Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Khuynh hướng sử thi trong tiểu thuyết của Chu Lai(qua hai tác phẩm Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ)
lượt xem 7
download
Luận văn này nghiên cứu khuynh hướng sử thi trong tiểu thuyết của Chu Lai, chúng tôi đặt ra mục tiêu là nhận diện được sự tiếp nối những đặc trưng thi pháp của tiểu thuyết sử thi hiện đại Việt Nam trong sáng tác của Chu Lai, đồng thời cũng chỉ ra những vận động trong sáng tác của ông từ mô hình tiểu thuyết sử thi đến mô hình tiểu thuyết “phi sử thi”. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Khuynh hướng sử thi trong tiểu thuyết của Chu Lai(qua hai tác phẩm Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ)
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN HỮU ĐINH KHUYNH HƯỚNG SỬ THI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI (QUA HAI TÁC PHẨM KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG VÀ MƯA ĐỎ) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Thái Nguyên – 2018
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN HỮU ĐINH KHUYNH HƯỚNG SỬ THI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI (QUA HAI TÁC PHẨM KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG VÀ MƯA ĐỎ) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.220.121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: NGUYỄN ĐỨC HẠNH Thái Nguyên – 2018
- i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Hữu Đinh
- ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí Truyền thông và Văn học,Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn là PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Hữu Đinh
- iii MỤC LỤC TRANG BÌA PHỤ LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ...........................................................................................................................ii MỤC LỤC................................................................................................................................iii MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 2 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ............................................................................... 5 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 5 5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................ 6 6. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................................... 6 7. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 7 Chương 1: TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI TRONG BỘ PHẬN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ...................................................................................................................... 8 1.1. Nhà văn Chu Lai sự nghiệp sáng tác, quan điểm sáng tác và tiểu thuyết của nhà văn ......................................................................................................................................... 8 1.1.1. Khái lược về nhà nhà văn Chu Lai ......................................................................... 8 1.1.2. Khái quát về tiểu thuyết của Chu Lai .................................................................. 11 1.1.3. Vị trí đặc biệt của Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ trong tiểu thuyết của Chu Lai ............................................................................................................................... 15 1.2. Tiểu thuyết của Chu Lai trong bộ phận tiểu thuyết Việt Nam hiện đại từ 1975 đến nay................................................................................................................................ 17 1.2.1. Khái quát về tiểu thuyết Việt Nam hiện đại từ 1975 đến nay ........................... 17 1.2.2. Vị trí và đóng góp của tiểu thuyết Chu Lai trong bộ phận tiểu thuyết Việt Nam hiện đại từ 1975 đến nay ......................................................................................... 20 Chương 2: SỰ GIAO THOA GIỮA TIỂU THUYẾT SỬ THI HÓA VÀ TIỂU THUYẾT PHI SỬ THI TRONG HAI TIỂU THUYẾT KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG VÀ MƯA ĐỎ ............................................................................................................................................ 28 2.1. Tiểu thuyết của Chu Lai trong loại hình tiểu thuyết sử thi Việt Nam hiện đại .. 28 2.1.1. Khái niệm tiểu thuyết sử thi hiện đại ................................................................... 28
- iv 2.1.2. Sự giao thoa đặc trưng thể loại giữa sử thi và tiểu thuyết trong loại hình tiểu thuyết sử thi Việt Nam hiện đại....................................................................................... 29 2.1.3. Tiểu thuyết của Chu Lai vừa tiếp nối vừa “phá vỡ” đặc trưng của tiểu thuyết sử thi Việt Nam hiện đại .................................................................................................. 31 2.2. Sự tiếp nối và “phá vỡ” khuynh hướng sử thi trong hai tiểu thuyết của Chu Lai ....................................................................................................................................... 36 2.2.1. Sự tiếp nối thi pháp tiểu thuyết sử thi Việt Nam hiện đại trong hai tiểu thuyết của Chu Lai ........................................................................................................................ 36 2.2.2. Sự “phá vỡ” thi pháp tiểu thuyết sử thi Việt Nam hiện đại trong hai tiểu thuyết của Chu Lai ............................................................................................................ 57 Chương 3: NHỮNG SÁNG TẠO NGHỆTHUẬT CỦA CHU LAI TRONG KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG VÀ MƯA ĐỎ .................................................................................. 70 3.1. Sáng tạo ở kết cấu nghệ thuật có sự giao thoa kết cấu tiểu thuyết với kịch bản điện ảnh .............................................................................................................................. 70 3.1.1. Kết cấu tiểu thuyết có điểm tương đồng với kết cấu kịch bản điện ảnh.......... 71 3.1.2. Sử dụng một số thủ pháp kỹ thuật của điện ảnh trong hai tiểu thuyết ............. 74 3.1.3. Tiểu thuyết của Chu Lai có những yếu tố hấp dẫn của một kịch bản điện ảnh ....................................................................................................................................... 75 3.2. Sáng tạo ở nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................... 79 3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật .............................................................. 80 3.2.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật .................................................... 82 3.3. Sáng tạo ở ngôn ngữ nghệ thuật .............................................................................. 87 3.4. Sáng tạo ở giọng điệu nghệ thuật ............................................................................ 92 3.5. Sáng tạo ở phương thức sử dụng yếu tố tâm linh trong trần thuật ...................... 95 KẾT LUẬN............................................................................................................................. 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................... 101
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Khuynh hướng sử thi là một trong những đặc điểm nổi bật của nền văn học cách mạng Việt Nam trong suốt 30 năm chiến tranh 1945 – 1975. Từ sau năm 1975, nhất là sau công cuộc đổi mới được đề xuất từ Đại hội VI năm 1986 của Đảng cộng sản Việt Nam, cùng với sự đổi mới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, văn học Việt Nam cũng từng bước tìm con đường thay đổi để hòa nhịp vào bản đồng ca chung của công cuộc đổi mới toàn diện ấy. Nhìn vào thành tựu của văn học Việt Nam giai đoạn này, chúng ta dễ nhận ra những đặc điểm khác biệt trong phương thức phản ánh con người và cuộc sống so với văn học giai đoạn trước. Tuy nhiên như một quy luật tất yếu, “quán tính” vận động của văn học sử thi Việt Nam hiện đại 1945 – 1975 vẫn ảnh hưởng và chi phối ít nhiều đến văn học Việt Nam sau 1975 tuy mức độ có khác. Khuynh hướng sử thi trong văn học 1945 – 1975 vẫn được tiếp tục trong các sáng tác về đề tài chiến tranh của một số nhà văn như Chu Lai, Bảo Ninh, Dương Hướng … nhưng đã có những vận động, biến đổi mang tính lịch sử. Tìm hiểu khuynh hướng này trong các sáng tác về chiến tranh của Chu Lai là một việc làm cần thiết. Chu Lai là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam đương đại. Là một nhà văn có khối lượng tác phẩm đồ sộ viết về chiến tranh nhưng chưa có một công trình nghiên cứu hay luận văn khoa học nào trực tiếp đề cập và nghiên cứu chuyên sâu khuynh hướng sử thi trong tác phẩm cụ thể của Chu Lai. Mặt khác, qua khảo sát một số tiểu thuyết của Chu Lai chúng tôi nhận thấy khuynh hướng sử thi vẫn được tiếp tục trong cảm hứng nghệ thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ giọng điệu nghệ thuật.v.v. Vậy nên chúng tôi chọn đề tài “Khuynh hướng sử thi trong tiểu thuyết của Chu Lai(qua hai tác phẩm Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ)” làm đối tượng nghiên cứu. 1.2. Khảo sát một số sáng tác của Chu lai, chúng tôi cũng nhận thấy rằng chúng vừa nằm trong khuynh hướng sử thi vừa có sự “rạn vỡ” những đặc trưng cơ bản của khuynh hướng sáng tác này. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải chỉ rõ những biểu hiện của khuynh hướng sử thi và sự “rạn vỡ” đó, để có những đánh giá về sự tiếp nối nền văn học
- 2 chiến tranh trong văn học Hậu chiến ở Việt Nam, cùng những đóng góp cho công cuộc đổi mới tiểu thuyết Việt Nam của Chu Lai. 1.3. Là một giáo viên Ngữ văn trong trường Trung học phổ thông, nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng tôi có thêm tư liệu tham khảo bổ ích để góp phần giảng dạy tốt hơn phần Văn học Việt Nam hiện đại. 2. Lịch sử vấn đề Chu Lai là một hiện tượng văn học khá nổi bật trong nền văn học Việt Nam từ những thập niên 80 của thế kỉ XX đến nay. Các tác phẩm của ông đã thu hút được sự quan tâm của bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Về tiểu thuyết của Chu Lai, đã có khá nhiều bài báo, luận án, luận văn tập trung nghiên cứu nhiều khía cạnh trong thi pháp tiểu thuyết của ông. Qua các công trình ấy chúng tôi thấy các nghiên cứu đã tập trung làm rõ một số vấn đề sau: Thứ nhất, về nội dung tư tưởng trong tiểu thuyết của Chu Lai: Tiểu thuyết của Chu Lai đã có sự mở rộng, đi sâu vào đề tài chiến tranh và người lính. Hầu hết các sáng tác của ông đều viết về chiến tranh và người lính với cái nhìn có chiều sâu và đậm tính nhân bản. Đa số các nhà nghiên cứu đều thừa nhận thành công này trong sáng tác của Chu Lai. Tác giả Bùi Việt Thắng đã khẳng định: “Tiểu thuyết của Chu Lai giới thiệu nhiều vấn đề đáng quan tâm trên đề tài chiến tranh và ý nghĩa như một vấn đề lịch sử”[62]. Tác giả Nguyễn Hòa cho rằng: “Với khúc bi tráng mới, Chu Lai muốn thể hiện cách nhìn của anh về chiến tranh qua những tình huống bi kịch để chiêm nghiệm xem con người đã làm như thế nào để vượt thoát ra khỏi những tình huống bi kịch ấy” [30]. Tác giả Nguyễn Thị Thanh trong bài viết: Sự đổi mới quan niệm về đề tài chiến tranh của các nhà văn Việt Nam sau 1975 đã nhận xét đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Chu Lai: “Chu Lai là một trong những nhà văn Việt Nam đầu tiên nói về bản chất của chiến tranh khác với quan niệm truyền thống”[60]. Tác giả Hoàng Thụy Anh từ một tác phẩm cụ thể lại đưa ra nhân xét về sự giao thoa giữa chất sử thi và chất tiểu thuyết trong sáng tác của Chu Lai: “"Mưa đỏ" đậm chất sử thi, là một bản giao hưởng bi tráng, ở đó, Chu Lai không chỉ phản ánh tinh thần, sức mạnh chiến đấu mà còn thẳng thắn chỉ ra những tổn thất, hi sinh rất lớn và có cái nhìn công bằng hơn khi nói về những người bên kia chiến tuyến...”[3].
- 3 Số phận của người lính sau chiến tranh đã được Chu Lai đào sâu bằng cái nhìn trung thực và dũng cảm. Những số phận, những mảnh đời còn nhiều khuất lấp đã được nhà văn phát hiện và đúc kết thành những triết lí nhân sinh sâu sắc. Nhà văn Ma Văn Kháng cho rằng: tiểu thuyết của Chu Lai đã“ đối mặt trực tiếp với những vấn đề bức bối của đời sống xã hội hôm nay”[53]. Tác giả Nguyễn Thị Thanh khẳng định: “Với một loạt tác phẩm…Chu Lai vừa tái hiện cảnh chiến trận vừa đề cập tới những vấn đề có liên quan mật thiết tới người lính hậu chiến: việc mưu sinh, chỗ đứng trong xã hội, cách ứng xử với những người từng vào sinh ra tử vì cuộc sống hòa bình hôm nay”[59,tr.58]. Tiểu thuyết của Chu Lai đã thể hiện sự đổi mới quan niệm về hiện thực và con người. Đa số các nhà nghiên cứu đều khẳng định Chu Lai đã phản ánh chiến tranh và người lính với đầy đủ những biểu hiện chân thực nhất. Tác giả Lê Thành Nghị cho rằng“Chu Lai đã không ngần ngại đưa ra ánh sáng những điều lâu nay bị giấu kín”[50]. Trong luận văn thạc sỹ “Tiểu thuyết Chu Lai thời kỳ đổi mới”, tác giả Nguyễn Văn Chung khẳng định Chu Lai “từ cái nhìn sâu sắc về hiện thực chiến tranh” đã “đi đến cái nhìn đa diện về hiện thực thời bình” từ “Thân phận con người trong chiến tranh” đến “thân phận con người trong cuộc sống đời thường”. Tác giả Nguyễn Hoàng Sáu cho rằng: Bằng ngòi bút đậm chất văn miêu tả, không ôm đồm đi vào “bề rộng” của không gian cuộc chiến, mà đi vào chiều sâu của những chi tiết, những nhân vật; lột tả tính chất khốc liệt và bi tráng, tác giả nhập hồn vào từng nhân vật để giúp bạn đọc thấy được tâm trạng giằng xé trong từng cảnh huống: Cả sự dũng cảm và đớn hèn, cái thiện và cái ác,… sự bùng nổ những trạng thái tích cực và tiêu cực… của những con người từng giây, từng phút phải đối mặt với sự hy sinh, chết chóc đến bất cứ lúc nào”[56]. Các tác giả: Hồng Diệu[6] và [7], Nguyễn Hương Giang[20], Nguyệt Hà[21], Phạm Thúy Hằng[24]... cũng đã khẳng định những thành công trong việc đổi mới quan niệm về hiện thực và con người trong tiểu thuyết của Chu Lai. Thứ hai, về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Chu Lai: Các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao những tìm tòi, cách tân nghệ thuật tiểu thuyết của Chu Lai. Đáng chú ý là nhận xét của giáo sư Phan Cự Đệ: “Tiểu thuyết của Chu Lai “không chỉ đa dạng trong các phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, dòng ý thức, nghệ thuật đồng hiện”[14]. Từ một tác
- 4 phẩm cụ thể, tác giả Nguyễn Thanh Tú đánh giá: “Chu Lai trong Mưa đỏ đã đẩy ngòi bút lách sâu, hóa thân vào nhân vật, gọi ra ở nhân vật những trăn trở, dằn vặt rất con người không chỉ ở phía ta mà cả ở phía địch”[78]. Các phương diện khác trong nghệ thuật tiểu thuyết của Chu Lai như cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu cũng đã được quan tâm. Các tác giả Phạm Văn Mạnh[49], Tạ Thị Thanh Thùy[74], Trần Thị Thanh Thủy[75], Phan Thị Thanh Trúc[77] đã nghiên cứu về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai, trong đó các tác giả đã phân tích các kiểu nhân vật cũng như những thành công trong nghệ thuật xây dựng của nhà văn. Tác giả Nguyễn Thị Thái[58] cũng đã phân tích chi tiết những đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết Chu Lai dưới góc độ ngôn ngữ học... Trong một công trình dày dặn khác – Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai của PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh, tác giả đã tập trung nghiên cứu cảm hứng nghệ thuật, kiểu nhân vật trung tâm, không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai. Trong đó, tác giả đã chỉ ra rằng tiểu thuyết của Chu Lai vừa có sự kết hợp giữa“cảm hứng anh hùng và cảm hứng lãng mạn hô ứng tương giao – tương giao với kiểu nhân vật anh hùng – lãng tử trong chiến tranh” với “cảm hứng bi kịch và cảm hứng cảm thương tương giao hô ứng với kiểu nhân vật bi kịch” và “cảm hứng phê phán hô ứng – tương giao với kiểu nhân vật phản diện – lưỡng diện hoặc tha hóa”. Về không gian nghệ thuật, tác giả cũng chỉ rõ sự vận động từ “không gian sử thi” sang “không gian tiểu thuyết” trong sáng tác của Chu Lai. Cụ thể là sự vận động từ “không gian xã hội đa sắc thái” đến “không gian vật thể trực tiếp”, “không gian tâm tưởng”, “không gian ảo giác – tâm linh” đậm chất tiểu thuyết. Về thời gian nghệ thuật, tác giả cũng khẳng định sự chuyển biến từ “kiểu thời gian lịch sử - sự kiện” với “kết cấu phân tuyến dối lập” rõ ràng sang “kiểu thời gian nghệ thuật đa tuyến”, thời gian “đơn tuyến đồng hiện”, “kiểu thời gian đơn tuyến – hoài niệm”…Từ đó tác giả đi đến khẳng địnhsự chuyển biến từ mô hình tiểu thuyết sử thi sang mô hình tiểu thuyết phi sử thi trong hai chặng đường sáng tác của Chu Lai:“chất sử thi ngày một nhạt đi cùng với kinh nghiệm cộng đồng, chất tiểu thuyết ngày càng đậm lên cùng với sự chiếm lĩnh vị trí chủ đạo của kinh nghiệm cá nhân”[25,tr.20]. Như vậy, đã có rất nhiều vấn đề trong tiểu thuyết của Chu Lai được quan tâm khai thác. Thấp thoáng trong các công trình ấy, với những mức độ khác nhau, vấn đề khuynh
- 5 hướng sử thi trong tiểu thuyết của Chu Lai đã được đề cập. Tuy nhiên, một cái nhìn chuyên sâu, thấu đáo về khía cạnh này ở những tác phẩm cụ thể còn vắng bóng. Với mong muốn tìm hiểu cặn kẽ về khuynh hướng sử thi trong tiểu thuyết của Chu Lai, chúng tôi mạnh dạn đi vào khoảng trống này bước đầu với hai tiểu thuyết Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ, và hi vọng sẽ còn mở rộng để tìm hiểu vấn đề này trong tiểu thuyết Việt Nam trong 30 năm đổi mới. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu khuynh hướng sử thi và sự vận động biến đổi của nó trong hai tiểu thuyết Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ của Chu Lai ở các phương diện sau: Quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người; Cảm hứng nghệ thuật; Nghệ thuật xây dựng nhân vật; Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật. 3.2. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu khuynh hướng sử thi trong tiểu thuyết của Chu Lai, chúng tôi đặt ra mục tiêu là nhận diện được sự tiếp nối những đặc trưng thi pháp của tiểu thuyết sử thi hiện đại Việt Nam trong sáng tác của Chu Lai, đồng thời cũng chỉ ra những vận động trong sáng tác của ông từ mô hình tiểu thuyết sử thi đến mô hình tiểu thuyết “phi sử thi”. Qua đó khẳng định thành tựu, đóng góp của nhà văn với văn xuôi Việt Nam hiện đại. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục tiêu như trên, nhiệm vụ của đề tài là phải khảo sát những đặc điểm ở một số phương diện trong nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong tiểu thuyết Chu Lai, chỉ ra những kế thừa thi pháp tiểu thuyết sử thi hiện đại và những đóng góp riêng của nhà văn trong nỗ lực đổi mới và cách tân nghệ thuật tiểu thuyết. Làm rõ hành trình chuyển đổi từ tiểu thuyết sử thi sang tiểu thuyết phi sử thi của tác giả – sự chuyển đổi của Chu Lai không phải là tuyệt đối(sau nhiều tác phẩm có xu hướng phi sử thi lại có những tác phẩm đậm chất sử thi). Từ đó khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn, vị trí tiểu thuyết của Chu Lai trong văn xuôi đương đại.
- 6 4.2. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp văn hóa lịch sử: Phương pháp văn hóa lịch sử được sử dụng để làm rõ sự gắn bó và biến đổi của tiểu thuyết Chu Lai trong môi trường văn hóa lịch sử Việt Nam từ sau 1975 đến nay. - Phương pháp xã hội học: Phương pháp xã hội học được sử dụng để nhận diện mối quan hệ giữa nội dung phản ánh trong tiểu thuyết Chu Lai với đời sống xã hội qua các thời kì từ sau 1975 đến nay. - Phương pháp Thi pháp học: Phương pháp Thi pháp học được sử dụng để phân tích các yếu tố nội dung và nghệ thuật trong kết cấu hai tiểu thuyêt Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ. - Phương pháp Tự sự học: Phương pháp Tự sự học được dùng để tìm hiểu các phương tiện và kĩ thuật trần thuật trong hai tiểu thuyết Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ. - Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các thao tác nghiên cứu quen thuộc như: thống kê, phân tích, so sánh... 5. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn trong hai tiểu thuyết Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ của Chu Lai. Chúng tôi sẽ so sánh với một số tiểu thuyết khác của Chu Lai và của một số nhà văn cùng thế hệ với ông như Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Bảo Ninh... 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba chương: Chương 1: Tiểu thuyết của Chu Lai trong bộ phận tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Chương 2: Sự giao thoa giữa tiểu thuyết sử thi hóa và tiểu thuyết phi sử thi trong hai tiểu thuyết Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ Chương 3: Một số sáng tạo nghệ thuật của Chu Lai trong Khúc bi tráng cuối cùng và Mưa đỏ
- 7 7. Đóng góp của luận văn Từ cái nhìn bao quát về tiểu thuyết của Chu Lai, luận văn đi sâu tìm hiểu hai vấn đề lớn là sự kế thừa mô hình nghệ thuật theo khuynh hướng sử thi của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 và sự cách tân trong tiểu thuyết của Chu Lai qua việc làm “rạn vỡ” khuynh hướng sử thi để thấy được đóng góp của nhà văn đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Đi từ một trường hợp cụ thể, chúng tôi hi vọng đóng góp một cái nhìn mới về xu thế vận động trong thi pháp tiểu thuyết của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
- 8 NỘI DUNG Chương 1: TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI TRONG BỘ PHẬN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1.1. Nhà văn Chu Lai sự nghiệp sáng tác, quan điểm sáng tác và tiểu thuyết của nhà văn 1.1.1. Khái lược về nhà nhà văn Chu Lai *Tiểu sử: Chu Lai tên tên khai sinh là Chu Ân Lai(sau đổi là Chu Văn Lai), sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên nay là huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Ông là nhà văn chiến sĩ với quân hàm đại tá, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Chu Lai xuất thân trong một gia đình trí thức yêu nước. Cha ông là nhà viết kịch Học Phi(một trong những hạt nhân đầu tiên của hội Văn hóa cứu quốc - Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2001) với những vở kịch cách mạng nổi tiếng như: Một đảng viên, Chị Hòa, Cô hàng rau, Bài ca nhân nghĩa... Anh trai của ông – nhà soạn kịch Hồng Phi cũng là một nhà biên kịch tiêu biểu trong làng sân khấu đương đại nước nhà. “Dòng máu” văn chương đã thấm vào Chu Lai từ những ngày thơ bé như lời tâm sự của ông: "Cả nhà tôi khi đó sống chật chội trong không gian chừng hơn hai chục mét vuông, tôi có khi ngủ trong gậm giường vẫn nghe được những câu đàm đạo văn chương của cha và những người bạn văn nghệ cùng thời với ông như Thế Lữ, Đào Mộng Long. Những ngôn ngữ nghệ thuật ấy "nhập" vào anh em tôi từ tấm bé"(theo Nhà văn Chu Lai và những "đồng nghiệp" trong gia đình, nguồn http://vnca.cand.com.vn). Thêm nữa, gia đình ông cũng chịu những đau thương mất mát như bao gia đình trên đất nước Việt Nam những năm chống Mỹ(ông có hai người anh là liệt sĩ). Hoàn cảnh gia đình như thế đã bước đầu hình thành tài năng và tâm huyết nghệ thuật cho nhà văn Chu Lai. Cuộc đời nhà văn trải qua những bước ngoặt quan trọng, quyết định đến việc tạo nên một Chu Lai tên tuổi như hôm nay. Chu Lai khởi đầu sự nghiệp với nghề diễn viên sân khấu, ông đã vượt qua 6.000 thí sinh để có “chân” trong Đoàn kịch nói Tổng cục
- 9 chính trị. Thời gian này ông luôn được “tín nhiệm” với những vai phản diện bởi ngoại hình “rất ngầu” của mình. Cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn ác liệt, cả nước là chiến trường. Phố phường Hà Nội vắng tanh bởi bao chàng trai đã lên đường vào Nam chiến đấu. Chu Lai thấy mình ở lại với “phấn son”, với ánh đèn sân khấu thì “vô duyên quá”, và rồi “đôi mắt em nhìn anh mỗi sáng sẽ lùn đi, sẽ thấp xuống như anh có điều gì không phải với cuộc đời”(lời trong Mưa đỏ cũng là tâm sự của chính nhà văn). Chu Lai xin vào chiến trường, bỏ qua cơ hội đi học đạo diễn nước ngoài mặc dù gia đình thuộc diện miễn nhập ngũ(Chu Lai có hai người anh đang chiến đấu ở chiến trường). Chàng diễn viên Chu Lai trực tiếp cầm súng chiến đấu ở một đơn vị Đặc công với địa bàn hoạt động chính là Vùng ven Sài Gòn. Thời gian mười năm cầm súng thực sự là những trải nghiệm quý báu và đều trở thành chất liệu cho những sáng tác sau này của nhà văn. Năm 1974, Chu Lai tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và học khóa I tại trường viết văn Nguyễn Du. Tốt nghiệp, ông về công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội cho đến khi nghỉ hưu(năm 2006). Cuộc đời Chu Lai tiêu biểu cho một lớp trí thức trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và gắn bó thủy chung với màu áo lính trong hòa bình. *Sự nghiệp sáng tác: Nhắc tới Chu Lai người ta thường nghĩ ngay tới một nhà văn với những tiểu thuyết về chiến tranh vừa lãng mạn vừa gồ ghề, góc cạnh. Nhưng Chu Lai là cây bút văn xuôi thành công ở cả truyện ngắn, và kịch. Gần một nửa thế kỉ lao động nghệ thuật với sức sáng tạo dồi dào, Chu Lai đã cho ra đời một khối lượng tác phẩm đáng nể: Tiểu thuyết là thể loại sở trường cũng là mảng sáng tác thành công nhất của Chu Lai. Tiểu thuyết của ông hầu hết tập trung vào đề tài chiến tranh và người lính trong và sau chiến tranh. Các tác phẩm chính gồm: Nắng đồng bằng(1978), Đêm tháng hai(1979), Sông xa(1986), Gió không thổi từ biển(1984), Vòng tròn bội bạc(1987), Bãi bờ hoang lạnh(1990), Ăn mày dĩ vãng(1991), Phố(1993), Ba lần và một lần(1999), Cuộc đời dài lắm(2001), Khúc bi tráng cuối cùng (2004), Chỉ còn một lần(2006), Hùng Karo(2010), Mưa đỏ(2016)... Bên cạnh tiểu thuyết, Chu Lai cũng gặt hái thành công ở một số thể loại khác như truyện ngắn, kịch bản sân khấu và kịch bản điện ảnh... Về truyện ngắn có thể kể đến
- 10 những tác phẩm: Người im lặng(1976), Đôi ngả thời gian(1979), Phố nhà binh(1992)... Về kịch bản có: Hà Nội đêm trở gió, Người Hà Nội(chuyển thể từ tác phẩm Phố), Người mẹ tự cháy, Người đi tìm dĩ vãng(chuyển thể từ tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng), Hà Nội 12 ngày đêm, Tiếng cồng định mệnh(chuyển thể từ Khúc bi tráng cuối cùng )... Chu Lai đã được trao tặng nhiều giải thưởng danh giá trong lĩnh vực văn học nghệ thuật: Giải thưởng Hội đồng Văn học chiến tranh Cách mạng và lực lượng vũ trang (Hội Nhà văn) cho tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng năm1993; Giải thưởng Văn học Bộ quốc phòng năm 1994; Giải thưởng tiểu thuyết Nhà xuất bản Hà Nội với tiểu thuyết Phố năm 1993; Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật 2007; Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Mưa đỏ năm 2016. Với những đóng góp đáng trân trọng cho văn xuôi nước nhà, với những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, với tài năng và tâm huyết của một nhà văn chiến sĩ luôn khát khao sáng tạo, Chu Lai đã trở thành gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại. *Quan điểm sáng tác của nhà văn: Qua hiện thực sáng tác, qua những bài báo, những cuộc trả lời phỏng vấn của Chu Lai, chúng tôi nhận thấy những quan điểm sáng sau đây của nhà văn: Trước hết là quan điểm về nhà văn, nghề văn. Theo Chu Lai văn chương là một nghề sáng tạo vất vả, là duyên nợ nhưng đó thực sự là một công việc cao quý, nó giúp thanh lọc và nâng đỡ tâm hồn để con người không bị nhấn chìm, bị biến dạng trước cuộc đời đa đoan: “cực hơn mọi nghề cơ cực trên đời nhưng không vùng thoát ra được như thể đó là nghiệp chướng, là nỗi đa đoan đã trót mang nợ vào thân” nhưng “Cứ vùi đầu vào trang bản thảo, cái cực sẽ có một vị ngọt rất lạ, lâu dần thành nghiện, thành ám ảnh. Để rồi mỗi khi ghì được người vào bàn là mọi bực dọc, cáu kỉnh, cạn cợt chợt tiêu tan, như được sàng lọc, được cứu rỗi linh hồn”(theo Hồng Thanh Quang - Nhà văn Chu Lai: Viết, nỗi cơ cực dịu dàng, nguồn: antgct.cand.com.vn). Nhà văn phải là người có tâm sáng tạo hết sức nghiêm túc, viết cái gì viết về đề tài nào cũng phải có sự nung nấu, trăn trở và trên hết là phải có tình yêu mãnh liệt: “Vì vậy, có một nguyên lý sáng tạo thế này: Anh viết về đề tài nào cũng được, nhưng nếu không có một cái nền tình yêu chắc
- 11 chắn, thì coi như cuốn sách ấy đổ”(theo Nhà văn Chu Lai: “Bản chất của cuộc đời là bi tráng”, nguồn: https://thanhnien.vn). Thứ hai, Chu Lai luôn coi trọngtính chân thực của đối tượng phản ánh, mọi sự bôi đen hay tô hồng, viết trần trụi quá hoặc viển vông quá đều không được chấp nhận. Là một nhà văn thủy chung với đề tài chiến tranh và người lính, Chu Lai đã nghiêm túc khẳng định: “Viết về chiến tranh, tôi cho rằng quan trọng nhất là phải chân thực (...) quan trọng nhất là nêu lên được nỗi đau của nhân vật trong chiến tranh, vì chiến tranh là nước mắt”[56]. Yếu tố chân thực đã trở thành đặc điểm riêng có của Chu Lai trong hàng loạt tiểu thuyết về chiến tranh. Một hiện thực chiến tranh với đầy đủ các cung bậc như: chiến thắng oanh liệt, sự hi sinh mất mát lớn lao, cái cao cả, cái thấp hèn... đã được nhà văn tái hiện chân thực và sinh động. Từ quan điểm sáng tác trên, chúng ta có thể thấy Chu Lai là nhà văn rất tâm huyết và ý thức rất rõ về vai trò, sứ mạng cũng như trách nhiệm nặng nề của nhà văn. 1.1.2. Khái quát về tiểu thuyết của Chu Lai Là một nghệ sĩ thành công trong nhiều lĩnh vực như truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết nhưng Chu Lai là nhà văn chuyên sâu trong thể loại tiểu thuyết. Bởi ông cho rằng: “Tiểu thuyết nói lên sức khỏe, diện mạo của một nền văn học. Do vậy, dù muốn hay không, vai trò của tiểu thuyết là không thể phủ nhận và hoàn toàn có thể hiểu được khi người ta dành ưu ái cho thể loại văn học này”[17]. Tính đến thời điểm hiện tại, Chu Lai đã cho ra đời 14 cuốn tiểu thuyết – một con số không nhỏ đối với một nhà văn. Điều đặc biệt là tiểu thuyết của ông luôn bán khá chạy và có số lần tái bản cao. Tác phẩm của Chu Lai luôn là sự lựa chọn của nhiều độc giả bởi nó thường “gây sốc” với một giọng văn góc cạnh cùng những vấn đề “nhạy cảm” mà nhiều nhà văn khác còn né tránh. Mặc dù còn bị “chê” ở một số yếu tố nhưng tiểu thuyết của Chu Lai đã khẳng định được vị trí vững chắc trên văn đàn văn học Việt Nam đương đại. Khái quát những nét chung nhất về tiểu thuyết của Chu Lai chúng ta có thể thấy một số đặc điểm như sau: Về đề tài, Chu Lai là một trong số những nhà văn trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với tư cách một người lính Đặc công. Bước ra khỏi chiến tranh nhưng những kí ức oai hùng, gian khổ và sự hi sinh mất mát của cuộc chiến luôn
- 12 là nỗi ám ảnh khiến ông trở thành cây bút tiểu thuyết gắn bó sâu nặng, thủy chung với đề tài chiến tranh cách mạng. Trong đề tài chiến tranh, hình tượng người lính đặc công là hình tượng trung tâm trong nhiều tiểu thuyết của Chu Lai. Ở những hình tượng nhân vật này, người đọc dễ nhận thấy chất bi và chất hùng luôn đan xen hòa quyện với nhau. Hình tượng người lính cách mạng trong tiểu thuyết của ông luôn là những con người anh hùng có lí tưởng trong sáng, cao cả. Họ là những con người chiến đấu hết sức dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì mục tiêu độc lập, tự do của dân tộc. Đó là Tám Linh trong Nắng đồng bằng, một người lính đẹp cả ngoại hình lẫn tính cách, luôn đi đầu trong tất cả các trận đánh; Đó là Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng, một người lính khỏe, đẹp, dũng cảm và ngang tàng, anh là chỗ dựa của đồng đội, là nỗi khiếp sợ của kẻ thù với biệt danh “kẻ sát nhân tài tử”; Đó là Vũ Nguyên trong Cuộc đời dài lắm, một người lính đẹp trai, võ thuật cao cường và đậm chất nghệ sĩ với cây kèn Cla v.v. Không chỉ trong chiến đấu mà ngay trong hòa bình với công cuộc xây dựng kinh tế cũng như đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác thì “phẩm chất anh hùng” của người lính trong tiểu thuyết của Chu Lai cũng được khẳng định rất rõ ràng. Chúng ta có thể thấy sự vươn lên làm giàu đầy nghị lực của Lãm trong Phố, hành động đấu tranh đến cùng với cái xấu, cái ác của Sáu Nguyện trong Ba lần và một lần, sự cố gắng không mệt mỏi vì cuộc sống của hàng nghìn công nhân của Vũ Nguyên trong Cuộc đời dài lắm... Nếu những hình tượng nhân vật ấy chỉ đơn thuần mang đậm một phẩm chất hào hùng như thế có lẽ họ đã hòa lẫn vào bao nhân vật trong các tiểu thuyết anh hùng ca khác. Nét riêng biệt trong hình tượng người lính của Chu Lai đó là chất bi luôn đi đôi với chất hùng. Chất bi trong các hình tượng này biểu hiện ở chỗ nhân vật anh hùng thường mang những nỗi đau và cả sự hi sinh mất mát. Đó là sự hi sinh đầy bi tráng của Sáu Hóa, là cái chết đau thương của Tùng trong Nắng đồng bằng; là cái chết dầy bi kịch của Thu trong Ăn mày dĩ vãng; là cái chết đầy tiếc thương của Lãm để bảo vệ hạnh phúc của người thủ trưởng cũ(Nam) trong Phố... Đó còn là bi kịch “lạc thời” của Hai Hùng khi không thể hòa nhập với cuộc sống hiện tại nên phải “ăn mày dĩ vãng”; Đó còn là bi kịch của con người thừa, con người “vô tích sự” của Nam trong Phố... Có thể nói, hình tượng nhân vật người lính của Chu Lai luôn có xu hướng được đẩy đến tận cùng: vẻ đẹp, tinh thần chiến đấu, sức mạnh là vô cùng nhưng những nỗi đau, những bi thương mà họ gánh vác cũng là tận cùng của bi kịch.
- 13 Về thi pháp thể loại, tiểu thuyết của Chu Lai đã bám sát hành trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Chúng ta đều biết rằng, tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 đến nay có sự vận động từ mô hình sử thi sang mô hình phi sử thi. Tiểu thuyết của Chu Lai cũng có sự vận động tương tự. Tiểu thuyết đầu tay Nắng đồng bằng(1978) của nhà văn là tiểu thuyết mang đậm dấu ấn của tiểu thuyết sử thi hiện đại ở các bình diện: Đề tài mang đậm chất sử thi – đề tài chiến tranh cách mạng; Nhân vật trung tâm là những người anh hùng với vẻ đẹp được mô tả theo khuynh hướng lí tưởng hóa; Ngôn ngữ trang nghiêm, thành kính; Giọng điệu mang tính khẳng định, ngợi ca. Nhưng càng về sau, chất sử thi trong tiểu thuyết Chu Lai càng nhạt dần, chất thế sự - đời tư ngày càng đậm qua hàng loạt các tiểu thuyết như: Vòng tròn bội bạc(1987), Bãi bờ hoang lạnh(1990), Ăn mày dĩ vãng(1991), Phố(1993), Ba lần và một lần(1999), Cuộc đời dài lắm(2001)... Trong những tiểu thuyết vừa kể, nhà văn đã quan tâm tới số phận của người lính sau chiến tranh, những bi kịch gia đình trong cuộc sống đời thường, những mất mát đau thương sau cuộc chiến, ngôn ngữ đời thường được sử dụng tối đa, giọng điệu đối thoại, tranh biện được khai thác... Tuy nhiên có một điểm đặc biệt là hành trình vận động về cảm hứng nghệ thuật và tư duy nghệ thuật của Chu Lai không đơn giản là một đường thẳng, không phải là sự vận động tuần tự từ tiểu thuyết sử thi sang tiểu thuyết phi sử thi mà có những điểm nhấn mang tính đột phá. Chẳng hạn ngay sau hàng loạt những tiểu thuyết phi sử thi như: Ăn mày dĩ vãng(1991), Phố(1993), Ba lần và một lần(1999)... lại đột ngột xuất hiện những tiểu thuyết đậm chất sử thi như Khúc bi tráng cuối cùng(2004), Mưa đỏ(2016). Đặc điểm này có lẽ là do phong cách sáng tạo của nhà văn. Không chỉ là cây bút bắt kịp sự phát triển của tiểu thuyết trong việc khai thác các vấn đề thế sự - đời tư, Chu Lai còn luôn cố gắng làm mới một đề tài quen thuộc, đề tài luôn “ám ảnh” nhà văn – đề tài chiến tranh cách mạng. Về giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật, đã có nhiều bài viết đánh giá phê bình về tiểu thuyết của Chu Lai với cả hai luồng ý kiến “khen”, “chê”. Người “khen” thì đánh giá cao những thành công sau đây của Chu Lai: Là nhà văn khai thác đề tài chiến tranh và người lính bằng cái nhìn sâu sắc, toàn diện đậm chất nhân bản: “Tiểu thuyết của Chu Lai giới thiệu nhiều vấn đề đáng quan tâm trên đề tài chiến tranh với ý nghĩa như một đề tài lịch sử”[62]. Là nhà văn thành công trong việc thể hiện số phận người lính sau chiến tranh, ông đã dũng cảm nêu lên những góc khuất,
- 14 những u tối, những bi kịch của người lính thời hậu chiến, tiểu thuyết của Chu Lai đã “đối mặt trực tiếp với những vấn đề bức bối của đời sống xã hội hôm nay”[53]. Là nhà văn đã có những chuyển biến trong quan niệm về hiện thực về con người, chiến tranh đã được ông nhìn nhận bằng con mắt phân tích, lí giải; con người cũng được nhìn nhận ở khía cạnh đa diện, lưỡng tạp chứ không còn là những con người đơn phiến, một chiều. Là nhà văn có những đóng góp nhất định trong việc cách tân nghệ thuật tiểu thuyết: “Tiểu thuyết của Chu Lai “không chỉ đa dạng trong các phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, dòng ý thức, nghệ thuật đồng hiện”...”[14]. Người “chê” lại đưa ra những “nhược điểm” trong tiểu thuyết của Chu Lai ở một số lĩnh vực như: “văn nhiều lời, ngôn ngữ đôi chỗ chưa thật chọn lọc, một vài chi tiết nghệ thuật còn thô”[25,tr.11]. Có ý kiến lại cho rằng kết cấu theo kiểu một kịch bản trong nhiều tiểu thuyết của Chu Lai tạo ra những hạn chế nghệ thuật: “kết cấu tiểu thuyết theo lối kịch bản dễ đẩy tới sự khiên cưỡng trong giải quyết xung đột; tăng điểm nhìn nhưng chưa nắm bắt được sắc thái ngôn ngữ - tâm lý riêng đã làm cho cái nhìn đa chiều xét đến cùng chỉ còn là cái nhìn một chiều…”[29]. Ý kiến khác thì đánh giá tiểu thuyết của Chu Lai đậm yếu tố giả trí và tính thương mại chứ chưa thực sự có chất lượng nghệ thuật bởi nhà văn tập trung vào nhiều vấn đề có tính kích thích nhu cầu giải trí như yếu tố bạo lực, yếu tố tình dục... Thêm nữa trong nhiều tiểu thuyết của ông, bàn tay “đạo diễn” của tác giả tỏ ra lộ liễu. Dù còn có những “khen”, “chê” nhưng sự yêu mến và tìm đọc của đông đảo độc giả đã khẳng định những thành công của tiểu thuyết Chu Lai, xác lập chỗ đứng của ông trên văn đàn. So với các nhà văn chống Mỹ cùng thời như Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Trí Huân... thì Chu Lai có sức viết khỏe, tạo được dấu ấn riêng trên văn đàn và hứa hẹn những thành công ở chặng đường tiếp theo. Ngay cả những “nhược điểm” trong sáng tác của Chu Lai cũng có thể xem là đặc điểm hơn là hạn chế bởi nó phù hợp với thị hiếu của độc giả hôm nay.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 667 | 92
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 666 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 303 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p | 229 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p | 247 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 152 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 201 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 238 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 170 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 168 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 163 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 166 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 205 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 155 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt
211 p | 155 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 119 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 155 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Tố Hữu
25 p | 121 | 17
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn