Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn hoá Việt Nam: Văn hóa hà nội trong tiểu thuyết “Sống mãi với thủ đô” của Nguyễn Huy Tưởng
lượt xem 6
download
Nội dung chính của luận văn là làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa văn học và văn hóa, những dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nhìn từ hai phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn hoá Việt Nam: Văn hóa hà nội trong tiểu thuyết “Sống mãi với thủ đô” của Nguyễn Huy Tưởng
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÊ THỊ VINH VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT “SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ” CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÊ THỊ VINH VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT “SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ” CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu THÁI NGUYÊN - 2019 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn: “Văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết “Sống mãi với thủ đô” của Nguyễn Huy Tưởng” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Lê Thị Vinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- LỜI CẢM ƠN Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, đồng nghiệp cùng bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Lê Thị Vinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii MỤC LỤC ..........................................................................................................iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 11 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 12 5. Phương pháp nghiên cứu: .............................................................................. 12 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 12 7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 13 Chương 1: GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM VĂN HÓA VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG................................................. 14 1.1. Giới thuyết khái niệm ................................................................................. 14 1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa Hà Nội” ........................................ 14 1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học ..................................................... 20 1.1.3. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa ..................................................... 22 1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng .............................................. 24 1.2.1. Tiểu sử và hành trình sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng ........... 24 1.2.2. Tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng ............................................................. 28 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 33 Chương 2: DẤU ẤN VĂN HÓA HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG ......................... 34 2.1. Bức tranh thiên nhiên mang dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. ................................................................. 34 2.2. Đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng ............................................................................... 40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- 2.3. Con người - chủ thể văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng ........................................................................................... 45 2.3.1. Con người Hà Nội hào hoa, thanh lịch .................................................... 45 2.3.2. Con người có bản lĩnh và nhân cách cao đẹp .......................................... 48 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 61 Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN DẤU ẤN VĂN HOÁ HÀ NỘI TRONG TIỂU THUYẾT SỐNG MÃI VỚI THỦ ĐÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG ...................................................................... 62 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 62 3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật .................................................. 62 3.1.2. Nghệ thuật miêu tả cử chỉ, hành động nhân vật ...................................... 68 3.1.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.......................................................... 73 3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................... 80 3.3. Hệ thống biểu tượng văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng .................................................................................... 83 3.3.1. Biểu tượng và biểu tượng trong văn học ................................................. 83 3.3.2. Biểu tượng văn hóa Hà Nội nổi bật trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng ........................................................................ 85 Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 93 KẾT LUẬN....................................................................................................... 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 96 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Nguyễn Huy Tưởng là một tên tuổi tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông bước vào làng văn hơi muộn, mặc dù từ năm 1930, trong nhật ký của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã viết “Phận sự của một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ” nhưng mãi đến thập kỷ 40 ông mới thực sự cầm bút. Trong ý thức sáng tạo của mình , Nguyễn Huy Tưởng luôn suy tư, nghiền ngẫm và lựa chọn để có được sự thống nhất, hòa quyện giữa ý thức công dân và phẩm chất nghệ sĩ trong sáng tác của mình. Gần 20 năm hiện diện trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, Nguyễn Huy Tưởng luôn hướng tới sự thăng hoa trong sáng tạo, mong cho sản phẩm tinh thần của mình góp phần tô điểm cho nền văn hóa dân tộc. Trong quá trình sáng tác, Nguyễn Huy Tưởng đến với nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết, kịch bản sân khấu, kịch bản phim, truyện viết cho thiếu nhi. Ở địa hạt nào, Nguyễn Huy Tưởng cũng có những tác phẩm đồng hành với công chúng và người đọc. 1.2. Nguyễn Huy Tưởng được xem là nhà văn đa tài ở địa hạt văn xuôi. Ông hầu như đụng bút trên hầu hết thể loại như : nhật ký, ký sự, phóng sự, truyện ngắn, đặc biệt là tiểu thuyết. Đối với nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Huy Tưởng là một trong số hiếm hoi những tiểu thuyết gia có sở trường về đề tài lịch sử. Với Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu sáu chữ vàng…Nguyễn Huy Tưởng đã xác lập được vị trí của mình trên văn đàn dân tộc. Dựa vào “những dòng viết ngắn ngủi và hóa thạch” của chính sử, bằng tài năng vốn có, Nguyễn Huy Tưởng sáng tạo và hư cấu, đặt ra những vấn đề lớn lao về đất nước, con người và nghệ thuật, bằng văn học làm nên sức sống của sử học. Những vấn đề xưa và nay, quá khứ và hiện tại, lịch sử và thời sự luôn giao hòa, phối trộn trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng, gợi không khí rất gần mà rất xa, đượm hồn nước trong cái nhìn của nhà văn, nhà văn hóa Nguyễn Huy Tưởng. 1.3. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu các sáng tác của Nguyễn Huy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Tưởng, chúng tôi nhận thấy tiểu thuyết của ông in đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam, đặc biệt là dấu ấn văn hóa Hà Nội. Với một nhà văn hiểu biết sâu rộng về Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng đã tìm thấy mảnh đất riêng của mình, bằng những liên tưởng đối chiếu giữa kiến thức trong sách vở và với những trải nghiệm trong cuộc đời, Hà Nội đã vào văn ông, “làm nên toàn bộ hồn cốt và đường nét trong văn ông” khiến độc giả không chỉ “yêu tác giả tiểu thuyết” mà còn yêu quý thêm “Hà Nội trung tâm tim óc của cả nước. Qua bao triều đại chế độ, cái tim óc bền dẻo vĩ đại ấy đã đập đều trên chín thế kỉ rưỡi”[50]. 1.4. Văn học là một bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hóa. Bất kì tác phẩm văn học ở thời kì nào cũng đều mang dấu ấn văn hóa của thời kì đó. Do vậy, khi nghiên cứu một tác phẩm văn học, chúng ta cần tìm hiểu những giá trị văn hóa được thể hiện trong tác phẩm văn học đó. Nhất là trong giai đoạn hội nhập toàn cầu như hiện nay thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia đang là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Nhận biết được điều này nên chúng tôi mong muốn đi sâu nghiên cứu sáng tác của một tác giả cụ thể theo hướng tiếp cận văn hóa. Chúng tôi lựa chọn tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng, đặc biệt với tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô làm đối tượng nghiên cứu. Bởi trong những công trình nghiên cứu các sáng tác của ông, các nhà nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào khai thác những yếu tố mang tính lịch sử và cách mạng mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống về tiểu thuyết của ông theo hướng liên ngành văn hóa - văn học. 1.5. Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đã được đưa vào chương trình học ở đại học và các trường phổ thông hiện nay. Trong nhà trường phổ thông, tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng được giảng dạy ở cả ba cấp học: Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông với ba trích đoạn văn bản tác phẩm khác nhau ở sách giáo khoa Tiếng Việt và Ngữ Văn. Cụ thể: văn bản Bóp nát quả cam trích từ truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Tiếng Việt lớp 2); văn bản Bắc Sơn trích hồi 4 kịch Bắc Sơn (Ngữ Văn 9); văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trích kịch Vũ Như Tô (Ngữ văn 11). Nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi mong phần nào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- luận văn sẽ là tài liệu tham khảo đối với các thầy cô giáo và các bạn học sinh, sinh viên trong việc giảng dạy, học tập tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng ở các cấp học. Từ những lí do trên cùng với niềm say mê và lòng kính trọng, khâm phục tài năng Nguyễn Huy Tưởng, đặc biệt yêu thích tiểu thuyết của ông, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng”. 2. Lịch sử vấn đề Khi nội lực sáng tạo đang dồi dào thì cơn bạo bệnh đã buộc Nguyễn Huy Tưởng phải vĩnh biệt dương thế. Nhưng di sản văn học cùng với những trang nhật ký tư tưởng của nhà văn vẫn được lưu giữ và đã trở thành đối tượng cuốn hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học. Tác phẩm của ông vẫn là đối tượng để độc giả và giới phê bình, nghiên cứu và hơn một lần khám phá và lý giải những ý tưởng phong phú, sâu sắc tiềm ẩn trong sáng tác của ông trên những chiều kích mới, vượt qua những khía cạnh bất cập một thời. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của người đi trước về sự nghiệp văn chương của Nguyễn Huy Tưởng nói chung và về tiểu thuyết nói riêng. Khi thực hiện đề tài, chúng tôi có những thuận lợi nhất định khi kế thừa, tham khảo những công trình mang tính tập hợp như “Nguyễn Huy Tưởng - về tác gia và tác phẩm” (NXB Giáo dục - 2007), “Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời văn” (NXB Văn hóa thông tin - 2001), “Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú - Đông Anh” (NXB Kim Đồng - 2015). Ngoài ra các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục phân tích, bình giá tác phẩm của nhà văn thông qua các bài viết trên tạp chí, đề tài luận văn, luận án. Trên cơ sở đó, chúng tôi tập hợp thành những khía cạnh liên quan đến đề tài như sau: 2.1. Những ý kiến đánh giá về tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt tâm huyết với lịch sử, văn hóa quê nhà, đó là vùng quê ngoại thành Hà Nội. Chính vì vậy mà ông gắn bó với mảnh đất Thăng Long bằng mối tơ duyên kì lạ. Gần hai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- mươi năm trời lao động sáng tạo, Nguyễn Huy Tưởng đã viết về Hà Nội hoặc những gì dính dáng đến Hà Nội, tính theo tỷ lệ phần trăm chiếm trên một nửa khối lượng sáng tạo của nhà văn. Qua đó, nhà văn thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm tư, cá tính của con người Thủ đô, cũng như những truyền thống văn hóa, những giai thoại lịch sử của vùng đất ngàn năm văn hiến này. Có lẽ vì thế mà Vương Trí Nhàn đã từng khẳng định ông là “một trong những người xứng đáng nhất với danh hiệu nhà văn Hà Nội”. Ngay nhan đề, tên gọi của những đứa con tinh thần Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với Thủ đô…đã rất gợi, bộc lộ cảm xúc thăng hoa của trái tim nghệ sĩ nơi nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Minh Châu đã từng bị lôi cuốn bởi các sáng tác về Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng “Những cái tên sách gợi lên hình ảnh một cái đài tưởng niệm bằng ngôn ngữ, một vòng nguyệt quế từ bàn tay Nguyễn Huy Tưởng đặt lên trán những trai thanh gái lịch của Hà Nội rất giàu lòng yêu nước”[7]. Đọc Nguyễn Huy Tưởng, ai cũng nhận ra cảm hứng lịch sử bao trùm phần lớn các tác phẩm. Lần trở lại nhật ký năm 1932, khi ông mới hơn 20 tuổi, ta hiểu thêm rằng con người ấy từ tuổi trẻ đã nặng lòng với lịch sử dân tộc đến thế nào. Ông viết: “Người không biết lịch sử nước mình là con trâu đi cày ruộng. Cày với ai cũng được, mà cày ruộng nào cũng được”[21]. Như một sự sắp đặt của số phận, những sáng tác văn xuôi đầu tiên Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1943), và sáng tác cuối cùng của Nguyễn Huy Tưởng, tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô đều viết về đề tài lịch sử, về Thăng Long. Nhà văn Nguyễn Tuân trong lời bạt cuốn Sống mãi với Thủ đô đã có cảm nhận tinh tế: “Đọc lại những tiểu thuyết lịch sử, kể cả Sống mãi với Thủ đô, người đọc vẫn thấy gây gây mùi khói vấn vương ngàn năm Thăng Long chốn cũ”[50]. Nguyễn Tuân đã vô cùng yêu mến và không khỏi nuối tiếc những nhân vật trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô mà Nguyễn Huy Tưởng chưa kịp “tác thành” đường đi nước bước của họ, ông cũng say trong “khí hậu của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- thủ đô” và khung cảnh “bừng bừng cháy lên” của Hà Nội trong cuộc đụng độ với thực dân Pháp mà Nguyễn Huy Tưởng tái tạo trong Sống mãi với Thủ đô. Bằng ngôn ngữ của riêng mình, Nguyễn Tuân viết: “Tôi coi tiểu thuyết này như một bức tranh có nhiều đức tính truyền cảm mà tôi chỉ muốn được làm một người thợ mộc cố tìm cho tác giả nó một bộ khung tương xứng bằng gỗ tốt, gỗ quý”[50]. Trong bài Vài điều ghi nhận được trên một số tác phẩm văn học gần đây - Văn nghệ, 9 - 1961, Nhà văn Như Phong đã cảm nhận được bước ngoặt mới trong quá trình sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng mà Sống mãi với thủ đô là một minh chứng “Tập tiểu thuyết chưa trọn vẹn này đã làm cho ta thấy được cái tính chất phức tạp của thực tế kháng chiến không còn cái vẻ tráng lệ hơi dễ dãi, cái lối lý tưởng hóa con người hơi ngây thơ mà nhiều tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng trước đây vẫn có. Với tác phẩm cuối cùng này, anh đã tự đổi mới trong phương pháp nghệ thuật của mình”[53]. Trong một hệ thống bài viết Sống mãi với thủ đô, tác phẩm cuối cùng của Nguyễn Huy Tưởng (Báo Nhân dân 18 - 6- 1961), chuyên luận Nguyễn Huy Tưởng (1966), chương viết về sáng tác của nhà văn trong thời kì hòa bình đã nhắc nhiều đến Sống mãi với thủ đô, lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng (1984), Hà Minh Đức đã đưa ra nhận xét tổng quát Sống mãi với thủ đô “bộc lộ rõ nét nhất đỉnh cao cũng như cái đích đi tới cuối cùng của Nguyễn Huy Tưởng”, bởi tiểu thuyết đã “kết hợp được sự miêu tả sự kiện lịch sử với số phận cá nhân, vẻ đẹp lý tưởng với chiều sâu hiện thực, âm hưởng anh hùng ca của cuộc chiến đấu với nét trữ tình đằm thắm. Tác phẩm đã tạo dựng được nhiều bức tranh hoành tráng của Hà Nội kháng chiến và không khí đặc biệt của một thời kì lịch sử”[53] Tác giả Nguyễn Phương Chi trong bài viết Sống mãi với Thủ đô đã nhận định “Sống mãi với Thủ đô thấm đượm tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Hết thảy các nhân vật chính diện của tác giả, ở nhiều mức độ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- và sắc thái biểu hiện khác nhau, đều mang trong mình những phẩm chất cao đẹp: tinh thần dân tộc và ý chí tự do, thái độ sẵn sàng hy sinh vì đất nước…Nhà văn đã bắt đầu kết hợp được quy mô sử thi rộng lớn của sự kiện với việc đi sâu vào diễn biến số phận cũng tâm lý phức tạp của nhiều cá nhân”[6]. Với tiểu thuyết Đêm hội Long Tŕ, trong bài Nguyễn Huy Tưởng tác giả Hà Minh Đức có viết “Tác phẩm đầu tay Đêm hội Long Trì mở đầu cho quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, dựa trên những tư liệu lịch sử đề cập qua Hoàng Lê nhất thống chí và Việt Lãm xuân thu, khai thác câu chuyện xoay quanh quan hệ giữa chúa Trịnh Sâm và hai chị em Đặng Thị Huệ” tuy nhiên “Viết Đêm hội Long Trì, Nguyễn Huy Tưởng không khai thác tập trung vào quan hệ giữa Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ như một vài cuốn sách khác. Tác giả lấy Đặng Mậu Lân làm đầu mối cho các quan hệ Đặng Mậu Lân - Quỳnh Hoa, Đặng Mậu Lân - Nguyễn Mại: ở đây thể hiện hai sự đối lập, đối lập giữa sự tàn ác thô bỉ của dục vọng với vẻ đẹp mềm mại và tình yêu thơ mộng, và đối lập giữa tội ác và công lý”[12] Ở bài viết Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng các tác giả Trần Đình Nam và Nguyễn Phương Chi cũng đã có những nhận xét, đánh giá về tiểu thuyết An Tư, “Đọc An Tư ta cảm nhận được rất rõ không khí và màu sắc thời đại mà nhà văn mô tả. Người đọc rất tự nhiên bước vào cái thế giới do nhà văn sáng tạo ra và cũng rất tự nhiên, vui sướng đau khổ ký thác tâm sự cùng người thiên cổ. Tình yêu con người, đất nước, tinh thần thượng võ, những của cải tinh thần vô giá mà cha ông hương hỏa lại cho ta, ẩn kín đâu đó sâu thẳm trong tâm linh bỗng trỗi dậy, và ta càng tự hào, sung sướng vì mình là con Lạc cháu Hồng…”[39] Hai tác giả Hà Minh Đức và Phan Cự Đệ trong bài Tiểu thuyết và kịch lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng trước Cách mạng tháng Tám đã ghi nhận những dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Đêm hội Long trì “Viết Đêm hội Long trì, Nguyễn Huy Tưởng đã dựa vào Hoàng Lê nhất thống chí, Tang thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút. Cảnh đêm trung thu ở hồ Long trì đã được Nguyễn Huy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Tưởng mô tả gần giống như đoạn Kinh phủ (Nguyễn Án) nói về “Chuyện cũ trong phủ chúa””[14]. Cùng với đó là những ý kiến, nhận xét của Trần Đình Nam và Nguyễn Phương Chi trong bài Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng “Trước An Tư, Nguyễn Huy Tưởng viết Đêm hội Long trì. Ngay ở cuốn tiểu thuyết đầu tay này đã thấy rõ tài viết truyện lịch sử của ông. Ông đã làm sống lại dĩ vãng xa lắc xa lơ, bị sức nặng của hàng mấy thế kỉ đào sâu chôn chặt. Những phong tục, tập quán, lễ nghi, những hội hè đình đám lộng lẫy với những tài tử giai nhân “ngựa xe như nước áo quần như nêm” hiển hiện trước mắt ta”[39] Tác giả Nguyễn Huy Thắng trong bài viết Những khúc sông, mảnh hồ trong cuộc đời cha tôi , đã từng khẳng định: “Hồ Tây đã đi vào những trang sách của cha tôi trong Đêm hội Long Trì. Hồ Tây cũng là niềm tự hào của cha tôi về những cảnh đẹp một thời của Hà Nội, với những rừng chúc, rừng bang mà người dân kinh kì khi xưa thường tới thưởng ngoạn”[56] Như vậy, qua việc tìm hiểu những ý kiến, đánh giá cũng như các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, chúng tôi nhận thấy cảm hứng chủ đạo trong những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là cảm hứng lịch sử. Đó được xem như là sở trường của nhà văn. Tuy nhiên, để có những trang “chính sử viết bằng văn chương” ấy, thì Nguyễn Huy Tưởng phải là một người am hiểu tường tận về nền văn hóa nước nhà. Chính điều này đã tạo nên khoảng trống giúp chúng tôi tìm hiểu và nghiên cứu đề tài. 2.2. Những ý kiến đánh giá về dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn của đề tài lịch sử nhưng ông cũng là nhà văn của cuộc sống mới, con người mới. Trong tâm thức văn hóa của người Việt nói chung và người Hà Nội nói riêng, thiên nhiên, ngoại cảnh, môi trường sinh thái gắn bó, hòa hợp với con người. Cùng viết về Hà Nội và dành cho trái tim của cả nước tình yêu của chính mình, nhưng khác với Tô Hoài, Thạch Lam, Vũ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Bằng…trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng nổi bật âm hưởng lịch sử - văn hóa. Trong bài viết Bên nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cùng ngắm Hồ Gươm, Nguyễn Minh Châu đã viết: “Nghĩ về ông, bao giờ tôi cũng tưởng tượng ra một nhà văn đồng thời là một nhà văn hóa”. Quả vậy, trong cảm quan sáng tạo của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã trực tiếp hoặc gián tiếp giới thiệu những tinh hoa văn hóa Việt với người đọc. Nhờ vào những trang viết tài hoa của nhà văn, người đọc đương thời và hậu thế nhận ra dấu ấn văn hóa của Hà Nội, của Việt Nam trải qua những giai đoạn, thời khắc khác nhau của lịch sử và văn hóa dân tộc. Có thể thấy khá nhiều giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng được tái hiện trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Trong bài viết Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời văn các nhà nghiên cứu Tôn Thảo Miên và Nguyễn Bích Thu đã chỉ ra “ Với Sống mãi với thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng không chỉ thành công trong tái tạo không khí hào hùng, bi tráng của lịch sử mà cả trong miêu tả diễn biến tâm lí phức tạp, tinh vi của đời sống tâm hồn nhân vật, mang ý nghĩa nhân bản, đề cao lòng yêu nước và sự sống con người. Ở một góc độ khác, chỉ với ngòi bút tài hoa, tác giả cuốn tiểu thuyết mới “tả được những nét sang trọng, lịch sự của thủ đô. Sang trọng lịch sự mà vẫn yêu nước, ghét Tây”, điều đó làm nên cuộc sống riêng, không lẫn với các trường thiên tiểu thuyết cùng thời với Sống mãi với thủ đô”[53]. Viết về nhân vật trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, tác giả Phong Lê trong bài viết Sống mãi với thủ đô trong quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng nhận xét: “Miêu tả Hà Nội trong tính phức tạp của nó, Nguyễn Huy Tưởng cố gắng mở rộng thế giới nhân vật của mình. Anh miêu tả nhiều tầng lớp nhân dân lao động Hà thành, cô gái bán hoa Ngọc Hà, mẹ Thắng bán xôi chè, Dân thợ nguội, Sơn thợ xẻ, Quý tài xế,…nhiều con người thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau đó đã tham gia vào cuộc kháng chiến khỏe khoắn, tự nhiên vì cuộc đời của họ nói chung đã phải trải qua nhiều cực khổ. Trong lớp quần chúng cơ bản, Nguyễn Huy Tưởng chú ý những công nhân ưu tú, những cán bộ lãnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- đạo phong trào như Dân, Quốc Vinh, Nguyễn Gia Định là lực lượng nòng cốt, tiêu biểu cho tinh thần sống chết với thủ đô, chèo chống cho cuộc kháng chiến ở thủ đô..”[26].Cũng trên tinh thần ghi nhận nét mới trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng, Phong Lê viết: “Nguyễn Huy Tưởng đã phác họa được nhiều thái độ khác nhau, nhiều số phận khác nhau của con người trong một cơn rung chuyển lớn lao của lịch sử. Một cách đặt vấn đề như thế đối với các sáng tác trước Cách mạng của anh là hoàn toàn mới lạ, chưa thể có được”[26]. Với bài viết Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng tác giả Nguyễn Bích Thu đã cho chúng ta thấy: “Trong Sống mãi với thủ đô, bên cạnh cái lạnh giá của mùa đông năm 1946, cái bóng tối đặc quánh bao trùm Hà Nội trong đêm đầu tiên quân và dân Thủ đô chống trả giặc Pháp là những hình ảnh mang hơi ấm của văn hóa truyền thống. Cái hơi ấm ấy như tiếp sức, truyền thêm khí thế “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” với người dân Thủ đô vốn giàu lòng yêu nước, ghét Tây. Những yếu tố văn hóa xuất hiện khá đắc địa trong tiểu thuyết đã dệt nên bức tranh toàn cảnh Hà Nội trong thời điểm có một không hai của lịch sử dân tộc. Bức tranh ấy cho thấy sự đan bện, phối màu của hai đối cực : chiến tranh và đời thường, hiện tại và quá khứ, cái chết và sự sống, lịch sử và văn hóa, xưa và nay, hào hùng và hào hoa. Sự điểm xuyết, hiện diện của các yếu tố văn hóa ấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng tạo nên mỹ cảm trong tiếp nhận của người đọc”[54]. Cũng trong bài viết này, tác giả nhận định rằng “Những nét đẹp mang bản sắc của Hà Nội ba mươi sáu phố phường mà biểu tượng của nó là Hồ Gươm xuất hiện với mật độ đáng kể trong các trang văn Sống mãi với Thủ đô…Với Nguyễn Huy Tưởng, tình yêu và niềm tự hào dành cho Hà Nội trong những ngày Tổ quốc lâm nguy, bắt đầu từ chính tình yêu với thiên nhiên, với Hồ Gươm, một trong những yếu tố mang đặc trưng của Hà Nội. Bởi văn hóa chính là cách con người quan hệ với thiên nhiên”[54]. Phong Lê trong bài Sống mãi với thủ đô trong quá trình sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, đã có những nhận xét khá sâu sắc về chất kịch và chất thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, Ông viết: “không khi nào những xung đột lớn lao trong đời sống…đem đến những đảo lộn trong tâm trạng, tình cảm, quan hệ giữa con người lại được tập trung bằng lúc này. Cho nên có thể nói Sống mãi với thủ đô cũng đồng thời là một thiên kịch lớn”; “nói đến chất thơ trong Sống mãi với thủ đô trước hết là nói đến cái nhìn sâu vào bên trong các biến cố của đời sống, phát hiện trong hiện tại những gì thuộc về quá khứ và báo hiệu cho tương lai. Cái nhìn của Nguyễn Huy Tưởng luôn luôn là cái nhìn suốt cả quá trình. Mỗi vấn đề, mỗi hiện tượng anh nêu lên đều có lịch sử riêng. Trong nét vẽ rành rõ, sáng sủa của hiện tại, anh phủ lên một lượt mây mờ cổ kính của quá khứ và cũng đồng thời rọi chiếu một thứ ánh sáng, rực rỡ của tương lai. Cảm hứng lãng mạn do nhiệt tình của người viết đã đem đến cho thiên truyện nhiều chất thơ. Âm hưởng chung của thiên truyện là âm hưởng lạc quan. Tiếng cười nói, tiếng súng đạn, tiếng trẻ bán báo, rao hàng, tiếng đàn ấm áp, tiếng sinh hoạt của cuộc đời…bản hòa tấu của nhiều âm thanh khác nhau đó trong thiên truyện nghe sao khác rất nhiều tiếng gõ quan tài bi thảm trong Những người ở lại”[26]. Cùng với đó, Nguyễn Minh Châu trong bài viết Bên nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cùng ngắm Hồ Gươm đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của tác giả về nét đẹp văn hóa của Hà Nội trong Sống mãi với Thủ đô “Tôi đọc Sống mãi với Thủ đô đã mấy chục năm nay thế mà vẫn còn giữ nguyên vẹn trong trí nhớ một chiếc lá sấu vàng khô cong như một tấm vàng giát, từ từ và lặng lẽ gieo mình xuống vạt cỏ ven Hồ Gươm trong một buổi chiều mùa đông năm ấy - mùa đông năm 1946 - trong một sắc trời một màu xám đầy lạnh lẽo chứa đựng một cái gì gai gai, rờn rợn mà tôi - tôi có cảm tưởng chỉ ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng mới tả được hay đến như thế - về mấy ngày trước khi cuộc kháng chiến trường kì nổ ra”[7]. Luận văn Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, trường hợp Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Thị Phương Lan cũng đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những nét đẹp của Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Nguyễn Huy Tưởng qua hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Luận văn có đề cập đến một Hà Nội với sự thấm quyện giữa lịch sử và văn hóa. Tóm lại, từ việc tìm hiểu lịch sử vấn đề nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, chúng tôi thấy: Dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết của nhà văn đã ít nhiều được đề cập đến tuy nhiên đó mới chỉ là những nhận định khái quát mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống. Từ đó đã gợi mở cho chúng tôi lựa chọn đề tài: Văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. Kế thừa những kết quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi sẽ mở rộng, khơi sâu và làm rõ những giá trị, dấu ấn văn hóa có trong nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa văn học và văn hóa, những dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nhìn từ hai phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận văn khái lược tìm hiểu về mối quan hệ tương tác giữa văn học và văn hóa. Từ đó có cơ sở để tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng nói chung và Sống mãi với Thủ đô nói riêng trong mối quan hệ liên ngành văn hóa - văn học. - Luận văn nhận diện dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng . Từ đó khẳng định phong cách nghệ thuật và những đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng đối với nền văn học Việt Nam hiện đại cũng như đối với việc gìn giữ bản sắc văn hóa Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- - Phạm vi tài liệu nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi chọn khảo sát các tập tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với thủ đô, đặc biệt đi sâu vào tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. 5. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây: - Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Phương pháp này được sử dụng nhằm tìm hiểu những dấu ấn văn hóa có trong tác phẩm qua việc nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và văn hóa. - Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi tập trung thống kê các tác phẩm của ông và phân loại theo đặc trưng thể loại để có thể dễ dàng trong việc tiếp cận và phân tích tác phẩm - Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Được sử dụng phổ biến trong luận văn để nhận xét, đánh giá tác phẩm một cách toàn diện về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong luận văn chúng tôi sẽ tìm hiểu tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô bên cạnh những tác phẩm khác của ông trước và sau cách mạng. Bởi phương pháp này giúp chúng tôi nhìn nhận tác phẩm trong cái nhìn tương quan, từ đó tìm ra điểm tương đồng và khác biệt của tác phẩm với những tác phẩm khác. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp này giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn về tác phẩm. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn là công trình đầu tiên tìm hiểu một cách hệ thống trường hợp tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng từ góc nhìn văn hóa. Trên cơ sở đó luận văn đã nhận diện dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- - Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho công việc học tập, giảng dạy tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng trong các nhà trường phổ thông. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Giới thuyết khái niệm văn hóa và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng Chương 2: Dấu ấn văn hóa Hà Nội trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng Chương 3: Một số phương thức thể hiện dấu ấn văn hóa trong tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Chương 1 GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM VĂN HÓA VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG 1.1. Giới thuyết khái niệm 1.1.1. Khái niệm về “văn hóa” và “văn hóa Hà Nội” Khái niệm “văn hóa” Văn hóa là một khái niệm rất phức tạp. Có rất nhiều định nghĩa văn hóa tùy theo góc độ của người nghiên cứu muốn nhấn mạnh phương diện nào. Hiện nay, trên thế giới có đến gần 500 định nghĩa khác nhau về “văn hóa”. Vào thế kỉ XIX, thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nghiên cứu phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Họ cho rằng “văn hóa” thế giới có thể phân ra từ trình độ thấp đến trình độ cao nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B.Tylor là đại diện cho quan niệm đó. Theo tác giả, văn hóa là “một tổng thể phức tạp bao gồm các kiến thức tín ngưỡng (tín niệm), nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội”[8]. Định nghĩa này được nhiều nhà khoa học chấp nhận và sau đó, khi có những nhà khoa học đưa ra những định nghĩa khác, thì nó vẫn được nhắc đến như một định nghĩa dùng để tham khảo. Cùng với sự phát triển của việc nghiên cứu văn hóa theo nhiều hướng khác nhau, có rất nhiều định nghĩa được đề cập sau định nghĩa của E.B.Tylor. Tiêu biểu là định nghĩa của Edward Sapir, William Isaac Thomas, định nghĩa về văn hóa của ông Tổng giám đốc UNESCO F. Mayor. Trong bài phát biểu với nhan đề Thập kỉ thế giới phát triển văn hóa ông Tổng giám đốc UNESCO F. Mayor định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là một bộ phận không thể tách rời của cuộc sống và nhận thức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 670 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 667 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 303 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 229 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 248 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 240 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 168 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 166 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 155 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 155 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 122 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn