intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn học và Văn hoá Việt Nam: Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

32
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bố cục của luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai thành 3 chương: Chương 1 - Lý thuyết phê bình sinh thái và hành trình sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng; Chương 2 - Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, loài vật trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc; Chương 3 - Nghệ thuật tự sự trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn học và Văn hoá Việt Nam: Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––– LÊ THỊ HUYỀN CHANG ĐẶC SẮC VĂN XUÔI MA VĂN KHÁNG QUA MÈO CON NGHỊCH NGỢM VÀ CHÓ BI ĐỜI LƯU LẠC, DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––––– LÊ THỊ HUYỀN CHANG ĐẶC SẮC VĂN XUÔI MA VĂN KHÁNG QUA MÈO CON NGHỊCH NGỢM VÀ CHÓ BI ĐỜI LƯU LẠC, DƯỚI GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện THÁI NGUYÊN - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung trình bày trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Lê Thị Huyền Chang i
  4. LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện về sự hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách nhiệm của thầy trong toàn bộ quá trình em hoàn thành luận văn. Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luận văn này. Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 04 năm 2018 Tác giả luận văn Lê Thị Huyền Chang ii
  5. MỤC LỤC Lời cam đoan ........................................................................................................ i Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii Mục lục ............................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................ 2 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................ 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 6 5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 7 6. Dự kiến đóng góp của luận văn .................................................................... 7 7. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 8 NỘI DUNG ......................................................................................................... 9 Chương 1: LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG .......................................... 9 1.1. Một số vấn đề lý thuyết phê bình sinh thái ............................................... 9 1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái .............................................................. 9 1.1.2. Phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại ........................ 14 1.1.3. Dấu hiệu để nhận biết tác phẩm dưới góc nhìn phê bình sinh thái ... 16 1.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng ................................................. 17 1.2.1. Đời văn Ma Văn Kháng .................................................................... 17 1.2.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng ........................................... 19 1.2.3. Quan niệm của Ma Văn Kháng về văn chương nghệ thuật .............. 22 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 28 Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VỚI THIÊN NHIÊN, LOÀI VẬT TRONG MÈO CON NGHỊCH NGỢM VÀ CHÓ BI ĐỜI LƯU LẠC ......................................................................................................... 29 2.1. Tính ẩn dụ trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc......... 29 iii
  6. 2.2. Loài vật - thành phần của tự nhiên trong mối quan hệ cộng sinh khác biệt với con người ........................................................................................... 32 2.3. Các vấn đề nội dung viết về loài vật trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc .......................................................................................... 38 2.3.1. Khát vọng đồng hóa và hòa hợp trong mối quan hệ con người ........ 38 2.3.2. Ý nghĩa nhân đạo trong quan hệ giữa con người và loài vật ............ 42 2.3.3. Loài vật và con người trong quan hệ nhân quả ................................. 46 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 54 Chương 3: NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG MÈO CON NGHỊCH NGỢM VÀ CHÓ BI ĐỜI LƯU LẠC ............................................................ 56 3.1. Điểm nhìn trần thuật ................................................................................ 56 3.1.1. Khái niệm về điểm nhìn trần thuật .................................................... 56 3.1.2. Điểm nhìn bên ngoài ......................................................................... 58 3.1.3. Điểm nhìn bên trong .......................................................................... 61 3.1.4. Cái nhìn về loài vật (Nhìn bằng điểm nhìn người kể chuyện, nhân vật trong truyện, luân phiên điểm nhìn) ...................................................... 63 3.2. Ngôn ngữ kể chuyện ................................................................................ 68 3.2.1. Khái niệm về “Ngôn ngữ loài vật” .................................................... 68 3.2.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc ....................................................................................... 69 3.3. Nghệ thuật miêu tả loài vật...................................................................... 71 3.4. Giọng điệu trần thuật ............................................................................... 88 3.4.1. Khái niệm về giọng điệu trần thuật ................................................... 88 3.4.2. Giọng điệu thương cảm ..................................................................... 90 3.4.3. Giọng điệu phê phán ......................................................................... 90 3.4.4. Giọng điệu trữ tình, triết lý................................................................ 92 Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 94 KẾT LUẬN....................................................................................................... 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 98 iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một trong những cây bút có công mở đường cho sự nghiệp đổi mới văn học. Hơn nửa thế kỷ cầm bút với lòng say mê sáng tạo, từ truyện ngắn đầu tay Phố cụt (1961) đến nay, ông đã có một sự nghiệp văn gồm hơn tám nghìn trang in, hơn 200 truyện ngắn, 20 tiểu thuyết, 1 hồi ký tự truyện, 2 tập bút ký - tiểu luận phê bình. 1.2. Ma Văn Kháng xuất hiện trên văn đàn với nhiều mảng sáng tác như hồi ký tự truyện, tập bút ký – tiểu luận phê bình đặc biệt thành công lớn nhất của ông là ở hai mảng thể loại sáng tác đó là truyện ngắn và tiểu thuyết. Ở mảng truyện ngắn, chúng ta có thể thấy rõ được ngòi bút khá là điêu luyện về nghề nghiệp và đã đem lại nhiều vinh quang cho nhà văn ngay từ buổi đầu khởi nghiệp như truyện ngắn Xa phủ đạt giải nhì trong cuộc viết thi truyện ngắn 1967 – 1968 của Báo Văn nghệ. Không chỉ có như vậy, trong mảng tiểu thuyết Ma Văn Kháng cũng đạt được rất nhiều giải thưởng cao như Giải thưởng Văn học Công nhân lần thứ 3 năm 1984 cho tiểu thuyết Mưa mùa hạ; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 cho tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn... Bằng tài năng của mình, Ma Văn Kháng đã đóng góp rất nhiều khía cạnh mới cho truyện ngắn cũng như là tiểu thuyết từ cách chọn đề tài, cách dựng truyện. Song đặc điểm cơ bản cốt lõi nhất trong sáng tác của Ma Văn Kháng là ông thường đề cập đến các vấn đề sinh thái, về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nhà văn còn đem đến cho độc giả một góc nhìn khá là mới mẻ và độc đáo đó chính là cách ứng xử của con ngưới với thiên nhiên. Như vậy, một lần nữa chúng ta càng thấy rõ được vị thế của nhà văn Ma Văn Kháng trong nền văn học Việt Nam đương đại. 1.3. Phê bình sinh thái là một lý thuyết mới đã được giới nghiên cứu trên thế giới quan tâm và ứng dụng vào nghiên cứu văn học. Gần đây, lý thuyết này cũng bắt đầu được ứng dụng trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam và đã có 1
  8. những thành tựu khả quan. Đây là một hướng nghiên cứu mới có nhiều triển vọng, cho thấy mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, đặc biệt là cách ứng xử của con người với thế giới tự nhiên và ngược lại. Điều này cũng được thể hiện rõ trong bối cảnh xã hội hiện nay, trước nhu cầu nóng bỏng của nhân loại về cải thiện môi trường sinh thái, khát vọng về mối giao hòa vĩnh cửu giữa con người và thiên nhiên. Chính vì bởi những lý do trên mà chúng tôi lựa chọn đề tài “Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái” làm đối tượng nghiên cứu của mình. Hi vọng, công trình hoàn thành sẽ góp phần khẳng định những đóng góp mới mẻ của nhà văn Ma Văn Kháng cho dòng văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời qua đó cũng cho thấy hiệu quả của một hướng tiếp cận mới mẻ trong văn học. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ma Văn Kháng là một nhà văn lớn có những đóng góp đáng kể vào công cuộc đổi mới của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Với 50 năm cầm bút, nhà văn Ma Văn Kháng là một trong những người từng trải nghiệm qua nhiều thăng trầm của cuộc đời và lịch sử dân tộc. Thành tựu của Ma Văn Kháng kết tinh ở cả 2 thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Vì thế, đã có nhiều công trình nghiên cứu, phê bình và nhận xét về tiểu thuyết và truyện ngắn của ông. Trong công trình nghiên cứu “Truyện ngắn Ma Văn Kháng và vấn đề thức tỉnh tinh thần con người vùng cao”, Đào Thủy Nguyên có viết: “Tác giả đi sâu vào nghiên cứu khẳng định một cách thuyết phục những vấn đề nhân sinh, thế sự, những thành công đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn viết về đề tài dân tộc và miền núi của Ma Văn Kháng” [40]. Tác giả Nguyễn Nguyên Thanh trong bài viết “Ngày đẹp trời-tính dự báo về những tình thế xã hội” (Báo Văn nghệ số 21 ngày 23/5/1987) khẳng định: “Ma Văn Kháng đã khám phá cuộc sống từ những bình diện khác nhau, ông lách sâu hơn vào ngõ ngách đời sống tinh thần, tìm ra những nguyên nhân và quy luật khắc nghiệt của tồn tại xã hội” [48]. Như vậy, có thể thấy Ma Văn 2
  9. Kháng là một nhà văn rất tâm huyết khi dùng ngòi bút của mình để phản ánh lên cuộc sống đời thực. Lã Thị Bắc Lý đã viết cuốn Chó Bi đời lưu lạc (1994), cuốn sách tạo nên sự kì thú cho văn học thiếu nhi bởi sức hút tự thân của nó. Trong cuốn sách này đã có hai câu chuyện: Một câu chuyện cho trẻ em và một câu chuyện cho người lớn, trẻ em có thể thấy ở đây những sự kỳ thú say mê và người lớn đọc được ở đây những điều đáng phải suy nghĩ. Tác giả quan niệm viết cho thiếu nhi, không thể chấp nhận được sự dễ dãi, sự vội vàng. Nó phải là một quá trình ấp ủ, phải có sự chắt lọc, phải qua sự nhào luyện, biến hóa một cách vật vã mới có thể ra được chế phẩm. PGS. TS Lã Nguyên với bài viết: “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn” (1998) được in trong lời giới thiệu cuốn Truyện ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng, đã có cái nhìn tổng quát truyện ngắn của Ma Văn Kháng. Dựa vào sắc điệu cảm hứng thẩm mỹ, tác giả chia truyện ngắn Ma Văn Kháng thành ba nhóm: Nhóm thứ nhất những tác phẩm chủ yếu về đề tài miền núi “những truyện ngắn thể hiện cái nhức nhối, xót xa, giận mà thương cho sự hoang dã mông muội của những kẻ chưa thành người và những người không được làm người”. Nhóm thứ hai chủ yếu là những truyện ngắn viết về đời sống thành thị trước sự đổi thay của đất nước sau chiến thắng 1975 “những truyện ngắn cất lên tiếng nói cảm khái thâm trầm trước thế sự hôm nay”. Nhóm thứ ba gắn với đề tài tính dục “những truyện ngắn thể hiện cảm hứng trào lộng trang nghiêm trước vẻ đẹp của cuộc đời sinh hoá hồn nhiên”. Tác giả cũng chỉ ra một số đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng: tính công khai bộc lộ chủ đề, sự cố ý tô đậm chân dung, tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt truyện, đưa thành ngữ, tục ngữ vào ngôn ngữ nhân vật… Cũng trong bài viết này, tác giả đã đưa ra nhận xét: “Ma Văn Kháng là nhà văn của cái đẹp trong dòng đời sinh hóa bình dị, hồn nhiên, cái đẹp trong niềm hạnh phúc được làm người với ý nghĩa đích thực của nó chứ không phải là cái gì khác, Ma Văn Kháng đã cất lên tiếng nói riêng” [39]. 3
  10. PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết “Con người giữa dòng xoáy ham muốn đời thường” đã khẳng định: “Văn xuôi Ma Văn Kháng đang ở đỉnh cao của phong độ đã hướng ngòi bút chú mục đào sâu, soi lật cặn kẽ, nghiêm ngặt vào một khía cạnh hiện diện như một thực thể khó nắm bắt trong đời sống con người hiện đại hôm nay. Đó là sự thúc đẩy, chi phối nhiều khi với một sức mạnh vô hình, nhưng khắc nghiệt của những ham muốn tiềm ẩn nơi mỗi con người, hoặc là sự xung đột, va chạm gay gắt về lợi ích giữa những dục vọng của những cá thể khác nhau”. Đồng thời, trong bài biết này tác giả cũng đưa ra nhận xét về thế giới nhân vật trong văn xuôi Ma Văn Kháng: “Trong cái nhìn con người, ông không lý tưởng hóa, tô vẽ nó nhân danh những tín điều cao siêu. Ông đặt con người vào đúng chỗ đứng của nó trên trần thế, vào giữa xã hội nhân quần bao bọc lấy nó, và qua ham muốn, ông lần tìm động cơ, lẽ sống của mỗi con người” [54, tr.269-270]. Ngoài ra còn kể đến nhiều công trình, bài báo tập trung nghiên cứu khám phá đề cập đến một số phương diện khía cạnh truyện ngắn Ma Văn Kháng như: - Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Tác giả Đỗ Phương Thảo, Chuyên luận, Nxb Văn học, 2008. - “Phong cách văn xuôi miền núi của Ma Văn Kháng”, Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (số 175) tháng 8/2009. - “Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng”, Nguyễn Ngọc Thiện, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (số 186) tháng 7/2010. - “Những người đàn bà của nhà văn Ma Văn Kháng”, Hoài Nam, Văn nghệ Công an, (số 279), 2016. Bên cạnh đó, chúng tôi lưu ý một số luận văn, đề tài nghiên cứu tiêu biểu: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng của Nguyễn Thị Thanh Nga (2007); Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới của Nguyễn Hải Yến (2010); Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới của Nguyễn Thị Hồng Thắm (2013)… Nghiên cứu về văn xuôi Ma Văn Kháng từ góc nhìn phê bình sinh thái cho đến nay còn ít công trình đề cập đến một cách hệ thống và chuyên biệt. Tuy 4
  11. nhiên, những vấn đề liên quan về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thế giới loài vật dưới góc nhìn sinh thái học đã được các tác giả ít nhiều quan tâm đến trong các bài viết, luận văn, luận án, công trình, ý kiến của việc vận dụng lý thuyết phê bình sinh thái khảo sát thực tiễn của văn học Việt Nam: Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa (2014) của Nguyễn Đăng Điệp. Trong bài viết này tác giả đã vận dụng lí thuyết sinh thái để phân tích biểu tượng vườn trong thơ mới. Tuy nhiên, cũng như tác giả thú nhận, đó là “những vén mở bước đầu”. Nguyễn Ngọc Thiện (2015), Văn chương, nghệ thuật và thẩm mỹ tiếp nhận. Trong cuốn sách này tác giả tập hợp các bài phỏng vấn, nghiên cứu phê bình trước nay về nhà văn Ma Văn Kháng, với một số danh tác thuộc truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi ký, bút ký - tiểu luận của ông. Công trình Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 - 2000, Nguyễn Văn Kha nhìn nhận sự thay đổi về quan niệm về con người trong sự gắn bó với đất đai, hài hòa với thiên nhiên xứ sở. Phạm Tuấn Anh - Luận án Tiến sĩ Đổi mới khuynh hướng thẩm mĩ trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 đề cập đến một khía cạnh đổi mới của văn xuôi là việc nhìn nhận con người trong mối quan hệ với tự nhiên. Trịnh Thùy Dương - Luận văn thạc sĩ Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái. Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh với công trình Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái. Gần đây nhất, có thể kể đến Luận văn thạc sĩ Đặc sắc trong truyện ngắn về loài vật của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn phê bình sinh thái của Đào Thị Hồng Phượng. Có thể nói, dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên của các tác giả như Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Kha, Phạm Tuấn Anh… Nhưng mỗi bài viết lại là một cách nhìn, một cách cảm nhận, một quan điểm và một suy nghĩ riêng. Ở một góc độ tổng quát, chúng tôi đã nhận thấy, chủ yếu các tác giả tiếp nhận Ma Văn Kháng trên một bình diện chung là: Đón nhận và tôn vinh. Tuy nhiên, hiện nay vẫn ít có công trình 5
  12. nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên biệt về mối quan hệ, ứng xử, tương tác giữa con người với tự nhiên trong văn xuôi của Ma Văn Kháng. Dựa trên những ý kiến bàn luận và các kết quả đã nghiên cứu về Ma Văn Kháng, chúng tôi nhận thấy vẫn còn một khoảng trống cần phải lấp đầy để làm hoàn chỉnh hơn bức tranh toàn cảnh về văn xuôi của ông. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Triển khai đề tài “Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái”, nhằm mục đích: Làm sáng tỏ các khái niệm lý luận liên quan về phê bình sinh thái và thực tế nghiên cứu văn học từ góc độ phê bình sinh thái ở Việt Nam. Đồng thời nhận diện quá trình sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng, từ đó: - Làm rõ đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong các truyện ngắn và tiểu thuyết về loài vật của Ma Văn Kháng. - Sự độc đáo của bút pháp tự sự và phong cách Ma Văn Kháng trong truyện ngắn và tiểu thuyết viết về loài vật, giúp cho việc giảng dạy ở nhà trường những tác phẩm về loài vật được sâu sắc hơn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Khảo sát Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Chúng tôi mong rằng sẽ: - Góp thêm tiếng nói mới về thế giới loài vật trong các sáng tác của ông, cũng như có cái nhìn toàn vẹn hơn về quá trình vận động tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. - Góp phần khẳng định bút pháp, phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng và sự đóng góp của ông trên văn đàn văn học Việt Nam thời kì đổi mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Thiên nhiên, thế giới loài vật trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. 6
  13. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Ma Văn Kháng là một cây bút văn xuôi đã khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn cũng như trong lòng công chúng yêu văn chương. Cho nên trong phạm vi luận văn này, chúng tôi tập trung khảo sát 17 truyện ngắn của Ma Văn Kháng in trong cuốn Mèo con nghịch ngợm (Nhà xuất bản Hồng Đức - 334 trang - năm 2016); cuốn tiểu thuyết Chó Bi đời lưu lạc (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội - 300 trang - năm 1999) của Ma Văn Kháng và những truyện ngắn lẻ khác về loài vật: Bà cụ Cần và bầy chim sẻ... 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu nhằm phù hợp với đối tượng và mục đích nghiên cứu như: - Phương pháp phê bình sinh thái học và thi pháp học - Phương pháp nghiên cứu về tác giả - Phương pháp khái quát, phân tích, tổng hợp, liên ngành - Phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê - Phương pháp phân loại Vấn đề lý thuyết sinh thái học có liên quan đến một số lĩnh vực khoa học khác như sinh học, văn hóa…Vì vậy, chính sự vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học giúp chúng tôi soi sáng và làm rõ các phương diện, khía cạnh của vấn đề lý thuyết phê bình sinh thái và ứng dụng vào nghiên cứu truyện ngắn và tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. 6. Dự kiến đóng góp của luận văn Luận văn này tập trung tìm hiểu: Đặc sắc văn xuôi Ma Văn Kháng qua Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc, dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Do đó, kết quả nghiên cứu của luận văn bước đầu sẽ chỉ ra được sự hòa kết độc đáo giữa văn chương và sinh thái trong sáng tác của Ma Văn Kháng, cũng như góp phần cho thấy sự phong phú, đa dạng trong cá tính sáng tạo của một tác giả văn học Việt Nam đương đại và thấy rõ được giá trị nhân văn của hai tập truyện trên. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa cung cấp phương pháp luận và kiến thức văn học cần thiết cho việc tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy ở 7
  14. trường phổ thông. Đồng thời, đây cũng là một cách tiếp cận mới cho các tác phẩm văn học, mở ra hướng đánh giá giá trị nhân văn của văn học từ góc nhìn phê bình sinh thái. Hơn thế nữa, kết quả nghiên cứu này cũng là một tiếng chuông cảnh tỉnh đánh thức cách ứng xử bình đẳng của con người với môi trường trong xã hội hiện nay. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai thành 3 chương: + Chương 1: Lý thuyết phê bình sinh thái và hành trình sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng. + Chương 2: Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, loài vật trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc. + Chương 3: Nghệ thuật tự sự trong Mèo con nghịch ngợm và Chó Bi đời lưu lạc. 8
  15. NỘI DUNG Chương 1 LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG 1.1. Một số vấn đề lý thuyết phê bình sinh thái 1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latin là nhà ở, nơi cư trú, bất kì một sinh vật sống nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, được ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật học người Đức Ernst Haecker đưa ra. Có thể coi ông là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học sinh thái, nghiên cứu về mối tương quan của động vật với các thành phần môi trường vô sinh. Phê bình sinh thái manh nha vào những năm 70 của thế kỉ XX. Năm 1974, học giả người Mỹ Joseph W. Meeker cho xuất bản cuốn chuyên luận Sinh thái học của văn học. Cụm từ “sinh thái văn học” lần đầu tiên được nhắc đến để chỉ mối quan hệ ảnh hưởng của văn học đối với hành vi nhân loại và môi trường tự nhiên. Năm 1978, Wiliam Rueckert trên tạp chí Bình luận Iowa (số mùa đông) có bài “Văn học và sinh thái học: Một phác thảo thử nghiệm phê bình sinh thái học”, lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Phê bình sinh thái” với ý nghĩa “kết hợp văn học và sinh thái học”. Nhà phê bình cho rằng cần phải có cái nhìn về sinh thái học và phải xây dựng được một hệ thống thi pháp học sinh thái. Trải qua hơn trăm năm phát triển, sinh thái học đã có rất nhiều định nghĩa cho nên phần lớn các giới phê bình văn học vẫn chưa biết thực chất phê bình sinh thái học là gì. Chính vì lẽ đó nên đến năm 1994, trong hội văn học miền tây Blanche và Sean O Grady đã tổ chức hội nghị bàn tròn gồm khoảng 20 học giả để giới thiệu khái niệm “Phê bình sinh thái”. Tháng 6 năm 1995, ASLE lần đầu tiên tổ chức hội thảo khoa học tại trường đại học Colorado, hội nghị đã nhận được hơn 200 báo cáo. Mọi người 9
  16. thường coi đại hội lần này của ASLE là một tiêu chí đánh dấu sự hình thành của khuynh hướng phê bình sinh thái. Năm 1996, tuyển tập Phê bình sinh thái do Cheryll Glolfelty và Harold From chủ biên được xuất bản. Cuốn sách này đã được công nhận là tài liệu nhập môn của phê bình sinh thái. Cuốn sách này đã được chia ra làm ba phần: Phần thứ nhất là phần thảo luận sinh thái học và lý luận văn học sinh thái, phần thứ hai là phê bình sinh thái của văn học, phần thứ 3 là phê bình của văn học sinh thái. Năm 1998, tại Luân Đôn, tuyển tập: Phê bình sinh thái và văn học do nhà phê bình người Anh R.Kerridge và N.Sammells chủ biên được xuất bản. Có thể xem đây là một bộ tuyển tập phê bình sinh thái đầu tiên ở Anh. Trong cuốn sách này gồm 15 chương và cũng phân định rõ thành ba phần đó là Lý luận phê bình sinh thái, Lịch sử phê bình sinh thái và Văn học sinh thái đương đại. Trong lời mở đầu cuốn sách R. Kerridge viết: Phê bình sinh thái là “một môn phê bình văn hóa chủ nghĩa môi trường mới”. “Phê bình sinh thái cần bàn luận về biểu hiện của môi trường và quan niệm môi trường trong văn học” [13, tr.1]. Năm 2000 cũng là năm phát triển mạnh của phê bình sinh thái, trong khoảng thời gian này đã xuất hiện những chuyên luận và hàng loạt các tuyển tập quan trọng. Tháng 6 năm 2000 tại đại học Cork tiến hành hội thảo khoa học quốc tế đa ngành với chủ đề “Giá trị của môi trường”. Tháng 10 năm đó, tại đại học Danjiang Đài Loan đã tổ chức hội thảo quốc tế phê bình sinh thái với chủ đề “Diễn ngôn sinh thái”. Trong hội nghị, giáo sư Gifford đại học Leeds nước Anh đã kêu gọi học giả các nước: “Đem phê bình sinh thái vào trong giảng đường đại học” [13]. Năm 2000, trong những chuyên luận phê bình sinh thái tiêu biểu được xuất bản có chuyên luận Lĩnh vực rộng lớn của nghiên cứu văn học hướng về tự nhiên của giáo sư Murphy, cuốn sách bàn về văn học sinh thái, trong đó gồm tiểu thuyết, văn xuôi phi tiểu thuyết và thơ ca. Chuyên luận Chủ nghĩa môi trường trong văn học Mĩ của Meisel bàn luận về lí luận phê bình sinh thái và môi trường, phong cảnh, hoang dã…và Bài ca của trái đất của Bate… Khác 10
  17. với trước tác của 9 năm về trước, trong bộ chuyên luận về phê bình sinh thái này, Bate mở rộng góc nhìn phê bình từ văn học chủ nghĩa lãng mạn, từ cổ đại Hi La đến toàn bộ văn học phương Tây thế kỉ XX, hơn nữa còn đi sâu bình luận về lí luận phê bình sinh thái. Giáo sư Kupe đại học Manchester chủ biên cuốn Văn bản nghiên cứu xanh: từ chủ nghĩa lãng mạn đến phê bình sinh thái do nhà xuất bản nổi tiếng Routledge xuất bản. Không giống với các học giả Mĩ, học giả Anh ngay thời kì đầu đã nghiêng hơn về “nghiên cứu xanh” chứ không phải “phê bình sinh thái”. Cuốn sách này chia làm 3 phần: “truyền thống xanh”, “lí luận xanh” và “đọc hiểu xanh”. Cũng năm 2000 tập hợp các báo cáo tại đại hội lần thứ 2 của ASLE được xuất bản với tiêu đề Đọc dưới sự chỉ đường của tự nhiên: tuyển tập mới về phê bình sinh thái. Như chúng ta đã biết, tư tưởng cốt lõi của phê bình sinh thái là lấy môi trường tự nhiên làm trung tâm thay vì con người trong phê bình văn học, nhấn mạnh sinh mệnh tự nhiên, đạo đức sinh thái. Ý thức sinh thái được thể hiện rõ trong các sáng tác văn chương vĩ đại của Mĩ Latin như Trăm năm cô đơn, Tình yêu thời thổ tả (G.G.Marquez), Con quỷ chơi đùa ở miền đất hoang (G.Rosa), Vương quốc trần gian, Thế kỉ ánh sáng (A.Carpentier)… và được các nhà văn ý thức một cách có hệ thống cũng như hoàn toàn tự giác trong quan niệm sáng tạo văn chương. Bước sang thế kỉ XXI, phê bình sinh thái phát triển sâu rộng hơn. Năm 2001, Buell cho xuất bản cuốn Viết vì thế giới đang lâm nguy: Văn học, văn hóa, môi trường nước Mỹ và các quốc gia khác. Có thể thấy, phê bình sinh thái với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học được hình thành ở Mỹ vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX, tiếp đó xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới. Trong số khá nhiều giới thuyết về thuật ngữ “phê bình sinh thái” thì cách hiểu của nhà phê bình sinh thái Mỹ - Cheryll Glotfelty được cho là ngắn gọn nhất: “Phê bình sinh thái là phê bình bàn về mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên”. Karl Kroeber lại cho rằng: “Phê bình sinh thái không phải đem phương pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hoặc phương pháp 11
  18. nghiên cứu của bất kỳ khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích văn học. Nó chỉ dẫn nhập quan điểm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học mà thôi” [14, tr.9]. Với tư cách là khuynh hướng phê bình văn hóa văn học, phê bình sinh thái có nhiệm vụ chủ yếu mang giá trị đặc thù và đặc trưng bản thể luận của nó, nghĩa là thông qua văn học để thẩm định lại văn hóa nhân loại, tiến hành nghiên cứu - phê phán những tư tưởng, văn hóa, mô hình phát triển xã hội của loài người làm ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của nhân loại đối với tự nhiên, dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường và nguy cơ sinh thái. Jonathan Levin đã chỉ ra: “Tất cả phương diện văn hóa xã hội của chúng ta cùng quyết định phương thức độc nhất vô nhị sinh tồn của chúng ta trên thế giới này. Không nghiên cứu những điều này, chúng ta không thể nhận thức sâu sắc quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Vì thế, ngoài nghiên cứu văn học biểu hiện tự nhiên như thế nào, chúng ta tất yếu còn phải dùng rất nhiều tinh lực để phân tích tất cả các nhân tố văn hóa xã hội quyết định thái độ đối với con người, đối với tự nhiên và hành vi tồn tại trong môi trường tự nhiên, đồng thời kết hợp những phân tích này với nghiên cứu văn học” [14, tr.15]. Nhìn chung phê bình sinh thái đã được khá nhiều tác giả trên thế giới quan tâm và trở thành một xu hướng nghiên cứu văn học có tính chất liên ngành và có hiệu quả nhất định. Trong xu hướng nghiên cứu này, chủ yếu là các tác giả quan tâm tới mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên, đặc biệt là thông qua đó muốn cảnh báo về tình trạng lâm nguy của môi trường tự nhiên trong mối quan hệ với con người qua những tác động ngược chiều và thuận chiều. Hiểu một cách đơn giản, phê bình sinh thái nghĩa là không phải đem phương pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hay phương pháp nghiên cứu của bất kì khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích văn học. Mà ở đây, nó chỉ dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học mà thôi. Chính vì vậy, với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa văn học, phê bình sinh thái có nhiệm vụ thẩm định lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán, nghiên cứu tư tưởng văn hóa, mô hình phát triển 12
  19. xã hội của loài người đã ảnh hưởng như thế nào đến thái độ và hành vi của nhân loại đối với tự nhiên và điều đó dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường sinh thái như thế nào. Đến giữa thập niên 90, phê bình sinh thái đã thực sự trở thành một khuynh hướng nghiên cứu văn học ở Mỹ và lan ra nhiều nước khác trên thế giới. Mặc dù phê bình sinh thái là bộ môn khoa học mới đối với các nhà nghiên cứu nhưng vẫn có thể kể đến những đặc trưng riêng của nó đối với các khuynh hướng phê bình văn học trước đây. Trước hết, sự xuất hiện của phê bình sinh thái có ý nghĩa như một đối thoại văn hóa, khi nó đề xuất tư tưởng lấy sinh thái làm trung tâm thay thế tư tưởng coi con người là trung tâm, là chúa tể. Cho nên, từ đó con người dần tách khỏi tự nhiên mà quên rằng: “về bản chất, con người là sản phẩm của tự nhiên” [13, tr.41]. Thứ 2, như là hệ quả của việc định vị tư tưởng triết học sinh thái trung tâm, các nhà sinh thái luôn tìm kiếm mối quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên hay giữa văn minh với hoang dã. Từ đó, họ thấy rằng xã hội ngày càng phát triển và quá trình đô thị hóa ngày càng diễn ra với tốc độ cao thì sự tàn phá của con người đối với tự nhiên ngày càng khủng khiếp. Thứ 3, vì nằm ở vị trí giao thoa giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn nên về bản chất, phê bình sinh thái là hướng tiếp cận liên ngành. Thứ 4, trong môi trường khác nhau thì phê bình sinh thái luôn phải đối mặt với những mối tương tác, mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên nên bản thân nó rất khó tạo ra sự chặt chẽ về hệ thống khái niệm như các lý thuyết phê bình văn học đã thấy trước đây. Như vậy, trên cơ sở tiếp thu lý thuyết về phê bình sinh thái qua một số bài báo liên quan đến vấn đề này, cũng như qua việc tìm hiểu những truyện ngắn của một số nhà văn hiện đại trên thế giới và Việt Nam, đặc biệt là truyện ngắn của Ma Văn Kháng, chúng tôi nhận thấy đã đến lúc chúng ta cần dành sự quan tâm hơn nữa đến hướng nghiên cứu này. 13
  20. 1.1.2. Phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại Phê bình sinh thái bắt đầu được nói đến ở Việt Nam trong khoảng vài chục năm qua. Trước hết, chúng ta có thể nhận rõ ở trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Cao Duy Sơn…có thể nói rằng Sống mãi với cây xanh của Nguyễn Minh Châu là tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học sinh thái ở Việt Nam đương đại Việc nghiên cứu phê bình sinh thái vào trong các tác phẩm văn học Việt Nam những năm gần đây đang trên đà phát triển và cũng là một vấn đề được giới chuyên môn, những nhà khoa học quan tâm. Có thể điểm đến một số bài nghiên cứu về phê bình sinh thái đối với các tác giả tiêu biểu như: thơ Thiền thời Lí Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du... Ở các công trình như Phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc, Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử, “người mở đầu cho Thi học Thiền gia” của Phương Lựu, Tư tưởng sùng thượng thiên nhiên trong Thơ Nôm Nguyễn Trãi của tác giả Lê Nguyên Cẩn... [40, tr. 39]. Có thể thấy các nhà nghiên cứu trên về cơ bản chỉ đưa ra vấn đề con người trong thiên nhiên, ít những công trình nghiên cứu vận dụng kĩ, sâu trong tác phẩm văn học cụ thể đứng trên góc độ sinh thái học. Năm 2011, Viện Văn học tổ chức một buổi thuyết trình về phê bình sinh thái. Karen Thronber sang Việt Nam trong khuôn khổ Hội thảo quốc tế 2011 “Tiếp cận văn học châu Á từ lí thuyết phương Tây hiện đại: vận dụng, tương thích, thách thức và cơ hội” [42, tr. 41]. Tại Viện Văn học, bà cũng đã có buổi giảng giới thiệu về Ecocriticism. Bài giảng Ecocriticism của Karen Thornber tại Viện Văn học vào tháng 3 năm 2011 giới thiệu môt cách tổng quan về bản chất, ý nghĩa và tiến trình của nghiên cứu văn chương môi trường và sau đó phân tích 6 điểm cơ bản mà phê bình sinh thái quan tâm [42, tr. 41]. Nguyễn Tịnh Thy trong bài “Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc” (2013) đã nhìn thấy cảm quan hậu hiện đại biểu hiện rất rõ ở đặc điểm giải cấu trúc qua những đặc trưng: Cái chết của chủ thể, tính đối thoại... 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2