intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Đặc điểm văn xuôi Bình Nguyên Trang

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

19
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về đặc trưng thể loại, cụ thể là đặc điểm của hai thể loại truyện ngắn và tản văn. Tìm hiểu về tác giả Bình Nguyên Trang nói chung và hành trình sáng tác cũng như quan niệm văn chương của chị. Tìm hiểu về phương diện nội dung các tác phẩm văn xuôi của Bình Nguyên Trang. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Đặc điểm văn xuôi Bình Nguyên Trang

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC --------------- -------------- HÀ THỊ THU THỦY ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI BÌNH NGUYÊN TRANG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC --------------- --------------- HÀ THỊ THU THỦY ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI BÌNH NGUYÊN TRANG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Ngân THÁI NGUYÊN - 2018
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Hà Thị Thu Thủy
  4. ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thanh Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Hà Thị Thu Thủy
  5. iii MỤC LỤC Trang TRANG BÌA PHỤ LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................... i LỜI CẢM ƠN .............................................................................................. ii MỤC LỤC ................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 8 5. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 9 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG .................................................. 11 1.1. Các vấn đề thể loại ................................................................................... 11 1.1.1. Truyện ngắn và các đặc điểm của truyện ngắn ..................................... 11 1.1.2. Tản văn và các đặc điểm của tản văn .................................................... 14 1.2. Văn xuôi Bình Nguyên Trang trong diện mạo chung của văn xuôi nữ Việt Nam đương đại ....................................................................................... 18 1.2.1. Khái quát văn xuôi nữ Việt Nam đương đại ......................................... 19 1.2.2. Hành trình sáng tác của Bình Nguyên Trang ........................................ 21 Tiểu kết chương 1 ...................................................................................... 29 Chương 2. CẢM HỨNG VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TRONG VĂN XUÔI CỦA BÌNH NGUYÊN TRANG .......................................... 30 2.1. Cảm hứng về cuộc sống ........................................................................... 30 2.1.1. Những suy nghĩ về cách sống ............................................................... 30 2.1.2. Những cảm xúc đẹp về cảnh vật thiên nhiên ........................................ 36 2.2. Cảm hứng về con người ........................................................................... 39
  6. iv 2.2.1. Ca ngợi, bênh vực người phụ nữ ........................................................... 39 2.2.2. Trăn trở về những đứa trẻ bất hạnh ....................................................... 47 Tiểu kết chương 2 ...................................................................................... 53 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIÊM NGHỆ THUẬT VĂN XUÔI BÌNH NGUYÊN TRANG .................................................................................... 54 3.1. Nhân vật và cốt truyện ............................................................................. 54 3.1.1. Thế giới nhân vật đa dạng, đa diện, đa tính cách .................................. 54 3.1.2 Cốt truyện đơn tuyến .............................................................................. 60 3.2. Không gian, thời gian nghệ thuật ............................................................. 62 3.2.1. Không gian nghệ thuật đa dạng............................................................. 62 3.2.2 Thời gian nghệ thuật đa chiều ................................................................ 68 3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu ........................................................................... 71 3.3.1. Ngôn ngữ đằm thắm, giàu chất thơ ....................................................... 72 3.3.2. Giọng điệu đa dạng mà thống nhất ....................................................... 75 Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 78 KẾT LUẬN ................................................................................................ 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 81
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Đặc điểm thể loại là vấn đề luôn được giới nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu đặc điểm thể loại văn học là chỉ ra được những đặc trưng về nội dung cũng như nghệ thuật của thể loại đó thông qua những tác phẩm tiêu biểu. Từ khía cạnh cảm hứng nghệ thuật, có thể thấy được vấn đề của cuộc sống mà tác giả quan tâm, thấy được những tâm tư, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong từng tác phẩm, qua đó thấy được những đặc điểm nghệ thuật mang dấu ấn đặc trưng của tác giả. 1.2 Trong nền văn học đương đại của nước ta, có rất nhiều cây bút nữ trẻ đã khẳng định được tài năng cũng như phong cách của mình. Thế hệ nhà văn nữ cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX có thể kể đến những cái tên như: Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Lê Minh Khuê, Đoàn Lê, Trần Thùy Mai, Lý Lan, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ,... Thế hệ nữ tác giả mới từ những năm 2000 phải nhắc đến: Đỗ Hoàng Diệu, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Phan Hồn Nhiên, Phạm Điệp Giang, Võ Diệu Thanh, Nguyễn Ngọc Tư, Dương Thụy, Trang Hạ... Mỗi cây bút mang một màu sắc riêng, góp phần tạo dựng bức tranh chung của nền văn học đương đại Việt Nam. Việc khai thác đặc điểm thể loại của một tác giả trẻ là việc làm cần thiết để khẳng định phong cách nhà văn trong bức tranh đa dạng của nền văn học nước ta. 1.3 Bình Nguyên Trang là nhà văn trẻ, được đánh giá là một trong những cây bút nữ xuất sắc của nền Văn học đương đại Việt Nam. Chị viết khá nhiều thể loại, tên tuổi từ lâu đã gắn với thơ, nhưng gần đây chị mạnh dạn thử sức và đã khẳng định mình rất ấn tượng ở thể loại văn xuôi. Truyện ngắn, tản văn của Bình Nguyên Trang không viết về những điều lớn lao, trừu tượng, mà mỗi câu chuyện là một mảnh ghép cuộc sống bình dị, những cảm xúc rất đỗi đời
  8. 2 thường... Nói cách khác, cuộc sống được thu nhỏ vào trang viết bằng giọng văn đầy chất thơ. Chính tác giả từng chia sẻ “Mỗi cuốn sách là một góc nhỏ của cuộc đời người viết. Nó chứa đựng những buồn vui, trải nghiệm cá nhân người viết cuốn sách đó...”. Văn xuôi của Bình Nguyên Trang vì thế rất giản dị mà sâu sắc, để lại ấn tượng khó phai trong lòng độc giả. Theo các nhà phê bình, văn xuôi Bình Nguyên Trang vừa mang hơi thở cuộc sống, vừa mang nét ý nhị rất riêng vốn làm nên đặc trưng văn chương của chị. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có đề tài nào khai thác đặc điểm văn xuôi của Bình Nguyên Trang- một phương diện không thể thiếu để khẳng định tên tuổi nhà văn. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng đề tài “Đặc điểm văn xuôi Bình Nguyên Trang” nằm trong số những đề tài cấp thiết hiện nay. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 Về đặc điểm thể loại Bước đầu tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi xin được trình bày một số những công trình nghiên cứu dưới đây: Trong cuốn Lý luận văn học, GS. TS. Trần Đình Sử đã chỉ ra: “ Cái chính của truyện ngắn là gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người. Kết cấu của truyện ngắn thường là một sự tương phản,liên tưởng. Bút pháp trần thuật thường là chấm phá. Yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Ngoài ra, giọng điệu, cái nhìn cũng hết sức quan trọng, làm nên cái hay của truyện ngắn. Truyện ngắn là một thể loại dân chủ, gần gũi với đời sống hằng ngày, lại súc tích, dễ đọc, gắn liền với hoạt động báo chí, có tác dụng ảnh hưởng kịp thời trong đời sống.”.[36;tr317]. Có thể thấy, GS. TS Trần Đình Sử đã chỉ ra những đặc trưng về nội dung, kết cấu, dung lượng, giọng điệu,… của truyện ngắn. Ngày nay, truyện ngắn là một thể loại
  9. 3 rất phổ biến, tuy một truyện ngắn có dung lượng không nhiều nhưng nó lại đáp ứng được nhu cầu của độc giả cả về mặt nội dung và nghệ thuật. Một cái tên rất ấn tượng trong số những người làm nghiên cứu phê bình của nền văn học nước ta, có sự quan tâm đặc biệt đến thể loại truyện ngắn, đó chính là Bùi Việt Thắng. Anh đã cho ra đời rất nhiều những công trình viết về truyện ngắn như: Bình luận truyện ngắn (Nxb Văn học, 1999), Truyện ngắn- những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000), Truyện ngắn hiện thực 1930-1945 (Nxb Văn học, 2003). Trong những công trình nghiên cứu đó, Bùi Việt Thắng đã có cái nhìn khái quát về truyện ngắn từ định nghĩa, nguồn gốc, để từ đó xác định các yếu tố đặc trưng, các kiểu truyện ngắn như truyện ngắn cổ điển, truyện ngắn tâm tình, truyện ngắn kỳ ảo, truyện ngắn rất ngắn, truyện ngắn liên hoàn và biến thể... Có thể nói, những công trình nghiên cứu giá trị về thể loại truyện ngắn của Bùi Việt Thắng, đã đem đến cho người đọc những hiểu biết cụ thể về thể loại này. Ngoài những công trình tiêu biểu nêu trên, còn có rất nhiều những công trình nghiên cứu khoa học về những tác giả, tác phẩm tiêu biểu của thể loại truyện ngắn và tản văn. Người viết xin được nêu ra một số công trình sau: Trong luận văn khoa học “Đặc điểm truyện ngắn Đỗ Bích Thúy”, tác giả Nguyễn Xuân Thủy đã viết “Từ sau 1986 văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng chiếm một ưu thế lớn... Thời kỳ này, từ sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật, sự mở rộng về phạm trù thẩm mỹ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà có có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lý giải cuộc sống từ góc nhìn riêng, với những cách xử lý ngôn ngữ riêng. Tất cả những đặc điểm trên khiến truyện ngắn Việt Nam đương đại gặt được nhiều thành công trên nhiều phương diện”. Như vậy, cùng sự đổi mới tư duy, mở rộng chủ đề, nội dung hướng đến mọi
  10. 4 mặt trong đời sống, truyện ngắn có được vị trí nhất định trong nền văn học hiện đại Việt Nam[54,tr 10]. Ở luận văn “Đặc sắc tản văn Y Phương” của tác giả Sùng Thị Hương đã chỉ ra các đặc trưng của tản văn như sau: “Thứ nhất, tản văn là những tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm xúc có hoặc không có cốt truyện. Tản văn là những tác phẩm văn xuôi có dung lượng không lớn, phổ biến là những bài văn ngắn gọn, hàm xúc...nhằm vẽ lại một vài nét chân dung của ai đó hoặc kể lại một vài kỷ niệm từng ám ảnh trong ký ức... Tản văn có thể có hoặc không có cốt truyện... Thứ hai, tản văn bộc lộ rõ nét cái tôi của tác giả... Thứ ba, tản văn viết về người thật, việc thật và sử dụng hư cấu có hạn chế trong phạm vi và mức độ nhất định...”. [19,tr 9-11]. Ở luận văn này, tác giả đã chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của tản văn. Có thể thấy tản văn có những đặc điểm khá gần với truyện ngắn, thể loại này cũng được nhiều tác giả lựa chọn để gửi gắm cảm xúc của mình . Tác giả Cao Thị Thùy Nhung trong Đặc điểm tạp văn và tản văn Nguyễn Vĩnh Nguyên, đã khái quát về đặc điểm nội dung và hình thức của tản văn: “Về hình thức, tản văn có dung lượng ngắn gọn, hàm súc. Cho đến hôm nay, ngắn gọn vẫn là ưu thế của tạp văn, tạp văn lên ngôi do nhu cầu cần đọc nhanh, đọc nhiều thông tin của người đọc hiện nay. Hình thức tạp văn, tản văn tự do, phóng khoáng, không câu nệ các quy tắc về câu chữ, kết cấu. Về nội dung: tạp văn, tản văn có phạm vi thể hiện khá phong phú, đa dạng, từ những vấn đề chính trị, xã hội mang tính thời sự nóng hổi đến những cảm xúc đời thường rất giản dị, gần gũi. Những vấn đề phản ánh trong tạp văn, tản văn thường được biểu hiện dưới dạng một suy nghĩ, khoảnh khắc riêng tư, một thoáng liên tưởng bất ngờ, độc đáo mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả...” [31,tr14]. Nhìn chung, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ về đặc điểm thể loại văn xuôi mà cụ thể là truyện ngắn và tản văn. Những công trình nghiên
  11. 5 cứu đó là những tài liệu quý báu để tác giả luận văn tham khảo trong quá trình tìm hiểu về các tác phẩm văn xuôi của Bình Nguyên Trang. 2.2 Về tác phẩm của Bình Nguyên Trang Cho đến nay, chưa thấy có nhiều bài viết cũng như các công trình nghiên cứu khoa học về các tác phẩm của Bình Nguyên Trang. Nếu có chăng thì cũng chỉ là các bài nhận xét về tác phẩm, những lời giới thiệu sách hoặc là các bài phỏng vấn trên các trang báo. Trong bài báo Nhà thơ Bình Nguyên Trang: Không thể trả lời thỏa đáng cho câu hỏi về tình yêu của tác giả Khánh Thủy, Bình Nguyên Trang đã từng tâm sự về vai trò của văn chương đối với chị: “Tôi cần những cuộc trò chuyện mà ở đó, toàn bộ đời sống tinh thần của tôi được tỏ bày, được thỏa mãn, được sẻ chia. Viết có vai trò với tôi như vậy. Giây phút ngồi trước trang giấy và viết về nỗi buồn, niềm vui, trải nghiệm của mình trên đó, tôi hạnh phúc...” [52]. Có thể thấy, văn chương có vai trò rất quan trọng đối với Bình Nguyên Trang, từng câu chuyện, từng trang viết chính là những tâm tư, tình cảm mà chị muốn được sẻ chia và giãi bày. Được viết ra những dòng cảm xúc của mình dường như là một niểm hạnh phúc với Bình Nguyên Trang . Tác giả Mai Đô trong bài viết Bình Nguyên Trang nữ sĩ tài hoa đã nhận xét: “Những bài báo, những tản văn của Bình Nguyên Trang thấm đẫm chất thơ, trĩu nặng tình cảm. Với nhân vật, chị viết như tận lòng, da diết những nỗi niềm chia sẻ. Chị viết về người khác như viết cho chính mình. Trực giác cảm nhận với mạch văn quyến rũ làm nên một giọng điệu Bình Nguyên Trang... Cùng với tập thơ mới, Bình Nguyên Trang còn cho in tập tản văn “Hoa gạo cuối trời”. Vẫn là những nỗi niềm khắc khoải với thời gian và quê hương. Nhất là Mẹ, nguồn cảm xúc không bao giờ cạn kiệt trong tâm hồn nhà thơ...” [8].
  12. 6 Đọc những trang viết của Bình Nguyên Trang ta thấy trong đó là sự trăn trở, là những nỗi niềm băn khoăn, khắc khoải về thời gian, về hạnh phúc của đời người. Những nhân vật trong tác phẩm của chị phần lớn là những người phụ nữ bất hạnh luôn khát khao có được hạnh phúc, có được một bến đỗ bình yên trong cuộc đời. Bằng giọng điệu trữ tình, sâu lắng từng trang thơ, trang văn của chị cứ nhẹ nhàng, êm ái đến với người đọc. Tác giả Thanh Hằng, trong bài viết Nhà thơ Bình Nguyên Trang: viết văn đừng sống qua loa hời hợt thì nhấn mạnh một hình ảnh mang tính biểu tượng trong văn xuôi Bình Nguyên Trang :“Tôi có một tuổi thơ đồng đất, gắn với làng, với những gì giản dị, gần gũi nhất. Tôi cũng là đứa trẻ rời cha mẹ đi xa từ khi còn rất nhỏ. Và ký ức trong tôi, thường có màu đỏ của bông hoa gạo. Tôi yêu loài hoa này bằng một tình yêu rất khó gọi thành lời. Tôi nhớ những ngày tháng ba mưa phùn rét mướt, cái mùa đói khốn khó ở nông thôn, cũng là mùa hoa gạo bung đỏ một góc trời, như khát vọng của những phận người nơi quê nghèo, luôn muốn vươn lên, bay lên khỏi hiện thực mình đang sống. Trong hình ảnh bông hoa gạo có hình ảnh của bà tôi, của mẹ tôi, của chị tôi. Một hình ảnh rất thân phận, vừa cam chịu vừa không bằng lòng với số phận...” . [12]. Thời thơ ấu có lẽ là khoảng thời gian đẹp đẽ nhất, trong trẻo nhất của đời người. Và với Bình Nguyên Trang, thời thơ ấu của chị gắn với hình ảnh bông hoa gạo. Hình ảnh đó trở đi, trở lại nhiều lần trong các sáng tác của chị, bởi nó gắn với mùa sinh, gắn với một tuổi thơ khốn khó nhưng đầy ắp những kỉ niệm tươi đẹp. Đó là một vùng kí ức đậm sâu, một khoảng trời thương nhớ khôn nguôi. Hình ảnh bông hoa gạo đã trở thành một biểu tượng đẹp và rất đặc trưng của Bình Nguyên Trang.
  13. 7 Trong một bài báo khác: Nhà thơ Bình Nguyên Trang: Lặng lẽ 'Tìm trong cõi người' của phóng viên Việt Quỳnh - Báo Thể thao Văn hóa đã nhận xét: “Từ thơ đến ký ra ngoài đời, với Bình Nguyên Trang, văn sao người vậy. Bình Nguyên Trang (tên thật là Vũ Quỳnh Trang) lưu lạc đến cõi nhân gian này một cách giản đơn là làm nghề viết, và nếm náp hương vị đời mà chẳng màng tiền bạc, công danh... Mọi sự đến với chị bình thản như mọi ổn thỏa từ công việc đến gia đình. Không cần thắp sáng cho đám đông, chị tỏa rạng từ trái tim, tràn ra nụ cười, lan lên trang viết. Và thế là hạnh phúc vừa đủ.” [33]. Bình Nguyên Trang là một người phụ nữ tràn đầy năng lượng, một nhà báo nhiệt tình, sôi nổi và rất yêu nghề. Chị đến với nghề không phải vì công danh, tiền bạc mà đơn giản muốn được giãi bày những cảm xúc của mình trên những trang viết. Với Bình Nguyên Trang, còn được viết là còn hạnh phúc, và còn sống chị vẫn sẽ gắn bó với nghề. Trong bài viết:Triết lý hạnh phúc trong "Mùa đom đóm mở hội" , tác giả Lương Sỹ Cầm đã nhận xét: “Gấp lại tập truyện, nghĩ về các nhân vật nữ được tác giả miêu tả, tôi hình dung cả một cánh rừng bị cơn bão quật đổ tan tác, cây ngã đè lên nhau ngổn ngang. Bình Nguyên Trang đã lần mò xem xét từng cây, nhặt nhạnh từng cành để tái hiện cơn bão số phận ập vào cuộc đời của những nhân vật phụ nữ. Suốt tập truyện ngắn, chẳng tìm thấy một niềm vui.” [4]. Những nhân vật nữ trong tác phẩm của Bình Nguyên Trang đa phần là những người phụ nữ bất hạnh. Họ cam chịu, hi sinh nhưng lại luôn phải chịu những thiệt thòi, đau khổ trong cuộc sống. Bình Nguyên Trang luôn bày tỏ sự đồng cảm, xót xa và trân trọng cho những thân phận bất hạnh này. Mở đầu tập truyện ngắn Mùa đom đóm mở hội, nhà văn Trần Đức Tiến đã có những lời nhận xét cũng là lời giới thiệu sách: “Bình Nguyên Trang thành
  14. 8 công khi kể những câu chuyện rất “đời” với những chi tiết vừa đủ gây ấn tượng bằng giọng kể dung di đầy nữ tính. Nhưng có lẽ chị còn hay hơn khi không chăm chú vào bố cục, vào tình tiết có khả năng gây kịch tính của một câu chuyện có đầu có cuối...” [53,tr4]. Nguồn cảm hứng sáng tác của Bình Nguyên Trang là từ những câu chuyện bình dị trong đời sống, là từ chính những con người sống xung quanh chị. Những câu chuyện của chị đơn giản là kể lại những gì chị đã chứng kiến, đã trải qua. Với lối viết dung dị, không cầu kì, hoa mỹ, không quá quan trọng đến cốt truyện, bố cục,…những trang viết của Bình Nguyên Trang cứ nhẹ nhàng đến với người đọc, để lại những ấn tượng sâu sắc. Trong phạm vi tìm hiểu của chúng tôi, có thể thấy, những bài viết về Bình Nguyên Trang vẫn còn khá hạn chế. Đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào về các tác phẩm của chị nói chung và văn xuôi của chị nói riêng. Do đó, khi thực hiện công trình nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ trong việc tìm hiểu về nội dung cũng như phong cách nghệ thuật trong các tác phẩm văn xuôi của Bình Nguyên Trang. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Ở đề tài này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là đặc điểm văn xuôi của Bình Nguyên Trang trên hai phương diện đặc điểm về nội dung và nghệ thuật. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Đề tài xem xét các đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong bao gồm 2 tập truyện ngắn: Chuyến tàu thời gian (NXB Văn học năm 2000); Mùa đom đóm mở hội (NXB Văn học năm 2012) và tập tản văn Hoa gạo cuối trời (NXB Phụ nữ năm 2016). 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
  15. 9 Thứ nhất, tìm hiểu về đặc trưng thể loại, cụ thể là đặc điểm của hai thể loại truyện ngắn và tản văn. Tìm hiểu về tác giả Bình Nguyên Trang nói chung và hành trình sáng tác cũng như quan niệm văn chương của chị. Thứ hai, tìm hiểu về phương diện nội dung các tác phẩm văn xuôi của Bình Nguyên Trang. Thứ ba, tìm hiểu về phương diện nghệ thuật các tác phẩm văn xuôi của Bình Nguyên Trang. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp thi pháp học. - Phương pháp tiểu sử. - Phương pháp so sánh. Ngoài ra, chúng tôi áp dụng những thao tác khoa học: phân tích, trích dẫn tác phẩm để chứng minh cho từng luận điểm của đề tài. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai đề tài theo 3 chương chính: - Chương 1: Một số vấn đề chung. - Chương 2: Cảm hứng về cuộc sống và con người trong văn xuôi Bình Nguyên Trang. - Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật trong văn xuôi của Bình Nguyên Trang. 6. Đóng góp của luận văn
  16. 10 1. Về lý luận: Luận văn mong muốn đóng góp vào lý luận về thể loại văn học, phong cách của tác giả, góp phần làm giàu lý luận văn học. 2. Về thực tiễn: Kết quả của luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập văn học đương đại của giảng viên và sinh viên tại các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng.
  17. 11 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Các vấn đề thể loại 1.1.1. Truyện ngắn và các đặc điểm của truyện ngắn 1.1.1.1. Khái niệm truyện ngắn Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyện ngắn. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, truyện ngắn được xác định là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập đến hầu hết các phương diện đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền mạch không nghĩ” [2;tr16]. Từ điển thuật ngữ văn học lại cũng giải thích “Truyện ngắn là hình thức tự sự loại nhỏ; truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội” [36;tr14]. Các định nghĩa trên bổ sung cho nhau để làm nổi bật rõ những đặc trưng cơ bản nhất của truyện ngắn. Theo đó, trong luận văn này, người viết đi theo khái niệm của Từ điển văn học để triển khai các chương 2 và 3. 1.1.1.2. Đặc trưng của truyện ngắn Trước hết, truyện ngắn có dung lượng nhỏ nhưng lại có sức chứa, sức mở lớn. “Sở dĩ truyện ngắn ngắn, sở dĩ người ta có thể viết ngắn là vì người ta đã biết quá nhiều. Nhiều đến mức có thể tước bỏ tất cả những gì phù phiếm, không cốt lõi, không quan trọng. Phải có rất nhiều nguyên liệu thì mới có thể chưng cất. Truyện ngắn vì nó là tác phẩm nghệ thuật chưng cất, chứ không phải là nguyên liệu thô” [10;tr16]. Tuy nhiên, “dung lượng truyện ngắn hiện nay rất lớn, trong độ ba trang mấy nghìn chữ mà rõ mặt cuộc đời, một kiếp
  18. 12 người, một thời đại…Các truyện ngắn bây giờ rất nặng, dung lượng của nó là dung lượng của cả một cuốn tiểu thuyết, bởi vì cái đặc sắc của thể loại buộc nó phải dồn nén lại, cho đến sắc lịm, nhọn hoắt. Như vậy dung lượng hay chất lượng nghệ thuật của truyện ngắn bình đẳng với tiểu thuyết” [10;tr16]. Truyện ngắn thường có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, được kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích hơn các câu truyện dài như tiểu thuyết. Truyện ngắn là tiếng nói nhanh nhạy nhất, phản ánh thời sự các vấn đề nóng hổi của thời đại, con người một cách chính xác. Vì là một thể loại năng động nên truyện ngắn hiện nay mang trong mình nhiều dấu hiệu không ổn định, cách xây dựng truyện ngắn hiện nay uyển chuyển đa dạng hơn, xu hướng tự nới mở, không ngừng cách tân trong cách thức diễn đạt, khiến truyện ngắn linh hoạt hơn. Đây cũng chỉ là những khả năng, đặc điểm mang tính bản thể của thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn đã tạo cho bản thân thể loại những giá trị riêng biệt. Mỗi truyện ngắn gây một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người, nói như D. Boulanger là: “Đánh thức và cuốn hút cả năm giác quan của người đọc”. Tạo được ấn tượng nổi bật nhất và những chiều sâu chưa nói hết, đó chính là điều khiến truyện ngắn luôn hấp dẫn bạn đọc. Truyện ngắn phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó, qua con người, hành vi, sự kiện được miêu tả và được kể lại bởi người kể chuyện (trần thuật) nào đó. Cốt truyện với một chuỗi các tình tiết, sự kiện, biến cố xảy ra liên tiếp tạo nên sự vận động của hiện thực được phản ánh, góp phần khắc họa tính cách nhân vật, số phận từng cá nhân. Nhà văn Ma Văn Kháng đã ý thức rõ về điều này: “Vấn đề là anh tổ chức sao cho truyện ngắn của anh thành một lát cắt gọn ghẽ. Như người ta vẫn nói, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào” [10;tr17]. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã so sánh nó với tiểu thuyết: “Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là cái mặt cắt
  19. 13 của dòng đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở người viết một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kỹ thuật tinh xảo – kĩ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo, dồn nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, thật tự nhiên” [10;tr17]. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Nhân vật được miêu tả chi tiết và sinh động trong mối quan hệ với hoàn cảnh, với môi trường xung quanh. Truyện không bị gò bó về không gian, thời gian, có thể đi sâu vào tâm trạng con người, những cảnh đời cụ thể. “Trong một tác phẩm nếu là truyện ngắn, do lệ thuộc vào số trang eo hẹp, cốt truyện tập trung, sự kiện dồn dập, đường dây chặt chẽ, cho nên số lượng phân phối nhân vật cũng không phải nhiều” [10;tr17]. Paul Bourget - nhà văn và nhà phê bình Pháp thế kỷ 20 nhận định về thể loại trên: "Phong cách của truyện ngắn và của tiểu thuyết rất khác nhau. Phong cách của truyện ngắn là thuộc về tình tiết. Cái tình tiết mà truyện ngắn dự định diễn tả, truyện ngắn đã tách nó ra, làm cô lập nó lại. Các tình tiết mà cả dãy đã làm nên đối tượng của tiểu thuyết, tiểu thuyết đã làm ngưng kết chúng, nối chúng lại với nhau. Tiểu thuyết tiến hành thông qua các triển khai, còn truyện ngắn thông qua sự tập trung... Truyện ngắn là độc tấu. Tiểu thuyết là giao hưởng" [10;tr17]. Truyện ngắn ít nhân vật, nhà văn không thể miêu tả quá trình phát triển tính cách của nhân vật từ trưởng thành, biến đổi, đấu tranh hay dằn vặt như trong tiểu thuyết, mà chỉ đi sâu vào một vài khía cạnh, một thời điểm trong cuộc đời nhân vật. Dù không được khắc họa rõ về ngoại hình, lý lịch nhưng người ta vẫn hình dung được gương mặt tinh thần tương đối trọn vẹn của nhân vật và gây được một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và con người. Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện ngắn là
  20. 14 một mảnh nhỏ của thế giới. Có nghĩa truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa những tính cách điển hình, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Truyện ngắn sử dụng nhiều hình thức ngôn ngữ khác nhau. Ngoài ngôn ngữ người kể chuyện còn có ngôn ngữ nhân vật. Bên cạnh lời đối đáp còn có lời độc thoại nội tâm. Lời kể khi thì ở bên ngoài khi thì nhập tâm vào nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện gần với ngôn ngữ đời sống. Tóm lại, truyện ngắn đem đến cho chúng ta bức tranh tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống. Tuy dung lượng nhỏ nhưng thông qua những biến cố của đời sống nhân vật, nhà văn đã thể hiện những khía cạnh đáng quan tâm của đời sống xã hội. Vì thế, truyện ngắn có sức hấp dẫn riêng và ngày càng có vị trí quan trọng trong văn học hiện đại. 1.1.2. Tản văn và các đặc điểm của tản văn 1.1.2.1 Khái niệm tản văn Tản văn là thể loại văn học “chú trọng việc ghi lại những gì đã trải qua, đã cảm thấy, thể nghiệm liên tưởng của cái tôi hoặc ghi lại những câu chuyện, những trạng thái cảnh vật hoặc trữ tình hoài niệm. Đây là thể loại tác phẩm văn học giàu tính trữ tình, rộng rãi về đề tài, tinh túy về nội dung, khuôn khổ tương đối nhỏ” [36;tr391]. Tác giả còn có thể dựa vào nội dung cần viết mà tự do điều chỉnh, biến hóa tùy ý. Tất cả những điều chừng như tủn mủn đều có thể là cái cớ cho một tản văn ra đời, ví dụ: một sự việc xảy ra trong gia đình, một âm thanh vang lên cuối phố,…Những điều đó hòa với
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2