Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn học và Văn hoá Việt Nam: Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên)
lượt xem 4
download
Luận văn được xây dựng với mục đích đọc - hiểu và cảm thụ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới một cách sâu sắc, chỉ ra những nét đặc trưng nghệ thuật, những đóng góp của nhà văn trong tiến trình văn học Việt Nam. Nhận rõ tài năng độc đáo của nhà văn từ việc chọn đề tài và những phương thức phản ánh riêng khi ghi lại những vấn đề xã hội và khẳng định tên tuổi của nhà văn trong nền văn học nói chung và trong sự phát triển của thể loại tiểu thuyết nói riêng. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn học và Văn hoá Việt Nam: Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên)
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÝ THỊ VÂN DƯƠNG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI (QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÝ THỊ VÂN DƯƠNG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI (QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN) Ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Bích THÁI NGUYÊN - 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn: “Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên)” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Bích. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Lý Thị Vân Dương i
- LỜI CẢM ƠN Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Thị Bích, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, đồng nghiệp cùng bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Lý Thị Vân Dương ii
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii MỤC LỤC ................................................................................................................... iii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................... iv MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 8 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu ................................................................. 9 5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 9 6. Đóng góp mới của luận văn .................................................................................... 10 7. Cấu trúc của luận văn.............................................................................................. 10 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................. 10 1.1. Khái quát về thể loại tiểu thuyết .......................................................................... 10 1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết........................................................................................ 11 1.1.2. Đặc trưng thể loại tiểu thuyết ........................................................................... 12 1.2. Nhà văn Ma Văn Kháng ...................................................................................... 21 1.2.1. Tiểu sử và cuộc đời ........................................................................................... 21 1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Ma Văn Kháng ............................................. 21 1.2.3. Vị trí của Ma Văn Kháng trong văn xuôi Việt Nam đương đại ....................... 23 Chương 2: NHÂN VẬT VÀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG (QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN) ............................................................................................. 26 2.1. Nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ................................................... 26 2.1.1. Thế giới nhân vật .............................................................................................. 26 2.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .......................................................................... 33 2.2. Người kể chuyện trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ...................................... 46 2.2.1. Người kể chuyện với điểm nhìn bên ngoài ....................................................... 47 iii
- 2.2.2. Người kể chuyện với điểm nhìn bên trong ....................................................... 49 Chương 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG (QUA BÓNG ĐÊM, BẾN BỜ, NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN).......................................................................... 57 3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ................................. 57 3.1.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thường, giàu sức sống.................................................. 57 3.1.2. Ngôn ngữ trữ tình, đậm chất thơ ....................................................................... 68 3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ............................... 71 3.2.1. Giọng điệu triết lý, triết luận............................................................................. 72 3.2.2. Giọng điệu thương cảm, trữ tình, thiết tha sâu lắng ......................................... 74 3.2.3. Giọng điệu trào lộng, mỉa mai, châm biếm ...................................................... 78 3.2.4. Giọng điệu lạnh lùng, “vô âm sắc” ................................................................... 83 3.2.5. Giọng điệu đời thường, suồng sã, thông tục ..................................................... 86 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 93 PHỤ LỤC iv
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ĐNBN : Điểm nhìn bên ngoài ĐNBT : Điểm nhìn bên trong NKC : Người kể chuyện NT1 : Ngôi thứ nhất NT2 : Ngôi thứ hai NT3 : Ngôi thứ ba iv
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong loại hình tự sự, tiểu thuyết là một thể loại chiếm vị trí quan trọng được coi là “cỗ máy cái” của nền văn học. Tiểu thuyết là thể loại luôn luôn thay đổi, biến hóa, “không hoàn kết”, bởi vì nó “tiếp xúc tối đa với cái đương đại chưa hoàn thành” (M. Bakhtin). Tiểu thuyết là một trong những dấu hiệu đánh dấu sự trưởng thành của một nền văn học. Tuy sinh sau đẻ muộn, tiểu thuyết Việt Nam cũng đã trải qua một hành trình nhọc nhằn với những cuộc cách tân đầy ý thức của các nhà văn. đặc biệt là sau 1986 và đã trở thành thể loại trung tâm, có vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc. Tiểu thuyết đã và đang nỗ lực chuyển mình, đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại, của đời sống văn học và của đông đảo độc giả. Nhìn chung, văn học Việt Nam sau đổi mới đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết; từ cảm hứng lịch sử cộng đồng, dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư. Đây là điều kiện thuận lợi để tiểu thuyết tồn tại và phát triển. Tiểu thuyết từ 1986 trở về sau là một thế giới sáng tạo mới mẻ, nó quan tâm nhiều hơn đến số phận cá nhân và khám phá chiều sâu thế giới nội tâm phức tạp của con người. Đây là thể loại có khả năng miêu tả cuộc sống bề bộn, phức tạp. Đó cũng là nơi mà nhà văn có thể thể hiện các yếu tố kỹ thuật, nghệ thuật cùng với không khí dân chủ của môi trường sáng tạo. Tiểu thuyết giúp nhà văn ý thức sâu sắc hơn về tư cách một nghệ sĩ, vượt lên trên những quy định, khuôn khổ truyền thống đã thành áp lực với ngòi bút của người viết lâu nay. Sự vận động của tiểu thuyết đã để lại dấu ấn sâu sắc trong quá trình đổi mới văn học. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về thể loại tiểu thuyết mà đặc biệt là tiểu thuyết hiện đại thời kì đổi mới là một việc làm quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc. 1.2. Tiểu thuyết là một thể loại tự sự mang trong mình những nét đặc trưng riêng so với các thể loại khác về thi pháp như: kết cấu, cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện (NKC), điểm nhìn, giọng điệu... Vì vậy, nghiên cứu tiểu thuyết từ góc nhìn thể loại sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn thấu đáo về phương thức xây dựng tác phẩm, về những đặc sắc trong việc kể chuyện, những nội dung hiện thực được phản ánh và những nét riêng biệt của nhà văn. Từ đó, có thể khẳng định những đóng góp của nhà văn trong nền văn học dân tộc. 1
- 1.3. Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Ma Văn Kháng đã có nhiều đóng góp lớn, đặc biệt là với sự nghiệp đổi mới văn học nước nhà. Nhà văn đã thổi vào nền văn học Việt Nam sau 1975 một luồng gió mới với những sáng tác “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”. Trong đời văn của mình, Ma Văn Kháng theo đuổi hai mảng đề tài lớn là miền núi và thành thị. Ông đã dâng cho đời 18 tiểu thuyết, hơn 200 truyện ngắn, hai tập bút ký phê bình và rất nhiều những bài báo, trả lời phỏng vấn, phát biểu hội thảo… Các tác phẩm của ông đã trở thành "tài sản" quý giá của văn chương Việt Nam. Với khối lượng sáng tác đồ sộ cùng nhiều đóng góp nỗ lực, Ma Văn Kháng đã được nhận nhiều giải thưởng cao quý cho cả thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết như: Giải B Hội Nhà văn Việt Nam 1986 (cho tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn); Tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam 1995 (cho tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ); Giải thưởng Văn học Đông Nam Á 1998; Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật năm 2001; Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội 2009 (tiểu thuyết Một mình một ngựa); Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012 cho các tác phẩm Truyện ngắn chọn lọc, Mưa mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn. 1.4. Hơn năm mươi năm cặm cụi với cây bút, hơn 80 năm cuộc đời, nhà văn Ma Văn Kháng đã để lại tên tuổi và dấu ấn trên văn đàn như một cây bút văn xuôi “lực lưỡng”, một đời văn cần mẫn, sáng tạo. Chính vì thế, lâu nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết, truyện ngắn của ông. Với mong muốn đóng góp thêm tiếng nói và khẳng định những giá trị trong sáng tác của Ma Văn Kháng đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết, chúng tôi lựa chọn vấn đề Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên) để làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình. 2. Lịch sử vấn đề Như đã nói ở trên, trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là nhà văn có nhiều đóng góp lớn. Vì thế, lâu nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết, truyện ngắn của ông đặc biệt là về tiểu thuyết sau 1975. Nhiều công trình nghiên cứu, phê bình của các nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu như: Giáo sư Phong Lê, 2
- Lã Nguyên, Tô Hoài, Trần Đăng Xuyền, Nguyễn Bích Thu, Mai Thị Nhung, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Thị Bích... đã được đăng tải trên nhiều sách báo và tạp chí. 2.1. Những công trình nghiên cứu chung về tác phẩm của Ma Văn Kháng Tác giả Minh Nhật trong bài viết “Nhà văn Ma Văn Kháng: Chắt chiu những vị đời”, có trích dẫn nhận xét của GS. Phong Lê về vẻ đẹp văn chương trong các tác phẩm của Ma Văn Kháng: “Hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết trên một hành trình dài, dẫu có lúc ngôn ngữ chính luận tràn lấn, nhưng vẫn không làm thay đổi, biến dạng tiếng nói nghệ thuật đích thực trong tác phẩm của Ma Văn Kháng. Một tiếng nói nghệ thuật từ chính cuộc đời trần trụi, xù xì, thô nhám, đa sự cất lên; và lắm khi tác giả cũng không cần phải đóng vai trò khách quan “để sự thật tự nó nói lên” theo kiểu Balzac, Tolstoi, mà cứ đàng hoàng cất lên tiếng nói riêng để khơi gợi ở bạn đọc sự đồng tình hay tranh luận” [62]. Tác giả Mai Thị Nhung, trong bài “Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kì đổi mới” [63], đã thống kê được hơn 40 bài báo và 5 công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới đồng thời chỉ ra cái nhìn đa chiều đa diện vào chiều sâu nhân bản và khẳng định những đóng góp không nhỏ của Ma Văn Kháng vào sự vận động phát triển của Văn học Việt Nam. Bài viết “Nghệ thuật sử dụng thành ngữ tục ngữ của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới” [64], cho thấy những thành công của nhà văn trong việc sử dụng những thành ngữ tục ngữ để phản ánh hiện thực cuộc sống và khắc họa tính cách nhân vật. Vốn từ ngữ phong phú đã góp phần làm nên “thương hiệu” Ma Văn Kháng. Tác giả Nguyễn Thị Bích, trong bài viết “Giọng điệu trần thuật của Ma Văn Kháng trong truyện ngắn sau 1975”, đã chỉ ra một số giọng điệu trần thuật như giọng khẳng định ngợi ca, giọng điệu trào lộng, châm biếm, mỉa mai, giọng điệu xót xa thương cảm, giọng điệu suy ngẫm triết lí. Từ đó khẳng định “Đọc truyện ngắn của Ma Văn Kháng sau 1975 ta cảm nhận được những suy tư, trăn trở của một trái tim giàu yêu thương, giàu lòng trắc ẩn với cuộc đời và con người” [5]. Bên cạnh đó, một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ của các tác giả cũng nghiên cứu về vấn đề này như: Nguyễn Thị Huệ (2000), Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi của Việt Nam từ 1980 đến 1986, Qua bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn 3
- Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn; Lê Thanh Ngọc (2004), Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975; Đỗ Phương Thảo (2006), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng; Lê Thanh Hùng (2006), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu Đổi mới (Giai đoạn sáng tác 1980 - 1989); Đỗ Thị Thanh Quỳnh (2006), Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng; Lê Minh Chung (2007), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới; Dương Thị Hồng Liên (2008), Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới; Trần Thị Phi Nga (2008), Đặc trưng tiểu thuyết thế sự của Ma Văn Kháng; Nguyễn Thị Vân Anh (2011), Diễn biến của thời gian tự sự trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng; Đỗ Thanh Hương (2011), Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong văn xuôi của Ma Văn Kháng đầu thế kỉ XXI; Nguyễn Thị Mai (2011), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới dưới góc nhìn tự sự; Nguyễn Thị Bích (2014), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng); Đoàn Tiến Dũng (2016), Ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi của Ma Văn Kháng... Với số lượng đông đảo những công trình nghiên cứu, những bài báo, bài viết về Ma Văn Kháng kể trên cho chúng tôi thấy được sức hấp dẫn và sự ảnh hưởng của nhà văn trong nền văn học nước nhà. Chúng tôi cũng nhận thấy, các công trình trên đã nghiên cứu về những khía cạnh như: những dấu hiệu đổi mới, nghệ thuật tự sự, nghệ thuật xây dựng nhân vật và ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng còn vấn đề nhìn nhận tiểu thuyết của ông từ góc nhìn thể loại vẫn ít nhiều chưa được đề cập đến. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn hướng nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại trong đề tài của mình. 2.2. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên Ngay từ khi ra mắt bạn đọc, ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của bạn đọc và của các nhà phê bình, nghiên cứu văn học. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện với bài "Bóng đêm và nghệ thuật tự sự tổng hợp mới của Ma Văn Kháng” [78], đã có những nhận xét xác đáng về tiểu thuyết Bóng đêm. Một là, tiểu thuyết Bóng đêm thuộc loại tiểu thuyết luận đề. Hai là, tiểu thuyết Bóng đêm là sự huy động tổng hợp của một vốn sống phong phú, những suy 4
- nghiệm tâm huyết được tích lũy trong nhiều năm của nhà văn Ma Văn Kháng về đề tài an ninh xã hội, về cuộc chiến cam go của cái Thiện chống lại cái Ác; của Ánh sáng xua tan Bóng đêm. Ba là, kết cấu của tiểu thuyết tập trung vào hai tuyến nhân vật chính một bên là các cán bộ, chiến sĩ công an mưu lược, dũng cảm, khoan dung, nhân ái, xả thân vì nhiệm vụ được giao như ông Tầm, các trinh sát viên Trừng, Nhâm còn một bên là bọn tội phạm giết người, cướp của, hiếp dâm, buôn lậu ma túy, lưu manh côn đồ như tên Thuyên, Kình, Phỉ… Bốn là, nhìn về tổng thể, tiểu thuyết Bóng đêm cho ta thấy được cái nhìn đa chiều, đa diện nghiêm nhặt mà hiền minh, gợi mở và đối thoại, tranh luận của Ma Văn Kháng về mảng hiện thực an ninh xã hội. Nhà văn đã hé mở cho người đọc nhận ra tất cả sự phức tạp, rối rắm, oái oăm cùng những ngẫu nhiên và bí ẩn khôn cùng của nó. Đồng thời, với Bóng đêm, Ma Văn Kháng đã thực hiện “một bước tổng hợp mới của nghệ thuật tự sự” và tác phẩm ghi nhận những nỗ lực dẻo dai, bền bỉ, một thành tựu vượt trội, xứng đáng là tập đại thành của cây bút văn xuôi lão thực Ma Văn Kháng sau nhiều năm gắn bó tâm huyết với đề tài an ninh xã hội. Tác giả Hà Linh trong bài “Nhà văn Ma Văn Kháng: Sống còn để mang thương tích”, có viết: “Tôi đã đọc một mạch Bóng đêm, và run theo mạch xúc cảm của nhà văn. Những chất liệu ngồn ngộn của đời sống mà ông kể từ những chuyến đi thực tế của 20 năm trước, vẫn còn nóng hổi hơi thở của đời sống đương đại. Và chính nhà văn Ma Văn Kháng cũng bị dẫn dụ vào thế giới của riêng mình, trong thế giới của sự thăng hoa sáng tạo, ông đã khám phá ra chính mình, khám phá đời sống trong những tàng ẩn sâu kín của tâm linh, của nội cảm” [49]. Đỗ Thanh Hương với bài “Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết "Bóng đêm" của Ma Văn Kháng”, đăng trên báo Văn nghệ công an online, http://vnca.cand.com.vn, năm 2012, nhận xét: “với những đặc trưng riêng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật kể chuyện và ngôn ngữ, qua "Bóng đêm", Ma Văn Kháng đã thành công trong việc "thực hiện một bước tổng hợp mới của nghệ thuật tự sự". Nó thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo không mệt mỏi của một nhà văn đã suốt đời gắn bó và nỗ lực đổi mới văn xuôi hiện đại Việt Nam”. Tác giả Bình Minh trong bài “Hành trình đi tìm cái thiện trong tiểu thuyết Bóng đêm”, có viết: “Đọc tiểu thuyết Bóng đêm ta thấy một vốn sống phong phú và sự trải 5
- nghiệm được tích lũy trong nhiều năm cầm bút của Ma Văn Kháng về đề tài an ninh xã hội, về cuộc chiến cam go của cái thiện chống lại cái ác; của ánh sáng xua tan bóng tối. Bóng đêm đã tái hiện bức tranh về cuộc đời sinh động được kết hợp rất linh hoạt giữa bút pháp hiện thực với suy tưởng lãng mạn, đôi chỗ có đan cài những chi tiết “sex”, những chi tiết đẹp về tình yêu cũng là cách lựa chọn độc đáo của tác giả để tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm.” [57] Tác giả Đoàn Trọng Huy với bài “Vẻ đẹp bộ tiểu thuyết cặp đôi Bóng đêm và Bến bờ của Ma Văn Kháng”, có nhận xét như sau: “Bóng đêm và Bến bờ là loại truyện hình sự nhưng khái quát lại là tiểu thuyết luận đề mới. Nó hàm chứa những vấn đề về đạo đức, về triết lý nhân sinh, những thông điệp tinh thần mới” [30] . Nhà lí luận phê bình Nguyễn Hoà cho rằng: “Không thể viết được như Ma văn Kháng nếu chỉ lấy tài liệu ở mấy bài báo. Bóng đêm và Bến bờ là tiểu thuyết luận đề, Ma Văn Kháng là nhà văn có tiếp xúc nhiều với thực tiễn sinh động” (dẫn theo [89, tr.4]). Ở một khía cạnh khác, nhà văn Phùng Thiên Tân nhận thấy: “Thông thường các cuốn tiểu thuyết về đề tài hình sự mở đầu là những vụ án xảy ra, kết thúc là tìm ra hung thủ hay tên biệt kích. Ma Văn Kháng không viết thế. Cách viết mới này là hướng dẫn cho các nhà văn trẻ trong ngành” (dẫn theo [89, tr.4]). Ý kiến của Nhà thơ Hữu Việt: “Bóng đêm, thể hiện tinh thần nhập cuộc của nhà văn Ma Văn Kháng. Nó thể hiện sức viết dẻo dai bền bỉ của một cây bút tuổi đã cao và đã có nhiều thành tựu. Ông đã đem chất thơ và các khát vọng vào tác phẩm của mình. Hành động, chi tiết trong chuyện chỉ là bề nổi, phía sau tất cả là ý nghĩa nhân sinh của cuộc đời…” (dẫn theo [89, tr.4]). Trong các công trình nghiên cứu, chúng tôi đã rà soát có hai luận văn thạc sĩ nghiên cứu về cặp đôi tiểu thuyết này đó là Nguyễn Thị Hằng (2012), Nghệ thuật tự sự trong hai tiểu thuyết Bóng đêm và Bến bờ của Ma Văn Kháng. Luận văn đã đề cập đến những thành công về nghệ thuật tự sự trong hai tác phẩm được ghi dấu trên ba phương diện: nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và nghệ thuật sử dụng giọng điệu. Đặng Hồng Vân (2013), Yếu tố trinh thám trong tiểu thuyết của Ma 6
- Văn Kháng qua tiểu thuyết Bóng đêm và Bến bờ đã đưa ra một cái nhìn khái lược về văn học trinh thám, nhận diện yếu tố trinh thám trong tiểu thuyết Bóng đêm và Bến bờ của Ma Văn Kháng nói riêng và tiểu thuyết của ông nói chung. Luận văn cũng cho thấy yếu tố trinh thám được thể hiện hết sức đa dạng qua đề tài, cốt truyện, ngôn ngữ, đặc biệt là hình tượng nhân vật trung tâm người chiến sĩ công an. Người thợ mộc và tấm ván thiên là tiểu thuyết được nhà văn viết trong khoảng ba năm (từ 2012 tới 2014), tác phẩm được nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2015. Tác giả Lam Thu trong bài “Ma Văn Kháng ra mắt tiểu thuyết ở tuổi 79”, có viết: “Người thợ mộc và tấm ván thiên kể câu chuyện với những nhân vật gắn với hoàn cảnh, biến cố thời cuộc một cách hấp dẫn. Bên cạnh đó, thông qua nhân vật Quang Tình, tiểu thuyết đưa ra một nhân sinh quan về cuộc đời, con người và sự hướng thiện” [86]. Trong bài “Khát vọng chân - thiện - mỹ trong Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng”, tác giả Mộc Miên đã bình luận một đoạn trong tác phẩm như sau: “Và thật bất ngờ, nhân cách trí thức của thầy đã khiến những cái mầm thiên lương còn sót lại trong con người Văn Chỉ dần dần mọc lên tươi tốt. Có thể nói, trường đoạn Quang Tình thuyết phục được Văn Chỉ từ bỏ phép ứng xử lấy ác báo ác, vì oan oan tương báo thì biết bao giờ cho hết nổi đây; (đó) là một trường đoạn hay và là một bước chuyển tư tưởng nghệ thuật của cây đại bút này. Nhân vật Quang Tình là một ẩn dụ thành công của nhân cách trí thức, của tư tưởng thẩm mỹ Ma Văn Kháng...” [56]. GS.TS.NGND Nguyễn Lân Dũng sau khi đọc Người thợ mộc và tấm ván thiên, đã có những rung động và cảm nhận sâu sắc: “Tôi viết mấy dòng này với mong muốn mọi bạn trẻ nên tìm đọc cuốn tiểu thuyết mà theo tôi là quá hay này. Các bạn sẽ hiểu hơn xã hội chúng ta cả cái thành công và những sai lầm đáng tiếc, hiểu hơn về con người thật với cái tốt cái xấu đan xen. Từ đó chúng ta tự hướng mình đến con đường nhân ái, tích cực, tự giác và tránh xa những cạm bẫy không khi nào hết được quanh ta...” [10]. Tác giả Ngọc Lợi trong bài “Đọc Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng: điều còn lại”, có nhận xét: “Đặt trong bối cảnh của những năm bao cấp cùng những chuyển biến xã hội đặc trưng, tiểu thuyết “Người thợ mộc và tấm ván thiên” của Nhà văn lão làng Ma Văn Kháng cuốn hút người đọc không hẳn về đề tài mà còn 7
- bởi lối viết đầy nội lực với nguồn tư liệu dồi dào...” [50]. Nguyễn Nữ Khánh Hương với luận văn thạc sĩ viết vào năm 2016, trường ĐHSP Hà Nội 2: Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong hai tiểu thuyết của Ma Văn Kháng Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ; Người thợ mộc và tấm ván thiên, đã đánh giá những đóng góp của nhà văn thông qua hai cuốn tiểu thuyết Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ, Người thợ mộc và tấm ván thiên. Với Người thợ mộc và tấm ván thiên, tác giả luận văn nhận định đây là tiểu thuyết luận đề với tư tưởng bao dung hướng thiện và đi vào phân tích một số đặc điểm về nhân vật, cốt truyện, nghệ thuật trần thuật (người kể chuyện và điểm nhìn, giọng điệu triết lí). Từ việc tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu sáng tác của Ma Văn Kháng nói chung và ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên nói riêng, chúng tôi nhận thấy vấn đề: Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên) còn nhiều bỏ ngỏ để chúng tôi tiến hành khảo sát, nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Chúng tôi tiến hành nghiên cứu để hoàn thành luận văn: Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên) với những mục đích sau: - Đọc - hiểu và cảm thụ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới một cách sâu sắc, chỉ ra những nét đặc trưng nghệ thuật, những đóng góp của nhà văn trong tiến trình văn học Việt Nam. - Nhận rõ tài năng độc đáo của nhà văn từ việc chọn đề tài và những phương thức phản ánh riêng khi ghi lại những vấn đề xã hội và khẳng định tên tuổi của nhà văn trong nền văn học nói chung và trong sự phát triển của thể loại tiểu thuyết nói riêng. - Dựa trên những đặc điểm của thể loại tiểu thuyết, chúng tôi khai thác ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng trên phương diện góc nhìn thể loại. Chúng tôi đi sâu vào khám phá những sáng tạo của nhà văn và phát hiện những tác động của ba tiểu thuyết đến đời sống văn học. 8
- 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, chúng tôi cũng xác định nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: - Khái quát những vấn đề lý luận chung về thể loại tiểu thuyết và đôi nét về cuộc đời, hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng. - Tìm hiểu nhân vật và người kể chuyện trong ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng. - Tìm hiểu ngôn ngữ và giọng điệu trong ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng. Từ đó, chúng tôi nhận định đánh giá về những thành công của tiểu thuyết Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết trong ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng qua các yếu tố như: nhân vật và người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu. 4.2. Phạm vi tư liệu Đề tài khảo sát chủ yếu ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên, ngoài ra còn khảo sát các tiểu thuyết khác của nhà văn để đối chiếu và so sánh như: Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Ngược dòng nước lũ (1999). 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn thể loại (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên), chúng tôi vận dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 5.1. Phương pháp thống kê - phân loại Phương pháp này được áp dụng trong quá trình khảo sát văn liệu để từ đó đưa ra những kết luận khoa học về các phương diện của ba tác phẩm mà chúng tôi quan tâm. 9
- 5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu Đối chiếu, so sánh ba tiểu thuyết với những tác phẩm khác để chỉ ra những sáng tạo mới và để có cái nhìn sâu hơn về đối tượng nghiên cứu. 5.3. Phương pháp nghiên cứu theo đặc trưng thể loại Phương pháp này giúp chúng tôi tìm ra những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết thể hiện qua các tác phẩm mà đề tài nghiên cứu. 5.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp. Vận dụng phương pháp này để chúng tôi đưa ra những khái quát trên cơ sở phân tích ngữ liệu cụ thể. 6. Đóng góp mới của luận văn - Khái quát những vấn đề lý luận chung về thể loại tiểu thuyết - Tìm hiểu nhân vật và người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng qua ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên từ đó cho thấy được sự vận động và đổi mới tư duy nghệ thuật của nhà văn. - Góp phần khẳng định tài năng, bút pháp và năng lực sáng tạo của Ma Văn Kháng trong nền văn học Việt Nam đương đại. - Ở một mức độ nào đó, luận văn sẽ làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy văn học ở trường PTTH và Đại học cũng như những người yêu thích văn học Việt Nam. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Nhân vật và người kể chuyện trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên) Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng (Qua Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên) Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Khái quát về thể loại tiểu thuyết 10
- 1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết Tiểu thuyết là thể loại lớn và chiếm vị trí quan trọng trong loại hình tự sự, đặc biệt phát triển mạnh mẽ trong thời kì cận và hiện đại. Đây là thể loại không bị giới hạn về dung lượng phản ánh hiện thực cả về không gian cũng như thời gian. Những nguyên lý của tiểu thuyết chi phối hầu hết các tác phẩm tự sự khác. Tiểu thuyết được coi là “cỗ máy cái” của nền văn học, là thể loại luôn luôn thay đổi, biến hóa, “không hoàn kết”, bởi vì nó “tiếp xúc tối đa với cái đương đại chưa hoàn thành” (M. Bakhtin). Để đưa ra những định nghĩa có tính chất quy phạm cho thể loại tiểu thuyết là điều không hề đơn giản. Belinsky cho rằng: "Tiểu thuyết là sử thi của đời tư". Ông chỉ ra khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách. Trong bài viết Bàn về tiểu thuyết, nhà văn Phạm Quỳnh cho rằng: “Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là những sự lạ tích kì, đủ làm cho người đọc có hứng thú. Như vậy thời phạm vi của tiểu thuyết rộng lắm: phàm sách gì không phải là sách dạy học, sách lý luận, sách khảo cứu, sách thi ca thời là tiểu thuyết cả, mà tiểu thuyết có khi lại gồm được cả các lối kia, vì trong một bộ tiểu thuyết, cũng có chỗ nghị luận, chỗ khảo cứu, chỗ ngâm vịnh chỗ khuyên răn” [16, tr.204]. Theo giáo sư Phan Cự Đệ, tiểu thuyết “tự bản chất nó vốn không có tính quy phạm. Đó chính là hiện thân của sự uyển chuyển. Đó là một thể loại luôn luôn đi tìm, luôn luôn nghiên cứu bản thân và luôn luôn soát lại tất cả những hình thức đã hình thành của mình. Một thể loại như thế chỉ có thể là một thể loại được xây dựng trong khu vực tiếp xúc trực tiếp với hiện thực đang tiến triển” [14, tr.500] Xác định nội hàm khái niệm tiểu thuyết sẽ giúp ta nhận được những đặc điểm thi pháp cơ bản của thể loại đồng thời hiểu được quy luật vận động và phát triển của thể loại văn học đặc biệt này. Mỗi tác giả đưa ra quan niệm riêng về thể loại tiểu thuyết 11
- và đều thể hiện được những nét riêng của tiểu thuyết so với các thể loại khác. Chúng tôi đồng tình và dựa vào định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Tiểu thuyết là một “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn của không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [25, tr.277] để nghiên cứu đề tài này. 1.1.2. Đặc trưng thể loại tiểu thuyết Trong phạm vi cho phép của luận văn, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng về nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu của ba tiểu thuyết Bóng đêm, Bến bờ, Người thợ mộc và tấm ván thiên. 1.1.2.1. Nhân vật Trong tác phẩm văn học, nhân vật là một yếu tố chiếm vị trí rất quan trọng. Điều này đã được nhà văn Tô Hoài khẳng định: “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác” [34, tr.127]. Nhân vật không chỉ là nơi bộc lộ tư tưởng, chủ đề mà còn thể hiện giá trị của tác phẩm. Sự thành bại của nhà văn, của tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố này. Nghiên cứu nhân vật, chính là nghiên cứu cách nhà văn nhìn nhận, cắt nghĩa về con người như thế nào và bằng cách nào trong văn chương của mình. Nhân vật là người dẫn dắt người đọc đi vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định. Vì vậy, trong mỗi sáng tác văn học không thể thiếu nhân vật. Về khái niệm nhân vật văn học, các nhà nghiên cứu phê bình đã đưa ra những quan điểm khác nhau. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân đã xem xét nhân vật trong mối tương quan với cá tính sáng tạo, phong cách nhà văn và trường phái văn học: “Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người” [3, tr.235]. 12
- Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong các tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha), cũng có thể không có tên riêng như “thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều” [25, tr.162]. Theo cuốn Giáo trình Lý luận văn học, nhân vật văn học được quan niệm rộng hơn: “Đó không chỉ là con người có tên hoặc không có tên, mà có thể là những sự vật, loài vật khác nhau, ít nhiều mang bóng dáng tính cách của con người, được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện con người. Đó là nhân vật dế mèn, võ sĩ bọ ngựa, con mèo lười trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài; là vầng trăng, bông hoa hồng trong thơ Bác v.v… Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc có liên quan đến con người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm” [12, tr.126]. Mỗi một quan niệm trên lại thể hiện một cách nhìn nhận riêng về nhân vật văn học. Nhưng nhìn chung, có thể khẳng định nhân vật văn học là sản phẩm tinh thần của nhà văn, là nơi để nhà văn thể hiện những quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ về con người. Nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động và có tính cách. Để xây dựng nhân vật thành công, nhà văn cần phải huy động toàn bộ tư cách nghệ sĩ và năng lực tinh thần cá nhân của mình. Nhân vật văn học thường được xây dựng từ những nguyên mẫu ngoài đời, có khi là từ những điển hình xã hội, nhưng nó được xây dựng qua trí tưởng tượng, sự sáng tạo và tài năng của người nghệ sĩ để phục vụ cho dụng ý nghệ thuật và mang phong cách riêng của từng nhà văn. Vì vậy, khi tìm hiểu nhân vật văn học, cần lưu ý: Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Nhân vật văn học tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nhiều cách phân loại nhân vật văn học. Dựa vào phương pháp sáng tác ta thấy nhân vật của chủ nghĩa cổ điển khác nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực. Dựa vào chức năng nghệ thuật, nhân vật văn học chia ra thành nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện, phản diện. Dựa vào thể loại văn học ta có nhân vật tự sự, trữ tình, kịch... Dựa vào cấu trúc hình tượng chia ra thành nhân vật chức năng, nhân 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 670 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 667 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 303 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 230 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 248 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 241 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 168 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 166 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 155 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 156 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 122 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn