intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và văn hóa Việt Nam: Loại hình nhân vật truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân dưới cái nhìn so sánh

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

31
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của chúng tôi khi thực hiện luận văn này là nhằm làm rõ những điểm tương đồng, khác biệt về phương diện nhân vật của truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Qua đó khẳng định sự phong phú đa dạng của thể loại truyện Nôm nói chung và một phương diện cụ thể của truyện Nôm nói riêng - đó là loại hình nhân vật. Từ đó góp phần giúp cho các giáo viên dạy tốt hơn về các tác phẩm thuộc thể loại truyện Nôm trong chương trình phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và văn hóa Việt Nam: Loại hình nhân vật truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân dưới cái nhìn so sánh

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG THỊ TUYẾN LOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRUYỆN NÔM BÁC HỌC VÀ TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN DƯỚI CÁI NHÌN SO SÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2020
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HOÀNG THỊ TUYẾN LOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRUYỆN NÔM BÁC HỌC VÀ TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN DƯỚI CÁI NHÌN SO SÁNH Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 822.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Thanh Nga THÁI NGUYÊN - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác Tác giả luận văn Hoàng Thị Tuyến i
  4. LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn là TS. Ngô Thị Thanh Nga - Người đã tận tình hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ Văn, đặc biệt là các thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy khóa 26 chuyên ngành Văn học Việt Nam, các cán bộ khoa Sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập. Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn. Thái Nguyên ngày 15 tháng 9 năm 2020 Tác giả luận văn Hoàng Thị Tuyến ii
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii MỤC LỤC ............................................................................................................ iii MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................................ 1 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 5 6. Đóng góp mới của luận văn .............................................................................. 6 7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 6 NỘI DUNG........................................................................................................... 7 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..... 7 1.1. Khái quát một số vấn đề về truyện Nôm....................................................... 7 1.1.1. Khái niệm .................................................................................................... 7 1.1.2. Nguồn gốc ................................................................................................... 8 1.1.3. Phân loại .................................................................................................... 11 1.2. Nhân vật và phân loại nhân vật trong tác phẩm văn học ............................ 13 1.2.1. Nhân vật .................................................................................................... 13 1.2.2. Phân loại nhân vật trong tác phẩm văn học .............................................. 16 1.3. Khái niệm loại hình nhân vật ...................................................................... 20 1.4. So sánh và so sánh văn học ......................................................................... 20 1.4.1. So sánh ...................................................................................................... 20 1.4.2. So sánh văn học ......................................................................................... 21 1.5. Khái quát một số tác phẩm truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân ....... 22 1.5.1. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Sơ kính tân trang” của Phạm Thái, “Hoa tiên kí” của Nguyễn Huy Tự.............................................................. 22 1.5.2. Thạch Sanh, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tống Trân - Cúc Hoa ............... 30 Tiểu kết chương 1................................................................................................ 33 iii
  6. Chương 2. NHÂN VẬT TRUYỆN NÔM BÁC HỌC VÀ TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN - NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG .......................... 34 2.1. Đặc điểm của nhân vật ................................................................................ 34 2.1.1. Nhân vật chính diện .................................................................................. 34 2.1.2. Nhân vật phản diện.................................................................................... 50 2.2. Kết thúc của nhân vật .................................................................................. 63 2.2.1. Kết thúc của nhân vật chính diện .............................................................. 63 2.2.2. Kết thúc của nhân vật phản diện ............................................................... 70 Tiểu kết chương 2................................................................................................ 74 Chương 3. NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NÔM BÁC HỌC VÀ TRUYỆN NÔM BÌNH DÂN - NHỮNG ĐIỂM DỊ BIỆT ..................... 75 3.1. Mở rộng về hệ thống nhân vật trong truyện Nôm bác học .......................... 75 3.2. Phát triển tính cách và tâm lý phức tạp ở nhân vật truyện Nôm bác học .... 82 3.3. Đổi mới kết thúc nhân vật ở truyện Nôm bác học ....................................... 95 Tiểu kết chương 3.............................................................................................. 101 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 104 iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài - Lý do khoa học: Truyện Nôm là một thể loại văn học có số lượng tác phẩm đồ sộ và nở rộ vào khoảng thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX. Đây là một thể loại giàu thành tựu của văn học Việt Nam trung đại góp phần quan trọng cho sự trưởng thành của văn học Việt Nam sau một quá trình dài tìm đường, tiếp nhận và sáng tạo không ngừng. Về cơ bản, truyện Nôm được các nhà nghiên cứu phân chia thành hai loại là truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Cùng thuộc một thể loại, bên cạnh những nét tương đồng truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân lại có những nét khác nhau từ nội dung thể hiện đến tư duy nghệ thuật, trong đó loại hình nhân vật là một trong những phương diện thể hiện khá rõ nét tương đồng và dị biệt ấy. - Lí do thực tiễn: Truyện Nôm được dạy nhiều trong chương trình phổ thông, nhất là Truyện Kiều. Vì thế, việc tìm hiểu vấn đề “Loại hình nhân vật truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân dưới cái nhìn so sánh” sẽ giúp cho người viết hiểu sâu sắc hơn về một thể loại đặc sắc của văn học dân tộc, đặc biệt là Truyện Kiều. Qua đó sẽ giúp cho việc dạy các tác phẩm truyện Nôm ở trường phổ thông có chiều sâu và hiệu quả hơn. Với những lí do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Loại hình nhân vật truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân dưới cái nhìn so sánh” để nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học trung đại Việt Nam. Đây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng. Vì vậy, nghiên cứu truyện Nôm là cả “một chặng đường lịch sử”. Bởi truyện Nôm là cả một thể loại lớn với quá trình phát triển lâu dài, việc nghiên cứu truyện Nôm là một vấn đề phức tạp nhưng rất được giới nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu. Trải qua một thời gian dài trên dưới 200 năm, việc tìm hiểu và nghiên cứu truyện Nôm đã đem đến cho chúng ta nhiều cách hiểu và nhiều góc độ nhìn nhận khác nhau để từ đó chúng ta thấy được nhiều phương diện khác nhau của nghệ thuật cũng như nhân sinh. 1
  8. Các truyện Nôm bác học như Truyện Kiều, Sơ kính tân trang, Hoa tiên kí và các truyện Nôm bình dân như Thạch Sanh, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tống Trân - Cúc Hoa đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu nhưng trên phương diện “Loại hình nhân vật truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân dưới cái nhìn so sánh" thì thực sự chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu. Sự nghiên cứu của giới nghiên cứu hầu hết chỉ tập trung vào nhiều vấn đề cụ thể về ngôn ngữ, về hình tượng thiên nhiên,…hoặc khái quát về nội dung và nghệ thuật ở các tác phẩm riêng lẻ, hoặc cũng có những chuyên luận, luận án đặt các tác phẩm cụ thể trong dòng truyện Nôm để thấy được sự tiếp biến kế thừa những đặc trưng của thể loại. Truyện Nôm bác học là những tác phẩm có tên tác giả, số lượng những truyện Nôm bác học khuyết danh rất ít. Đối tượng sáng tác của truyện Nôm bác học là tầng lớp quý tộc, những người có trình độ học vấn cao. Điều này chi phối nội dung được phản ánh trong tác phẩm cũng như đặc trưng về trình độ nghệ thuật. Nếu như truyện Nôm bác học là sản phẩm trí tuệ của những trí thức phong kiến thì truyện Nôm bình dân lại là những sáng tác của tầng lớp trí thức bình dân. Họ có thể là những người cũng từng học đạo thánh hiền nhưng không đỗ đạt làm quan, đó có lẽ là những ông đồ làm nghề dạy học ở xã hội phong kiến Việt Nam xưa. Trong luận văn này, tôi nghiên cứu tìm hiểu 6 tác phẩm tiêu biểu của truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học là: Truyện Kiều, Sơ kính tân trang, Hoa tiên kí và các truyện Thạch Sanh, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tống Trân - Cúc Hoa. Nghiên cứu về những tác phẩm truyện Nôm trên, chúng ta có thể gặp một số công trình đáng chú ý như: Trong bài viết “Nhân vật Thuý Kiều trong đoạn kết Truyện Kiều nhìn theo quan điểm văn hoá giới thời trung đại” (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6/2010), tác giả Bùi Thị Hồng đã nghiên cứu về kết cục của nhân vật Thúy Kiều và khẳng định: “Truyện Kiều được cấu trúc theo mô hình ba đoạn: hội ngộ, tai biến, đoàn viên. Ai cũng biết là trong đoạn kết thúc đại đoàn viên, Thuý Kiều gặp lại Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc của một thân phận kỹ nữ. Câu chuyện thoạt nhìn có cái không khí của kiểu kết thúc có hậu, song thực ra, cuộc đời đau khổ của nàng Kiều vẫn còn tiếp tục. Kiều một mực từ chối không sống như vợ chồng với Kim Trọng, dẫu cho chàng Kim tha thiết khẩn cầu nàng. Rút cục, vị cay đắng vẫn thấm đượm tận đáy lòng Kiều” [22, tr.52]. Đoạn đại đoàn viên ghi lại chân thực quan niệm trinh tiết Nho giáo đã ăn sâu vào cả 2
  9. cách nghĩ của người phụ nữ, nó là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến tấn bi kịch của nàng Kiều ngay trong hồi đại đoàn viên. Thuý Kiều tự nguyện gánh chịu tất cả khổ nạn do quan niệm trinh tiết mà nam giới đã áp đặt cho người phụ nữ với một niềm xác tín là người đàn ông như Kim Trọng không thể sống với một người phụ nữ thất tiết. Những lời xót xa của nàng Kiều đòi hỏi một sự suy nghĩ nghiêm túc về trách nhiệm của những người đàn ông đối với vấn đề trinh tiết của phụ nữ thay vì bình thản chứng kiến người phụ nữ phải gánh chịu hậu quả đến mức phải hy sinh cả hạnh phúc của họ. Vấn đề là tại sao chỉ có người phụ nữ phải tuân thủ tiết hạnh? Và, tại sao người phụ nữ lại chỉ có giá trị với điều kiện bắt buộc là phải có tiết hạnh? Dường như nhà thơ vĩ đại muốn đặt những câu hỏi khá bức bối này của tư tưởng nữ quyền trong phần đại đoàn viên của Truyện Kiều. Đó cũng là một phương diện mang giá trị lớn về nội dung chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du. Trong bài viết Về cách xây dựng nhân vật trong truyện Nôm của tác giả Bùi Thị Ngọc Hà đã nhận định: “Các nhân vật trong truyện Nôm bình dân, truyện Nôm bác học đều có sự phân tuyến đối lập về tính cách. Cách xây dựng nhân vật phân tuyến là sự lý giải cho quy luật nhân quả, một kiểu xây dựng nhân vật trong truyện kể dân gian. Các nhân vật thiện với những đức tính, phẩm chất tốt đẹp sẽ được hưởng hạnh phúc xứng đáng. Những nhân vật ác với những hành động xấu xa sẽ bị trừng trị thích đáng. Gieo nhân nào thì gặt quả ấy là vấn đề cốt lõi trong việc xây dựng hành động nhân vật truyện Nôm” [9, tr.55]. Cũng trong bài viết này, tác giả cũng chỉ ra những đặc trưng bổi bật của hệ thống nhân vật truyện Nôm nói chung. Đó là “Thứ nhất nhân vật được xây dựng theo khuôn mẫu. Thứ hai, mỗi nhân vật, dù được miêu tả đạt tới bề dày tính cách thì cũng chỉ là tính cách nhất phiến. Toàn bộ tính cách của nhân vật được ấn định một cách tiên nghiệm ngay từ trong ý đồ tác giả và cố định trong suốt tác phẩm. Biến cố mà nhân vật trải qua chỉ là những sự kiện hầu như ngoại tại, thuần túy đối với tính cách, được gá hờ vào cốt truyện, làm thành những cơ hội để nhân vật phô ra những gì đã được tác giả chuẩn bị sẵn, từ trước khi hạ sinh ra nhân vật. Đặc điểm thứ ba, trong tác phẩm, nhân vật bao giờ cũng được chia ra, xếp vào hai tuyến thiện - ác, chính - tà, tốt - xấu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng giữa truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân là sự quy định chung về đặc trưng của thể loại truyện 3
  10. Nôm như: mô hình cấu trúc, vấn đề kết thúc có hậu, nhân vật, các môtip dân gian, phong cách ngôn ngữ, phương thức sáng tác và lưu truyền… Các tác giả văn học trung đại khi đi vào sáng tác đã tuân thủ chặt chẽ những quy định chung đó. Vì thế đã tạo nên tính tương đồng giữa truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân trên một số phương diện, trong đó có cách xây dựng nhân vật” [9, tr.56]. Nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch, trong Truyện Nôm - lịch sử hình thành và bản chất thể loại đã chỉ rõ: “Dù là truyện Nôm bác học (hoặc hữu danh) hay truyện Nôm bình dân (hoặc khuyết danh), xét cho cùng, chúng cũng vẫn nằm trong khuôn hình của thể loại truyện Nôm, vẫn có chung một số thuộc tính nhất định của thể loại này. Do đó, giữa chúng vẫn không thể không tồn tại một vùng giáp ranh tương đồng giữa hai vòng tròn phân loại” [17, tr.70]. Về truyện Nôm Tống Trân - Cúc Hoa, tác giả Đặng Thanh Lê trong bài viết “Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm” đăng trên Tạp chí Văn học, số 2/1968 cũng đã tìm hiểu và nghiên cứu về phương diện nguồn gốc, bản chất, nghệ thuật và nhân vật nhưng chưa có được cái nhìn khái quát. Trong luận văn thạc sĩ ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam Thi pháp xây dựng nhân vật phản diện trong một số truyện nôm bình dân, tác giả Triệu Thị Mỹ đã phân tích về thi pháp xây dựng nhân vật phản diện trong một số truyện Nôm bình dân, đem đến cho người đọc những hiểu biết quý giá về nhân vật phản diện trong một số truyện Nôm bình dân. Như vậy có thể nói, truyện Nôm là tài sản lớn, là thành tựu xuất sắc của văn học dân tộc. Chính vì thế thể loại này đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu với nhiều bài viết và chuyên luận giá trị. Tuy nhiên, đặt loại hình nhân vật trong truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân dưới cái nhìn so sánh để nghiên cứu thì chưa có một công trình nào đề cập đến. Vì vậy, chúng tôi chọn lựa loại hình nhân vật trong truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân dưới cái nhìn so sánh làm đề tài nghiên cứu của luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của chúng tôi khi thực hiện luận văn này là nhằm làm rõ những điểm tương đồng, khác biệt về phương diện nhân vật của truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Qua đó khẳng định sự phong phú đa dạng của thể loại truyện 4
  11. Nôm nói chung và một phương diện cụ thể của truyện Nôm nói riêng - đó là loại hình nhân vật. Từ đó góp phần giúp cho các giáo viên dạy tốt hơn về các tác phẩm thuộc thể loại truyện Nôm trong chương trình phổ thông. Nhiệm vụ nghiên cứu gồm: - Vấn đề về truyện Nôm: Tìm hiểu chung về những vấn đề chung có liên quan tới đề tài như một số vấn đề truyện Nôm, loại hình nhân vật,vài nét khái quát về nội dung các truyện Nôm tiêu biểu. - Khái quát các tác phẩm truyện Nôm trong phạm vi nghiên cứu. - Tìm hiểu, phân tích những điểm tương đồng và dị biệt về loại hình nhân vật trong ba truyện Nôm bác học gồm Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Hoa tiên kí của Nguyễn Huy Tự và ba truyện Nôm bình dân gồm ba tác phẩm: Thạch Sanh, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tống Trân - Cúc Hoa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân dưới cái nhìn so sánh. - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi vấn đề nghiên cứu: loại hình nhân vật. + Phạm vi tư liệu nghiên cứu: Số lượng truyện Nôm rất lớn, trong luận văn này, chúng tôi lựa chọn sáu tác phẩm tiêu biểu, trong đó truyện Nôm bác học gồm: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Hoa tiên kí của Nguyễn Huy Tự; truyện Nôm bình dân gồm: Thạch Sanh, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tống Trân - Cúc Hoa. 5. Phương pháp nghiên cứu Ngoài việc vận dụng lý luận về phương pháp nghiên cứu, đề tài này còn sử dụng các phương pháp và các thao tác cụ thể như sau: - Phương pháp thống kê phân loại: + Thống kê các nhân vật nhằm cung cấp những số liệu chính xác, tạo cơ sở tin cậy cho những kết luận của luận văn. + Phân loại nhân vật: Nhân vật chính diện, nhân vật phản diện và nhân vật trung gian. - Phương pháp liên ngành: Chịu ảnh hưởng của nhiều ngành khác. Đó là phương pháp nghiên cứu lịch sử - văn hóa học để xác định mối tương quan giữa hình 5
  12. tượng nhân vật trong tác phẩm và sự liên hệ với hiện thực đời sống, bối cảnh văn hóa - xã hội đương thời. - Phương pháp phân tích tác phẩm văn học: Phân tích nhân vật trong tác phẩm truyện Nôm để thấy được sự giống và khác nhau giữa loại hình nhân vật trong truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. - Phương pháp so sánh: để chỉ ra sự tương đồng và sự khác biệt của nhân vật trong truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng đan xen, phối hợp hài hòa các phương pháp trên để làm rõ nội dung vấn đề nghiên cứu. 6. Đóng góp mới của luận văn Từ việc nghiên cứu truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân dưới cái nhìn so sánh thông qua các tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Hoa tiên kí của Nguyễn Huy Tự; truyện Nôm bình dân gồm: Thạch Sanh, Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tống Trân - Cúc Hoa, luận văn là nghiên cứu khá đầy đủ về vấn đề nhân vật, phân tích những điểm tương đồng và dị biệt về loại hình nhân vật giữa truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng đánh giá về truyện Nôm. Những đánh giá về tác giả, tác phẩm thuộc tiểu loại truyện Nôm cũng từ đó góp thêm một tiếng nói vào diễn trình nghiên cứu truyện Nôm vốn đã, đang và vẫn có sức hấp dẫn đối với những người quan tâm đến di sản văn học của ông cha. Ngoài ra, những vấn đề khoa học được nghiên cứu và trình bày trong luận văn này là tư liệu tham khảo có ý nghĩa thiết thực cho quá trình nghiên cứu, học tập, giảng dạy trong nhà trường các cấp. 7. Cấu trúc của luận văn Luận văn ngoài Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, Nội dung gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung có liên quan đến đề tài. Chương 2: Nhân vật truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân - Những điểm tương đồng. Chương 3: Nhân vật trong truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân - Những điểm dị biệt. 6
  13. NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Khái quát một số vấn đề về truyện Nôm Truyện Nôm là thể loại thuộc loại hình tự sự, là thể loại tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Những tác phẩm truyện Nôm xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đều mang nội dung tư tưởng tiến bộ với hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc như chữ Nôm, thể thơ lục bát. Truyện Nôm thể hiện sâu sắc truyền thống nhân đạo của người dân Việt Nam và là thể loại có vị trí quan trọng trong nền văn học dân tộc nói chung và văn học trung đại nói riêng. 1.1.1. Khái niệm Truyện Nôm là một hiện tượng độc đáo và phức tạp. Trong giới nghiên cứu vẫn tồn tại ý kiến khác nhau về thuật ngữ định danh thể loại. Một số định danh được đưa ra đó là truyện Nôm, truyện Nôm, truyện dài, truyện ngâm, truyện quốc âm, truyện diễn ca, tiểu thuyết diễn ca,… trong đó gọi truyện Nôm, truyện Nôm là phổ biến, thông dụng. Theo Dương Quảng Hàm, truyện Nôm “là tiểu thuyết viết bằng văn vần”, sử dụng thể “lục bát”, “biến thể lục bát” [11, tr.202]. Xét thấy “tác phẩm phản ánh cuộc sống bằng phương thức tự sự”, Đặng Thanh Lê xếp thể loại này vào “hệ thống tự sự - tiểu thuyết”, “thể loại tiểu thuyết này sử dụng ngôn ngữ văn tự dân tộc: chữ Nôm và với tư cách tác phẩm tự sự bằng văn vần, đại bộ phận các tác phẩm đều sử dụng một thể loại thơ dân tộc - thể lục bát” [26, tr.55]. Còn Lê Trí Viễn và một số tác giả khác lại định nghĩa truyện Nôm “là những sáng tác văn học hầu hết có tính chất trung thiên tiểu thuyết, và viết bằng thể thơ lục bát, có khi bằng thất ngôn bát cú” [64, tr.227]. Nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch lại quan niệm: “Truyện Nôm cũng còn có thể được gọi là truyện thơ. Gọi là truyện Nôm chẳng qua là một cách gọi theo tập truyền, và là gọi theo hình thức ghi chép đặc thù của thể loại - đó là ghi chép bằng chữ Nôm. Còn gọi là truyện thơ là gọi theo bản chất thể loại - một loại hình tự sự” [17, tr.263]. Nguyễn Hồng Quang đưa ra cách hiểu “đây là một loại văn học viết theo văn vần, có cốt truyện (tức là một loại tiểu thuyết văn vần)... Truyện Nôm sử dụng thể thơ lục bát là chủ yếu, song cũng có một số ít tác phẩm dùng thể Đường luật” [53, tr.23]. 7
  14. Nhóm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam viết: “Truyện Nôm hoàn toàn dùng các thể thơ dân tộc: lục bát, song thất lục bát” [21, tr.632]. Trong Từ điển Văn học Việt Nam, truyện Nôm được định nghĩa là: “Một thể loại sáng tác tiếng Việt (chữ Nôm) thời trung đại, phát triển mạnh từ nửa sau thế kỷ XVIII và suốt thế kỷ XIX... Mỗi tác phẩm ở thể loại trước là một liên hoàn gồm một loạt bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt (thơ Đường luật)… Các tác phẩm thuộc loại sau hầu như hoàn toàn dùng thơ lục bát, chỉ đôi khi mới xen một vài đoạn ngắn các thể khác (như nói lối, thơ Đường luật, từ khúc)” [1, tr.491]. Ngoài ra trong Từ điển thuật ngữ văn học, truyện Nôm được quan niệm là “thể loại tự sự bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, do viết bằng tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm nên được gọi là truyện Nôm. Truyện Nôm có tác phẩm viết bằng thể thơ Đường luật… nhưng phổ biến nhất là viết bằng thể thơ lục bát” [12, tr.315]. Như vậy, dù viết bằng những câu chữ khác nhau, nhưng tựu trung, những định nghĩa trên đã thể hiện được bản chất thể loại truyện Nôm và thống nhất ở mốt số điểm, dó là: truyện Nôm thuộc loại hình tự sự, được viết bằng chữ dân tộc (chữ Nôm) theo hình thức văn vần, theo thể lục bát (đôi khi xen đoạn thuộc thể thơ Đường luật, từ khúc…), thể Đường luật (thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt) nhưng chủ yếu là thể lục bát dân tộc. Ra đời và tồn tại với phương thức đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu, sau này các nhà nho bình dân và bác học dựa trên cơ sở cốt truyện đã có để tái tạo lại, vì thế truyện Nôm viết xuất hiện và phát triển. Giá trị của thể loại được khẳng định qua sức mạnh trường tồn với sự hâm mộ của quần chúng nhân dân nhiều thế hệ, kéo dài đến ngày nay. 1.1.2. Nguồn gốc Về lịch sử, xã hội Các nhà nghiên cứu đã xác định truyện Nôm ra đời vào giai đoạn XVI - XVII và phát triển rực rỡ vào thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì khủng hoảng trầm trọng, đi đến suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam. Đó là vào khoảng đầu thế kỉ XVI, nền chính trị của đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Vua chúa ăn chơi sa đọa, nội bộ lục đục, tranh giành quyền lực. Từ giữa thế kỉ XVII - đến hết thế kỉ XVIII, đất nước hai lần rơi vào cảnh chia cắt. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân 8
  15. nổi lên, giường mối xã hội bị đe dọa nghiêm trọng. Hoàn cảnh chính trị đó đã góp phần quan trọng vào việc thay đổi hình thái tư tưởng của thời đại. Nó không chỉ làm suy yếu và sụp đổ hệ tư tưởng phong kiến mà còn nâng đỡ cho sự ra đời, phát triển của tinh thần dân chủ. Quần chúng nhân dân và một bộ phận nho sĩ tiến bộ đã nhận thấy được sự thối nát của xã hội, ý thức được quyền sống và sức mạnh của nhân dân. Đây chính là nguồn mạch tinh thần nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo và tư tưởng nhân văn trong truyện Nôm. Trong thời đại đầy biến động ấy những cuộc đấu tranh trong nội bộ giai cấp phong kiến, những cuộc đấu tranh giữa nông dân với giai cấp phong kiến thống trị diễn ra liên miên, không dứt là minh chứng cho sự đảo lộn trật tự cũ trong xã hội phong kiến. Kinh tế công thương nghiệp nước ta giai đoạn này phát triển cũng là lý do thúc đẩy sự xuất hiện của truyện Nôm. Giai đoạn từ thế kỉ XVI - thế kỉ XVIII, công thương nghiệp phát triển rộng khắp. Trong thời đại có nhiều biến động về chính trị - xã hội, những xung đột nội bộ không thể giải quyết, kinh tế hàng hóa phát triển kéo theo đó là vai trò của đồng tiền, lối sống thị dân đã tác động vào sự băng hoại ý thức hệ của giai cấp thống trị. Trong truyện Nôm có những chuyện như: vợ gian thông với đình trưởng để hắn thừa cơ cướp tiền giành dụm của chồng sao bao nhiêu năm đi làm ăn xa (Tống Trân - Cúc Hoa) chính là biểu hiện của của sự suy thoái đạo đức trong một xã hội vì đồng tiền. Đồng thời sự gia tăng của lối sống thị dân lại càng tác động mạnh mẽ vào sự băng hoại của ý thức hệ phong kiến. Và vì thế, những tư tưởng dân chủ, tiến bộ như tinh thần đấu tranh chống lại những lễ giáo phong kiến nghiệt ngã, cùng với tinh thần đấu tranh đòi tự do hôn nhân, đồi quyền sống cho người phụ nữ… được biểu hiện trong truyện Nôm cũng chính là bắt nguồn từ nền tảng kinh tế - xã hội của thời đại lịch sử này. Về văn hóa, nghệ thuật Sự ra đời của truyện Nôm gắn liền với các tiền đề văn hoá, nghệ thuật. Các loại hình dân gian phát triển mạnh mẽ nhất như nghệ thuật sân khấu cổ truyền, phù điêu dân gian, văn học dân gian được đề cao. Nhìn chung những nét sinh hoạt đời thường trần tục, bình dân đầy tính hiện thực được đưa vào các loại hình nghệ thuật như một tất yếu lịch sử. Trước đây, các nhà trí thức phong kiến cho rằng văn học dân gian chỉ là 9
  16. tài sản tinh thần của hạng thứ dân. Đến thời kỳ này, do ảnh hưởng tư tưởng dân chủ, nhiều nghệ sĩ tìm đến phương thức biểu đạt của loại hình này mà cụ thể là thể thơ lục bát và thể loại truyện cổ tích. Tất nhiên, trước khi dùng lục bát, truyện Nôm đã thể nghiệm ở thơ Đường luật trong vài ba tác phẩm nhưng không mấy thành công. Do không bị gò bó chặt chẽ ở phương diện niêm luật nên lục bát đã trở nên phù hợp trong việc đảm nhiệm vai trò kéo dài văn bản, đáp ứng nhu cầu tự sự, gần gũi với tư duy số đông chúng dân đương thời. Lục bát là thể thơ mà cha ông trong quá khứ đã chuẩn bị trước để ươm trồng truyện Nôm. Về mặt cốt truyện, liên quan chặt chẽ tới luồng gió dân chủ, thể loại tự sự dân gian có sẵn - truyện cổ tích trở thành nguồn cội của truyện Nôm. Cốt truyện cổ tích được bác học hóa, có chỗ đứng riêng, sinh mệnh mới trong dòng chảy văn học viết. Qua đó, có thể thấy, văn học trung đại Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với văn học dân gian. Truyện Nôm không đơn thuần là kết quả nội sinh của văn hóa tộc người Kinh ở Việt Nam mà nó còn được ra đời bởi sự giao lưu văn hóa. Việt Nam nằm trong vùng văn hóa khu vực phương Đông, có mối quan hệ với “vài ba nền văn học già” như Ấn Độ, Hi - La, đặc biệt với Trung Hoa. Vì vậy, văn học nước nhà ít nhiều ảnh hưởng từ những quốc gia này. Sự giao lưu văn hóa diễn ra qua con đường chính trị, đường ngoại thương, qua con đường đi sứ hoặc di dân khẩn thực… Bên cạnh văn liệu, văn học Việt Nam trung đại còn ảnh hưởng không nhỏ từ các học thuyết tôn giáo như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. “Cùng với văn học Trung Hoa, người Việt còn tiếp thu tinh hoa từ nền văn học Ấn Độ, đặc biệt là hệ tư tưởng Phật giáo, các loại hình văn học Phật giáo. Ngoài ra, chúng ta còn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp từ nền văn hiến các dân tộc lân cận như Champa, Lào, Campuchia, Thái Lan,…” [62, tr.35]. Sự hình thành và phát triển của thể loại truyện Nôm không thể tách rời quá trình phát triển của văn học chữ Nôm và văn xuôi, văn vần nói riêng cũng như quá trình hình thành và phát triển của loại hình tự sự trong văn học Việt Nam nói chung. Truyện Nôm còn được hình thành từ quan điểm sáng tác của người nghệ sỹ. Từ đầu thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, hiện thực xã hội thay đổi, ý thức hệ phong kiến suy tàn, phong trào đấu tranh của nông dân là cơ sở cho sự nảy sinh, khơi mào cho tinh thần dân chủ. Sự chuyển biến trong khuynh hướng tư tưởng xã hội, tư tưởng nhân văn của thời đại khúc xạ tới tư duy của người trí thức tiến bộ, từ đó, nhà văn có sự thay đổi quan niệm sáng tác, cách đánh giá con người và xã hội… 10
  17. Truyện Nôm hình thành và phát triển, kết thúc sinh mệnh qua bốn giai đoạn sau: Cuối thế kỉ XV - đầu thế kỉ XVI, thế kỉ XVII, thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. 1.1.3. Phân loại Nghiên cứu truyện Nôm cùng với việc xác định bản chất của thể loại là một vấn đề phức tạp, không dễ đạt được sự thống nhất trong quan niệm của các nhà nghiên cứu. Cũng từ đó mà việc phân loại truyện Nôm trở nên hết sức khó khăn. Các nhà nghiên cứu đã dựa vào những tiêu chí nhất định để phân loại, và trong một chừng mực nào đó đều có điểm thuyết phục. Qua khảo cứu, chúng tôi nhận thấy việc phân loại truyện Nôm hiện nay tựu chung lại theo 4 hướng như sau: Thứ nhất: Dựa vào mối quan hệ với tác giả, có thể chia truyện Nôm thành hai loại là truyện Nôm hữu danh và truyện Nôm khuyết danh. Chẳng hạn: Thạch Sanh, Thoại Khanh - Châu Tuấn,… thuộc loại truyện Nôm khuyết danh; truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, Truyện Kiều của Nguyễn Du,… thuộc loại truyện Nôm hữu danh. Tiêu biểu cho cách phân chia này là nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên. Thực ra lối phân chia này thuần túy chỉ mang tính chất hình thức, việc phân loại chưa thật sự mang tính khoa học. Thứ hai: Dựa vào nguồn gốc và thể tài, có 3 loại truyện Nôm: Truyện có nguồn gốc cổ tích, thần thoại (Tấm Cám, Tống Trân - Cúc Hoa…). Truyện có nguồn gốc từ kho tàng tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc (Song Tinh, Hoa tiên, Nhị Độ Mai, Truyện Kiều…). Truyện bắt nguồn từ thực tại đời sống xã hội Việt Nam hay sáng tạo trên sự hư cấu cảnh ngộ cuộc đời của chính tác giả (Sơ kính tân trang, Mai Đình mộng ký…). Mặc dù ý kiến của tác giả phần nào mang tính thuyết phục, nhưng về cơ bản cách phân loại ấy chưa giải quyết thật triệt để vấn đề đặc trưng thể loại của truyện Nôm. Thứ ba: Dựa vào nội dung và thể tài, có thể chia truyện Nôm thành năm loại: Loại truyện có tính chất lễ nghi, tôn giáo (Quan Âm Thị Kính, Sự tích Đức Chúa Ba…). Loại truyện lãng mạn hay còn gọi là truyện tài tử giai nhân (Hoa tiên, Phan Trần, Sơ kính tân trang…). Loại truyện thế sự có chủ đề hôn nhân và hạnh phúc gia đình, đấu tranh xã hội (Thoại Khanh - Châu Tuấn, Tống Trân - Cúc Hoa…). 11
  18. Loại truyện về các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử (Ông Ninh cổ truyện, Chúa Thao cổ truyện…). Cuối cùng là loại truyện luân lí đạo đức (Trinh thử, Lưu Bình - Dương Lễ…). Tuy nhiên như chính tác giả luận án nhận định, “mỗi loại truyện này vẫn bao hàm trong chúng những yếu tố, tính chất của loại khác”, vì vậy mà việc phân loại “vẫn còn những điều cần bàn bạc thêm [43, tr.54]. Thứ tư: Dựa vào nội dung và hình thức sáng tác, truyện Nôm được chia thành hai loại là truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học. Đây là ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu như Nguyễn Lộc, Kiều Thu Hoạch, Trần Đình Sử… Mỗi cách phân loại truyện Nôm như đã thống kê trên đều có những ưu điểm và tồn tại nhất định, chỉ mang tính tương đối, không có cách phân loại nào là tuyệt đối. Đồng thời, ranh giới giữa hai loại truyện Nôm bình dân và bác học không phải lúc nào cũng rạch ròi, dứt khoát bởi các tiêu chí phân loại vẫn còn có độ co dãn nhất định. Song rõ ràng cách phân loại này đã cho thấy tính ưu việt của nó trong việc nêu bật nét khu biệt cũng như tiến trình phát triển của thể loại Truyện Nôm. Có lẽ vì vậy mà cách phân chia truyện Nôm thành hai loại truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học trở nên có sức thuyết phục hơn cả, được nhiều nhà nghiên cứu và học giả ủng hộ. Thực hiện đề tài, chúng tôi cũng xin được kế thừa việc phân loại truyện Nôm theo hướng này. Truyện Nôm bình dân hầu hết không có tên tác giả. Song có thể phỏng đoán tác giả của nó là những nho sĩ bình dân bởi căn cứ vào trình độ học vấn, trình độ tu dưỡng nghệ thuật, căn cứ vào cách nhìn nhận các vấn đề nhân sinh và xã hội được thể hiện trong tác phẩm. Cốt truyện trong các truyện Nôm bình dân thường dựa theo những câu chuyện cổ dân gian Việt Nam. Truyện Nôm bình dân sáng tác để kể là chính, được lưu truyền trong dân gian trước khi được in ra thành văn bản. Chính vì vậy, trong truyện Nôm bình dân, cách sử dụng ngôn ngữ, cách diễn đạt rất bình dị, dễ hiểu, gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động, thể hiện tâm tư, tình cảm, quan niệm, và cả những ước mơ, khát vọng của nhân dân. Truyện Nôm bình dân rất gần với truyện dân gian nhưng không phải là truyện dân gian. Về một mặt nào đó, có thể nói, truyện Nôm bình dân là chiếc cầu nối liền giữa văn học dân gian với truyện Nôm bác học. Những truyện Nôm bình dân được phổ biến rộng rãi trong dân gian là: Thạch Sanh, Tống Trân - Cúc Hoa, Lý Công, Tấm Cám, Thoại Khanh - Châu Tuấn,… 12
  19. Truyện Nôm bác học phần lớn là có tên tác giả, chỉ có một số ít tác phẩm là khuyết danh. Tác giả của truyện Nôm bác học là những người thuộc giai cấp phong kiến quý tộc, trình độ học vấn uyên bác, có quá trình rèn luyện và tu dưỡng nghệ thuật. Khác với truyện Nôm bình dân, cốt truyện trong những truyện Nôm bác học chủ yếu mượn từ văn học cổ Trung Quốc, chỉ một số rất ít là được hư cấu. Truyện Nôm bác học được sáng tác theo phương thức của văn học thành văn, chủ yếu là để đọc nên các tác giả khá cầu kì, tinh tế trong cách diễn đạt, sử dụng nhiều điển tích, điển cố, ngôn ngữ trau chuốt, giàu hình ảnh, đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Các tác phẩm truyện Nôm bác học tiêu biểu có thể kể đến là Hoa tiên kí của Nguyễn Huy Tự, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du,... Qua sự phân loại như trên, ta có thể khẳng định, thể loại truyện Nôm đã thể hiện được những đặc trưng riêng và để lại dấu ấn đặc biệt trong nền văn học trung đại Việt Nam. Những tác phẩm truyện Nôm thời trung đại đã góp phần quan trọng tạo nên sức sống, giá trị, bản sắc của văn học dân tộc Việt Nam trong mọi thời kì. 1.2. Nhân vật và phân loại nhân vật trong tác phẩm văn học 1.2.1. Nhân vật Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi đó chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, một loại người, một vấn đề nào đó của hiện thực. Vì thế, nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định. Thuật ngữ nhân vật xuất hiện từ rất sớm (tiếng Hy Lạp: persona, tiếng Anh: personage, tiếng Nga: personaj). Theo tiếng Hy Lạp cổ, persona lúc đầu có nghĩa là "chiếc mặt nạ" - một dụng cụ biểu diễn của diễn viên trên sân khấu. Về sau, từ này được dùng phổ biến hơn và trở thành thuật ngữ chỉ nhân vật văn học. Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê thì nhân vật được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất nhân vật là đối tượng (thường là con người) được miêu tả thể hiện trong tác phẩm văn học. Thứ hai, đó là người có vị trí nhất định trong xã hội. Tức thuật ngữ nhân vật được dùng phổ biến ở nhiều mặt cả trong đời sống xã hội, đời sống nghệ thuật lẫn trong đời sống sinh hoạt. 13
  20. Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán chủ biên) nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Đó chính là nơi “tác giả gửi gắm thông điệp và độc giả tiếp nhận,“giải mã” những vấn đề hiện thực cốt yếu đặt ra trong tác phẩm" [12, tr.235], nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính cách của con người. Nhân vật văn học còn thể hiện quan điểm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế, nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề của tác phẩm. Theo cuốn Lí luận văn học (tập 2) (Trần Đình Sử chủ biên), nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ [57, tr.114]. Nhân vật văn học luôn hiện hữu trong các tác phẩm văn học. Đó là những nhân vật có tên như Tấm, Cám, bà Hiền, chị Bơ... hay những nhân vật không tên như chị vợ của Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân, thằng bán tơ trong Truyện Kiều, nhân vật bà cô trong Nếp nhà của Nguyễn Khải... Nhân vật có thể được thể hiện bằng những hình thức khác nhau nhất. Đó có thể là những con người được miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, có tiểu sử như một khách thể thường thấy trong tác phẩm tự sự, kịch. Đó có thể là những người thiếu hẳn những nét đó, nhưng lại có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn như nhân vật người trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm, ý nghĩ, cảm nhận như nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình. Nhân vật do đó không chỉ là hình thức cơ bản thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người mà còn là hình thức cơ bản để khái quát những qui luật của đời sống và là nơi tập trung mọi giá trị - tư tưởng của nghệ thuật. Qua nhân vật, người đọc có thể hiểu được tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm và cá tính sáng tạo của nhà văn. Nhân vật là đứa con tinh thần, là sản phẩm, là vốn sống trực tiếp của nhà văn, là nơi thể hiện rõ nhất quan điểm nghệ thuật cũng như quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Pautopxki đã nói rằng những nhân vật và những tính cách sinh động chính là tấm huân chương cao quí của mỗi nhà văn. Thực vậy, nhân vật giữ một vai trò hết 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2