.3. Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu .................................... 57 2.3.1. Câu không đầy đủ vốn là vị ngữ được tách ra thành câu ........................ 57 2.3.2. Câu không đầy đủ vốn là trạng ngữ được tách ra .................................... 59 2.3.3. Câu không đầy đủ vốn là vế câu được tách ra ......................................... 60 2.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 61 Chƣơng 3: CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG .................................................................................................... 63 3.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 63 3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa ................................................... 63 3.2.1. Tính không đầy đủ hay tính phụ thuộc về ngữ nghĩa của câu không đầy đủ 63 3.2.2. Các kiểu câu tỉnh lược nghĩa ở câu không đầy đủ................................... 65 3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng (giao tiếp, ngữ pháp giao tiếp) ... 70 3.3.1. Cấu trúc thông tin của câu không đầy đủ ................................................ 71 3.3.2. Cấu trúc đề thuyết của câu không đầy đủ ................................................ 75 3.3.3. Câu không đầy đủ xét theo mục đích thông báo ..................................... 79 3.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 84 KẾT LUẬN....................................................................................................... 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 87 iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Câu không đầy đủ là câu có sự lược bỏ hoặc thiếu vắng một hay một số thành phần bắt buộc trong câu. 1.2. Trong các loại văn bản, đặc biệt là trong văn bản nghệ thuật, câu không đầy đủ được dùng khá phổ biến. Do có những nét đặc sắc về cấu tạo và ý nghĩa mà từ lâu, câu không đầy đủ đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. 1.3. Trong số các tác giả văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn hiện thực có những đóng góp xuất sắc trong đó có những đóng góp về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm của ông đã được giảng dạy trong các trường đại học cũng như trường phổ thông. Do đó, việc nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan về nội dung và nghệ thuật, trong đó có cách dùng từ đặt câu, không chỉ làm rõ những đóng góp của tác giả vào nền văn học nước nhà mà còn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc nghiên cứu, dạy học tác phẩm của ông trong nhà trường. 1.4. Đến nay, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về câu không đầy đủ từ nhiều góc độ khác nhau nhưng riêng việc nghiên cứu về câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng hầu như chưa được chú ý. 1.5. Theo chúng tôi, việc nghiên cứu câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn. Về lý luận, việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan về các mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng; qua đó, góp phần bổ sung một số khía cạnh lý thuyết về câu nói chung, câu không đầy đủ nói riêng với tư cách là đơn vị đa bình diện theo cách nhìn của ngữ pháp chức năng. 1
  8. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài này cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích, cần thiết đối với việc nghiên cứu và dạy học về ngữ pháp nói riêng, về ngữ văn nói chung. 1.6. Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: Câu không đầy đủ trong “ Truyện ngắn chọn lọc”của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ trong “ Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan; qua đó, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc nghiên cứu, dạy học tiếng Việt. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác lập cơ sở lí luận của đề tài. - Thống kê, phân loại câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan. - Miêu tả, làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đặc điểm của câu không đầy đủ trong “Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan về các mặt: ngữ pháp (kết học), nghĩa học và dụng học. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là phương pháp miêu tả với các thủ pháp phù hợp như : thống kê, phân loại, phân tích ngữ pháp, ngữ nghĩa, mô hình hóa, lược bỏ, thay thế, bổ sung. 2
  9. 5. Dự kiến đóng góp của đề tài - Về lí luận : Qua việc miêu tả làm rõ đặc điểm của câu không đầy đủ trong “ Truyện ngắn chọn lọc” của Nguyễn Công Hoan xét về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng; đề tài góp phần bổ sung một số khía cạnh lí thuyết về câu nói chung, câu không đầy đủ nói riêng trong tiếng Việt theo quan điểm ngữ pháp chức năng (trên cứ liệu một tác phẩm văn học của một tác giả cụ thể). - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc dạy học tiếng Việt và dạy học văn học trong nhà trường. 6. Cấu trúc của đề tài Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.2. Cơ sở lí luận 1.3. Tiểu kết CHƢƠNG 2. CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ PHÁP 2.1. Dẫn nhập 2.2. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng thủ pháp lƣợc bỏ 2.3. Câu không đầy đủ đƣợc tạo ra bằng thủ pháp tách câu 2.4. Tiểu kết CHƢƠNG 3. CÂU KHÔNG ĐẦY ĐỦ XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG 3.1. Dẫn nhập 3.2. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ nghĩa 3.3. Câu không đầy đủ xét về mặt ngữ dụng 3.4. Tiểu kết KẾT LUẬN 3
  10. Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về câu 1.1.1.1. Các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu về cú pháp Vấn đề này đã được Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến tổng kết trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [20]. Dựa vào ý kiến của các tác giả trong công trình này, có thể nêu tóm tắt các khuynh hướng chính trong nghiên cứu câu tiếng Việt về cú pháp như sau: 1) Khuynh hướng truyền thống a) Các tác giả chính và nội dung Theo Nguyễn Văn Lộc, trong việc phân tích câu về mặt cú pháp, khuynh hướng truyền thống luôn giữ vai trò chủ đạo với những công trình tiêu biểu của các tác giả như Hoàng Tuệ [49], Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê [6], Nguyễn Kim Thản [32],[33],[34],[35] I.X. Bưxtrov, Nguyễn Tài Cẩn [4], N.V. Stankevich [17], Hoàng Trọng Phiến [22], Diệp Quang Ban [1],[2] . Nét chung đồng thời cũng là nét cơ bản của cách phân tích câu truyền thống là thừa nhận chủ ngữ, vị ngữ là hai thành phần chính (nòng cốt) của câu và ngoài hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ, câu còn có các thành phần phụ như trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ... Cách phân tích câu theo quan niệm trên đây có tính phổ biến nhất không chỉ trong Việt ngữ học mà cả trong ngôn ngữ học nước ngoài. b) Đánh giá - Về ưu điểm: Cách phân tích câu theo truyền thống đã phản ánh tương đối đầy đủ và trung thực tổ chức cú pháp của câu. Nó đã đưa ra được một bức tranh về thành phần câu tương đối phù hợp với cảm nhận của người bản ngữ. Về mặt thực tiễn, hệ thống khái niệm ngữ pháp nói chung và hệ thống thành phần câu nói riêng của ngữ pháp học truyền thống đã giúp cho người học nắm 4
  11. được một cách khá thuận lợi tổ chức ngữ pháp của câu và có thể vận dụng có hiệu quả trong nói, viết. Sự tồn tại lâu dài và tính ổn định tương đối của hệ thống khái niệm ngữ pháp truyền thống chứng tỏ giá trị lí luận và thực tiễn to lớn của nó. - Về hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm trên đây, cách phân tích câu theo truyền thống cũng còn những hạn chế nhất định như N.I. Tjapkina đã nhận xét: "Trong khuôn khổ của quan niệm truyền thống, việc miêu tả một cách không mâu thuẫn hệ thống thành phần câu vẫn chưa đạt được; hơn nữa, vẫn chưa có được cả phương pháp cho phép định nghĩa một cách không mâu thuẫn thành phần câu như là thể thống nhất của hình thức và nội dung của nó" (Dẫn theo [20,194]). Những hạn chế của khuynh hướng truyền thống khiến nhiều tác giả đã cố gắng tìm tòi, đề xuất những cách phân tích mới. 2) Một số công trình theo hướng tìm tòi mới a) Cách phân tích câu theo quan điểm ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo Trong những hướng tìm tòi mới, cách phân tích câu theo quan điểm ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo là một trong những hướng đáng chú ý. Ảnh hưởng tư tưởng của Ch.L. Li và S.A. Thompson về tính thiên chủ đề của một số ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt, trong công trình Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp chức năng (1991), Cao Xuân Hạo không thừa nhận cấu trúc chủ vị là cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Theo ông, cấu trúc cú pháp cơ bản và duy nhất của câu tiếng Việt là cấu trúc đề thuyết. Công trình trên đây của Cao Xuân Hạo được coi là sự mở đầu cho một hướng mới trong nghiên cứu câu tiếng Việt: hướng nghiên cứu câu theo bình diện giao tiếp (cú pháp giao tiếp, thông báo, ngữ dụng) mà trước đó còn ít được chú ý. Tuy nhiên, theo Nguyễn Văn Lộc, cách phân tích, phân loại câu theo đề thuyết mà Cao Xuân Hạo chủ trương không loại trừ và thay thế cách phân tích câu theo bình diện cú pháp như một số tác giả đã chỉ ra [10, 15]. 5
  12. b) Cách phân tích câu theo đề- thuyết của Hồ Lê Cũng chủ trương phân tích câu theo đề- thuyết, Hồ Lê dựa vào các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trực tiếp tạo nên cấu trúc câu để phân loại câu. Theo ông, ngoài câu một thành phần hay câu gọi tên (thí dụ: Mùa xuân.), các câu hai thành phần đều có cấu tạo đề thuyết và bao gồm bốn kiểu: - Câu chủ -vị (chủ ngữ - vị ngữ) Ví dụ: Ông Ba đi họp. - Câu đề - ứng (đề ngữ - ứng ngữ) Ví dụ: Quyển sách này, ông Ba mới mua. - Câu cách thức - hành động (thức ngữ - hành động ngữ) Ví dụ: Một cách chậm rãi, ông Ba bắt đầu kể chuyện. - Câu điều kiện - hệ quả (điều kiện ngữ - hệ quả ngữ) Ví dụ: Nhờ gia đình chăm sóc tốt nên ông Ba chóng bình phục. (Dẫn theo [20, 194-195]) Theo nhận xét của Nguyễn Văn Lộc, đề xuất trên đây của Hồ Lê chưa thật sự xuất phát từ bản chất cú pháp của câu và thành phần câu (từ ý nghĩa cú pháp và hình thức cú pháp tương ứng) và chính điều đó không cho phép phân biệt các biến thể khác nhau của một kiểu câu. Ví dụ: Ông Ba mới mua quyển sách này. → Quyển sách này, ông Ba mới mua. [ 20,195]. c) Cách phân tích câu của Trần Ngọc Thêm Trong giải pháp của Trần Ngọc Thêm, mặc dù, cặp đề - thuyết cũng được sử dụng để phân tích câu nhưng khác với các tác giả khác, ông vẫn sử dụng các khái niệm truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ. Tác giả cho rằng cặp chủ đề - thuật đề (cặp đề - thuyết) không đồng nhất với cặp chủ ngữ - vị ngữ cũng như cặp nêu - báo (cái đã biết - cái mới) [40, 48 - 49]. Về cách phân tích này, Nguyễn Văn Lộc đã nhận xét: với việc đưa các khái niệm đề - thuyết vào việc phân tích câu mà vẫn giữ lại các khái niệm 6
  13. truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ..., cách phân tích của Trần Ngọc Thêm đã gợi mở một hướng nghiên cứu phù hợp, theo đó, cấu trúc của câu như là đơn vị đa bình diện có thể được xem xét đồng thời theo các bình diện khác nhau, nghĩa là việc phân tích câu theo đề - thuyết không loại trừ cách phân tích câu theo cấu trúc chủ vị. [20,195]. d) Cách phân tích câu của V.S.Panfilov (coi vị ngữ là đỉnh của câu) V.S. Panfilov là tác giả có cách nhìn nhận có nhiều điểm khác với cách nhìn nhận truyền thống. Xem xét vấn đề thành phần câu dựa vào "những khái niệm xuất phát về cú pháp"được xác định, V.S. Panfilov quan niệm "thành phần câu là phạm trù chức năng, đó là yếu tố có quan hệ hình thái - ngữ nghĩa với vị ngữ hoặc với toàn bộ câu" [23,75]. Theo quan niệm này, hệ thống thành phần câu được V.S. Panfilov xác định gồm các thành phần tiêu biểu như chủ ngữ, bổ ngữ, định ngữ của vị ngữ và trạng ngữ. Vị ngữ mặc dù được coi là đỉnh cú pháp của câu nhưng không được xếp vào số các thành phần câu. Theo Nguyễn Văn Lộc, quan niệm trên đây của V.S. Panfilov thể hiện cách nhìn sâu sắc đối với vấn đề cú pháp nói chung, vấn đề thành phần câu nói riêng. [20,195-196]. Năm 2004, với công trình Thành phần câu tiếng Việt, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp đã đưa ra giải pháp mới mẻ nhằm giải quyết triệt để hơn vấn đề thành phần câu tiếng Việt [40, 122]. Công trình này được coi là một dấu mốc quan trọng trong việc giải quyết vấn đề thành phần câu tiếng Việt. Tuy nhiên, theo Nguyễn Văn Lộc, cách xác định, phân tích thành phần câu thiên hẳn về mặt hình thức của các tác giả, xét về mặt lí thuyết cũng như khả năng vận dụng vào thực tiễn phân tích cú pháp, cũng còn những hạn chế nhất định như Tomita Kenji đã nhận xét trong lời giới thiệu về công trình này [20,196]. 3) Lí thuyết kết trị và vấn đề phân tích câu về cú pháp theo kết trị của từ a) Vài nét về lí thuyết kết trị Lí thuyết kết trị của L. Tesnière và cách vận dụng vào phân tích câu đã được trình bày cụ thể trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh Tiến (2017). Có thể nêu tóm tắt vấn đề này như sau: 7
  14. Theo L. Tesnière, kết trị của động từ chính là thuộc tính hay khả năng của động từ thu hút vào mình một số lượng nhất định các diễn tố (chủ ngữ, bổ ngữ) cũng tương tự như khả năng của nguyên tử kết hợp với một số lượng xác định các nguyên tử khác. Có thể coi cách hiểu kết trị của động từ như trên đây của L. Tesnière là cách hiểu hẹp về kết trị. Dựa vào số lượng diễn tố mà động từ chi phối, L.Tesnière chia động từ thành động từ không diễn tố hay động từ vô trị (verb avalent, ví dụ : mưa, nắng, sáng, tối): , động từ một diễn tố hay động từ đơn trị (verb monovalent, ví dụ: đi, chạy, nhảy, bơi… ), động từ hai diễn tố hay động từ song trị (verb divalent, ví dụ: ăn, đọc, viết, đánh…), động từ ba diễn tố hay động từ tam trị (verb trivalent, ví dụ: trao, tặng, mời, khuyên…) (dẫn theo Nguyễn Văn Lộc, [20,199]) b) Các công trình vận dụng lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu về cú pháp b1) Trong ngôn ngữ học nước ngoài Theo Nguyễn Văn Lộc, sau khi ra đời, lí thuyết kết trị đã nhanh chóng được phổ biến và được áp dụng rộng rãi vào việc phân tích ngữ pháp nói chung, câu nói riêng. Những tư tưởng, khái niệm, thuật ngữ của lí thuyết kết trị xuất hiện phổ biến trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng như: M.D. Stepanova (1973), O.I. Moskanskaja (1974), G. Helbig (1978), A.A. Kholodovich (1979), N.I. Tjapkina (1980), S.M. Kibardina (1982), A.M. Mukhin (1987), S.D. Kasnelson (1988)... [20,200]. Trong các tác giả trên đây, S.D. Kanelson là người đã có những kiến giải sâu sắc về vấn đề vận lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu. Theo ông, thuộc tính kết trị của vị từ là cơ sở để xác định các thành phần câu như chủ thể, đối thể, hoàn cảnh (chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ). Đề cập đến cách xác định chủ thể (chủ ngữ), S.D. Kanelson quan niệm "chủ thể (chủ ngữ) của câu đó hoặc là tham tố (argument) duy nhất của vị từ một vị trí hoặc là một trong số các tham tố của vị từ nhiều vị trí thường biểu hiện chức năng chủ đề." (Dẫn theo [20, 200]). Nguyễn Văn 8
  15. Lộc cho rằng ý kiến trên đây của S.D. Kanelson là những gợi dẫn hết sức bổ ích khi xác định chủ ngữ, bổ ngữ [20, 201]). b2) Trong Việt ngữ học Trong Việt ngữ học, lí thuyết kết trị và cách vận dụng lí thuyết này vào việc nghiên cứu ngữ pháp nói chung, câu nói riêng đã được đề cập đến trong các công trình của Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Quy, Đinh Văn Đức, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Hiệp, Lâm Quang Đông và một số tác giả khác. Tuy nhiên, ở hầu hết các tác giả này, lí thuyết kết trị và việc vận dụng vào phân tích ngữ pháp chủ yếu được đề cập khi xem xét, miêu tả vị từ hoặc mặt ngữ nghĩa (nghĩa biểu hiện) của câu. (Dẫn theo [20,202]). Chỉ đến công trình của Nguyễn Mạnh Tiến (2016, Phân tích câu về cú pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ [46]), vấn đề vận dụng lí thuyết kết trị vào việc phân tích câu về cú pháp mới thực sự được đặt ra và được xem xét một cách có hệ thống và chuyên sâu. Tài liệu này cũng là một trong những cơ sở được dựa vào để triển khai một số nội dung quan trọng luận văn cụ thể là vấn đề xác định thành phần chính của câu (vị ngữ) và thành phụ của câu (chủ ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ). 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về câu không đầy đủ Vấn đề câu không đầy đủ đã được đề cập đến trong một số công trình của các tác giả nước ngoài và trong nước. Dưới đây tôi, xin nêu tóm tắt một số quan niệm về vấn đề này. 1) Các quan niệm về câu không đầy đủ a) Quạn niệm của L.Blum phin Vấn đề phân chia câu bình thường thành câu đầy đủ (câu trọn vẹn) và câu không đầy đủ (câu tỉnh lược) đã được đề cập đến từ lâu trong các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung, về ngữ pháp nói riêng. L.Blum phin, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Mỹ cho rằng: "Có lẽ trong tất cả các ngôn ngữ, câu đều được chia thành hai kiểu cơ bản có thể gọi là câu đầy đủ và câu 9
  16. không đầy đủ (câu tỉnh lược)" (Dẫn theo [20,427]). Theo ông, câu đầy đủ là câu có hình thức được ưa thích nhất, có tính thông dụng nhất, còn câu không đầy đủ là những câu không có hình thức bình thường thông dụng nhất của câu (Dẫn theo [20,427]). b) Quan niệm của S.E.Jakhontov S.E. Jakhontov, một nhà ngôn ngữ học người Nga, khi bàn về nguyên tắc xác định thành phần câu trong tiếng Hán, đã đưa ra sự phân biệt câu trọn vẹn (câu đầy đủ) và câu không trọn vẹn (câu không đầy đủ). Theo tác giả, câu không trọn vẹn là câu: - Chỉ có thể hiểu đúng trong ngữ cảnh cụ thể. - Có thể biến nó thành câu không phụ thuộc vào ngữ cảnh bằng cách bổ sung cho nó một hay một số từ. Tất cả những câu còn lại đều được coi là câu trọn vẹn (Dẫn theo [20,427]). Theo đánh giá của Nguyễn Văn Lộc, cách xác định câu trọn vẹn thông qua câu không trọn vẹn của S.E. Jakhontov như trên đây được coi là có tính khoa học, chặt chẽ và được nhiều tác giả tán thành, vận dụng. Đây cũng là quan niệm mà tác giả luận văn tiếp thu khi xác định khái niệm câu không đầy đủ. c) Quan niệm của Diệp Quang Ban Diệp Quang Ban không sử dụng thuật ngữ câu không đầy đủ khi đề cập đến những câu thiếu vắng một hay một số thành phần bắt buộc (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ). Tác giả phân biệt hai loại câu: câu tỉnh lược và câu dưới bậc. Sự khác nhau giữa hai loại câu này là ở chỗ: - Ở câu tỉnh lược, thành phần bị lược bỏ có thể khôi phục lại được. Ví dụ: “Của đáng mười Nhu chỉ bán được năm. Có khi Ø chẳng lấy được đồng nào.” (Nam Cao). Trong câu vừa dẫn, thành phần bị lược bỏ là chủ ngữ (Nhu) có thể khôi phục lại được. - Ở câu dưới bậc yếu tố vắng mặt không thể khôi phụ lại một cách bình thường. Ví dụ: “Huấn đi về trạm máy kéo. Một mình, trong đêm.” (Nguyễn 10
  17. Thị Ngọc Tú). Câu vừa dẫn (in đậm) được coi là câu dưới bậc. Theo Diệp Quang Ban, ở câu này không thể khôi phục lại các thành phần bắt buộc vắng mặt. [1, 278-279] d) Quan niệm của Trần Ngọc Thêm Ở Trần Ngọc Thêm, câu không đầy đủ được đề cập với tên gọi là ngữ trực thuộc. Theo tác giả, ngữ trực thuộc là những phát ngôn (câu) không hoàn chỉnh về cấu trúc, tức là thiếu vắng một hay một số thành phần bắt buộc (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ) [40, 47]. Về thực chất, ngữ trực thuộc theo cách hiểu của Trần Ngọc Thêm là những câu tỉnh lược thành phần bắt buộc. Như vậy, ở Trần Ngọc Thêm, câu không đầy đủ có thể hiểu là những câu tỉnh lược thành phần bắt buộc. đ) Cách xác định câu không đầy đủ của Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến Dựa vào cách xác định của S.E. Jakhontov, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Mạnh Tiến, đã xác định khái niệm câu đầy đủ, câu không đầy đủ một cách đơn giản, trực tiếp. Các tác giả cho rằng có thể hiểu câu đầy đủ là câu không có hiện tượng tỉnh lược (thiếu vắng) thành phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi ngữ cảnh của câu. Ngữ cảnh của câu nói ở đây được hiểu bao gồm: văn cảnh ngoài câu (được hiểu là những câu (hay phần văn bản) ở trước và sau câu được xét) và hoàn cảnh, tình huống nói năng (gồm hình thức, tính chất, mục đích giao tiếp, đặc điểm của chủ thể, đối thể giao tiếp). Phù hợp với cách hiểu vừa nêu về câu đầy đủ, câu không đầy đủ được hiểu là câu có sự tỉnh lược (thiếu vắng) thành phần bắt buộc nào đó bị quy định bởi ngữ cảnh của câu. [20,427- 428]. 2) Về cách phân loại câu không đầy đủ Trong các công trình về ngữ pháp, câu không đầy đủ thường được phân loại theo hai cách: theo phương thức cấu tạo và theo thành phần bị lược bỏ. - Theo phương thức cấu tạo, cấu không đầy đủ được chia thành: + Câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược. Ví dụ: “Tiếng hát ngừng. Cả tiếng cười Ø.” (Nam Cao) Câu in đậm là câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tỉnh lược (lược vị ngữ). 11
  18. + Câu được tạo ra bằng phép tách câu. Ví dụ: “Tôi đứng dậy. Dưới trời mưa.” (Nguyễn Huy Tưởng). Câu in đậm là câu không đầy đủ được tạo ra bằng phép tách câu (tách trạng ngữ) - Theo thành phần bị tỉnh lược, câu không đầy đủ được chia thành: + Câu tỉnh lược chủ ngữ. Ví dụ: “Tôi tìm dấu vết nạn lụt. Ø Vẫn còn.” (Phan Tứ) + Câu tỉnh lược vị ngữ. Ví dụ: “Khang nghĩ đến Hà Nội, ánh sáng của nhà hát lớn, sân khấu người xem. Tôi, Ø đến vợ con." (Nam Cao) + Câu tỉnh lược bổ ngữ. Ví dụ: “Ấy khẽ chứ cậu, để nó ngủ. Tôi vừa mới đặt Ø xong." (Thạch Lam) + Câu tỉnh lược cả chủ ngữ lẫn bổ ngữ. Ví dụ: “Thật cậu Phúc ác quá. Ø Đã không cho Ø thì thôi lại còn thả chó ra đuổi Ø.” (Thạch Lam) + Câu tỉnh lược cả chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ. Ví dụ: “Đó là tiếng cười, tiếng hát. Có lẽ Ø Ø Ø của dân làng.” (Tô Hoài) + Câu tỉnh lược định ngữ của danh từ chỉ bộ phận bất khả li. Ví dụ: “Hai mắt ông trợn ngược. Hai má Ø phình to. Cái đầu Ø lúc lắc.” (Nam Cao) 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan Nguyễn Công Hoan là một bậc thầy truyện ngắn của văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như một "bách khoa thư”, một "tấn trò đời” mà đặc trưng là xã hội thực dân phong kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Qua các sáng tác của mình, Nguyễn Công Hoan đã chứng tỏ là bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Các tác phẩm của ông có sức hấp dẫn lớn, đã thu hút được rất nhiều các nhà nghiên cứu mà tiêu biểu là: Lê Thị Đức Hạnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung, Vương Trí Nhàn, Trương Chính, Nguyễn Đức Đàn, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Khắc Thuần, Trúc Hà, Thiếu Sơn, Hải Triều… Trong công trình Khảo sát cấu trúc câu văn truyện ngắn Nguyễn Công Hoan Nguyễn Khắc Thuần đã nhận xét: "Nguyễn Công Hoan đã sử dụng hầu hết các loại kiểu dạng cấu trúc câu trong tiếng Việt… Nguyễn Công Hoan sử 12
  19. dụng tài tình, linh hoạt, có hiệu quả loại câu ngắn, đặc biệt là những câu có từ năm chữ trở xuống. Lúc thì tác giả dùng liên tiếp tạo thành đoạn văn; lúc thì dùng độc lập ở đầu, ở giữa, hoặc cuối truyện; lúc thì phối hợp với câu dài ở trong cùng một đoạn văn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc đến mức trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, số lượng câu dài và câu ngắn tương đương nhau nhưng khi đọc truyện ngắn của ông, người đọc có cảm giác như trong truyện ngắn của ông, câu ngắn được dùng nhiều hơn câu dài. Chính câu ngắn đã tạo nên nét khác lạ về câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan so với tác giả khác”[41, 57-85]. Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh cũng đã dành nhiều tâm huyết cho truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Nhận xét về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan, tác giả đã khẳng định: "Văn Nguyễn Công Hoan khá gọn gàng, sáng sủa, thiết thực, linh hoạt. Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của quần chúng được chọn lọc và nâng cao, đậm hương vị ca dao, tục ngữ…chữ dùng của ông thường giản dị, giàu hình ảnh cụ thể hay so sánh ví von” [11, 201-202]. Theo tác giả:"Nguyễn Công Hoan luôn giữ cho lời văn, ngôn ngữ trong truyện trong sáng, chính xác, mang bản sắc của văn hóa dân tộc” [11,208]. Tác giả còn chỉ ra tính chất cá thể hóa sâu sắc trong ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Công Hoan: "Ngôn ngữ các loại nhân vật trong truyện của Nguyễn Công Hoan cũng mang sắc thái riêng, bộc lộ được tâm lí xã hội của từng nhân vật, trộn cũng không lẫn” [11,117]. Ngoài ra, Lê Thị Đức Hạnh còn so sánh văn phong của Nguyễn Công Hoan với văn phong của các nhà văn hiện thực phê phán khác với nhiều nhận xét chính xác và tinh tế về sự tương đồng, đặc biệt là khác biệt. Nghiên cứu chất hài trong câu văn Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thanh Tú nhận xét: "Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là thứ ngôn ngữ suồng sã. (…) Trong nội bộ câu văn của Nguyễn Công Hoan thường mang mâu thuẫn hài hước đối chọi ở bên trong. (…) Nhà văn có những lối ví von so sánh, độc đáo, những liên tưởng bất ngờ, thú vị. (…) Câu văn Nguyễn Công Hoan thường 13
  20. ngắn gọn (…) có sự tuân thủ phép lặp cú pháp vì mục đích nghệ thuật gia tăng sắc thái hài hước” [27, 209-215]. Trong bài "Lời văn mỉa mai trong Đồng hào có ma”, tác giả đã chỉ rõ tài sử dụng ngôn ngữ “suồng sã” để "lật ngửa”, "lộn trái” đối tượng nhằm mục đích mỉa mai, phê phán đối tượng. Bên cạnh các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan kể trên đây còn có loạt công trình là luận văn, luận án nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan từ các góc độ, bình diện khác nhau. Có thể kể đến một số công trình sau đây. Lò Thị Duyên trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm ngôn ngữ của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, đã nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật, đối thoại và độc thoại về các mặt từ vựng, cú pháp, các biện pháp tu từ. Tác giả cho rằng ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ trào phúng, châm biếm với sự tinh tế, lão luyện. Luận văn thạc sĩ "Phương tiện tu từ nói mỉa trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan” (Nguyễn Thị Hương Lan, 2000) đã đề cập đến các dạng thức nói mỉa trên nhiều cấp độ văn bản: cấp độ từ ngữ trong câu, cấp độ đoạn văn, cấp độ văn bản… qua đó, chỉ ra những đóng góp quan trọng của Nguyễn Công Hoan vào nghệ thuật trào phúng. Nguyễn Thanh Hương trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm tình huống đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2001) đã đề cập đến ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan gắn với tình huống giao tiếp cụ thể của cuộc thoại dựa trên lí thuyết ngữ dụng học và phong cách học. Lê Ngọc Hòa trong luận văn thạc sĩ Đặc điểm cách xưng hô của các vai giao tiếp trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2006) đã khảo sát lớp từ xưng hô trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, qua đó, chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ và đặc trưng văn hóa - xã hội. Hoàng Minh Hải với đề tài Các phương thức và đặc điểm gây cười qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan (2008) đã vận dụng lý 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2