intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê (qua hai tập Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:115

31
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Minh Khuê một cách hệ thống về các phương diện: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật,… Qua đó góp phần làm sáng rõ những điểm độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê (qua hai tập Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua)

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ (QUA HAI TẬP NHIỆT ĐỚI GIÓ MÙA VÀ LÀN GIÓ CHẢY QUA) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ (QUA HAI TẬP NHIỆT ĐỚI GIÓ MÙA VÀ LÀN GIÓ CHẢY QUA) Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LƯU KHÁNH THƠ THÁI NGUYÊN - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: "Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê (qua hai tập Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua)" là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Lưu Khánh Thơ. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Tác giả luận văn Trần Thị Phương Anh i
  4. LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau Đại học, Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Đặc biệt, với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lưu Khánh Thơ - người đã hết lòng tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Kạn; Các thầy cô trong Ban Giám hiệu và các đồng nghiệp trường THPT Phủ Thông đã giúp đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân yêu đã luôn bên em, động viên, khích lệ em trong những ngày học tập ở trường. Em xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 02 tháng 6 năm 2018 Tác giả luận văn Trần Thị Phương Anh ii
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii MỤC LỤC ................................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 9 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 9 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 10 6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................ 10 7. Cấu trúc ................................................................................................................... 11 NỘI DUNG ................................................................................................................ 12 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN SAU 1975 VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ ............................................................... 12 1.1. Vài nét về truyện ngắn ..................................................................................... 12 1.1.1. Khái niệm ......................................................................................................... 12 1.1.2. Đặc trưng ......................................................................................................... 12 1.2. Vài nét về nghệ thuật tự sự .............................................................................. 15 1.2.1. Khái niệm ......................................................................................................... 15 1.2.2. Đặc điểm .......................................................................................................... 16 1.2.3. Các yếu tố của nghệ thuật tự sự ....................................................................... 17 1.3. Khái quát về truyện ngắn sau 1975 .................................................................. 20 1.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Lê Minh Khuê .................................. 24 1.4.1. Tác giả Lê Minh Khuê ..................................................................................... 24 1.4.2. Hành trình sáng tác của Lê Minh Khuê ........................................................... 26 1.4.3. Tác phẩm "Nhiệt đới gió mùa" và "Làn gió chảy qua" ................................... 27 Tiểu kết Chương 1 ...................................................................................................... 28 Chương 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ ...................... 29 2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện .......................................................................... 29 2.1.1. Cốt truyện trong truyện ngắn Lê Minh Khuê .................................................. 29 iii
  6. 2.1.2. Vai trò và cách tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ............. 37 2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ......................................................................... 44 2.2.1. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê....................................... 44 2.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ................... 53 Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................................... 59 Chương 3. NGƯỜI KỂ CHUYỆN, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ .......................................................................60 3.1. Người kể chuyện trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ........................................ 60 3.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất........................................................................ 60 3.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba ........................................................................... 64 3.1.3. Người kể chuyện ngôi đan cài ngôi kể ............................................................ 69 3.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ................................... 71 3.2.1. Ngôn ngữ giàu tính đối thoại, triết lý............................................................... 71 3.2.2. Ngôn ngữ mang màu sắc khẩu ngữ.................................................................. 74 3.2.3. Ngôn ngữ trong sáng, giàu chất thơ ................................................................. 76 3.3. Giọng điệu trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ................................................. 78 3.3.1. Giọng suy tư, triết lý, chiêm nghiệm ............................................................... 79 3.3.2. Giọng trữ tình, lãng mạn, ngợi ca .................................................................... 81 3.3.3. Giọng mỉa mai, phê phán, hóm hỉnh ................................................................ 84 Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................................... 90 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 93 PHỤ LỤC iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Nếu như trước năm 1975, người đọc biết đến Lê Minh Khuê với những tác phẩm phản ánh sinh động hiện thực cuộc sống và chiến đấu của thế hệ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mỹ hào hùng thì sau năm 1975, người đọc bị hấp dẫn bởi mảng sáng tác viết về mọi ngóc ngách của xã hội Việt Nam thời hậu chiến với những vấn đề thời sự nóng bỏng không chỉ bằng cái nhìn đa chiều, tỉnh táo, sắc lạnh; bằng bút lực mạnh mẽ, dồi dào mà còn bằng cả tâm hồn rộng mở, yêu thương và tươi mới của nữ nhà văn. Bà được đánh giá là nhà văn có phong cách độc đáo, có sức viết bền bỉ với nguồn cảm hứng dạt dào trước những vấn đề của đất nước cũng như của số phận con người ở những giai đoạn lịch sử khác nhau - trong chiến trận cũng như khi hòa bình. Sáng tác của Lê Minh Khuê đã góp phần đổi mới diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn. 1.2. Sau các tác phẩm như: Cao điểm mùa hạ, Bi kịch nhỏ, Trong làn gió heo may… gần đây Lê Minh Khuê tiếp tục trình làng nhiều tác phẩm mới trong đó không thể không kể đến hai tập truyện ngắn gây tiếng vang lớn: Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua. Có người cho rằng Nhiệt đới gió mùa khiến người đọc “không yên ổn” bởi tác phẩm nó chất chứa cái nhìn dữ dội, tàn khốc về những sang chấn trong tâm hồn những người đi qua chiến tranh. Hay như nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái đã nhận xét, Lê Minh Khuê có cách giải quyết chiến tranh khiến người đọc rơi nước mắt. Viết về chiến tranh mà nhà văn cho người đọc thấy ngay trong một gia đình, giữa những con người chung huyết thống, chiến tuyến rạch đôi tại đây và người ta nhìn nhau qua con mắt nhuốm màu máu cũng ở đây. Lê Minh Khuê đã thể hiện sự thấu thị bản chất của chiến tranh, đi xuyên thấu cuộc chiến mà bi kịch để lại trong mỗi gia đình, mỗi con người - điều mà trước đây rất ít nhà văn đề cập tới. Còn Làn gió chảy qua được đánh giá là tập truyện ngắn thấm đượm hơi thở thời đại bởi nhà văn đã dựng lên một không gian truyện ngắn đa sắc, đa chiều và đầy tính nhân văn. Những truyện ngắn trong hai tuyển tập này khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở, chiêm nghiệm về lẽ sống để từ đó tự thanh lọc tâm hồn. 1.3. Nếu trước đây, tự sự học, nghệ thuật tự sự chủ yếu được được các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu dưới góc độ lý luận thì nay xu hướng nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong thực tiễn các tác phẩm/chùm tác phẩm cụ thể đang thực sự nở rộ. Cách tiếp cận này thể hiện xu hướng nghiên cứu mới mẻ, hấp dẫn giúp người đọc, người nghiên cứu vận dụng các tri thức thi pháp học, tự sự học để chiếm lĩnh, giải mã các vỉa tầng của tác phẩm (đặc biệt là thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn) dưới một góc nhìn mới mẻ và thú vị. 1.4. Trong thực tế, số lượng các công trình nghiên cứu về các tác phẩm văn học cụ thể dưới góc nhìn tự sự học hay các công trình nghiên cứu về nhà văn Lê Minh Khuê tương đối nhiều - Điều đó đủ nói lên sức hấp dẫn của Lê Minh Khuê cũng như 1
  8. hướng nghiên cứu mới mẻ này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê được thể hiện qua hai tác phẩm nói trên. Nhận thấy, hai tập truyện Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua là sự kết tinh cho bút pháp tự sự của Lê Minh Khuê - bà “trùm truyện ngắn” trong dòng văn học đương đại. Đồng thời mỗi truyện ngắn trong hai tập truyện nói trên còn chứa đựng các vỉa tầng ý nghĩa sâu xa về nhiều phương diện lịch sử, văn hóa, đạo đức… rất cần được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện. Đây là lý do, chúng tôi lựa chọn vấn đề này làm luận văn nghiên cứu với mong muốn góp thêm một tiếng nói về nghiên cứu nghệ thuật tự sự theo hướng ứng dụng nói chung từ đó khẳng định nét đặc sắc trong phong cách truyện ngắn của nhà văn Lê Minh Khuê nói riêng. Không những thế, Lê Minh Khuê còn là nhà văn có tác phẩm được giảng dạy trong trường phổ thông nhưng việc tìm hiểu về tác giả này còn chưa tương xứng. Vì vậy, nghiên cứu về Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trong hai tác phẩm trên sẽ giúp một giáo viên dạy văn ở phổ thông như tôi có được những đánh giá khoa học, khách quan về nhà văn và sự nghiệp của bà trong quá trình giảng dạy. Đồng thời, qua nghiên cứu, chúng tôi còn muốn khám phá một phong cách truyện ngắn nữ giàu cá tính trong bức tranh chung của truyện ngắn đương đại Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Lịch sử nghiên cứu về lý thuyết tự sự và nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại Lý thuyết tự sự học được biết đến như là một khía cạnh của chủ nghĩa hình thức Nga với những tên tuổi đóng vai trò khai sinh như: V. Shklovski, B. Eikhenbaum, B. Tomachevski… Nhiều phương diện cơ bản của cấu trúc tự sự ở phương diện lí thuyết đã được các tác giả đề cập đến như: kết cấu tác phẩm, cốt truyện, nhân vật hay nghệ thuật tổ chức thời gian…. Nhưng nếu như chủ nghĩa hình thức Nga được coi là sự mở màn cho lí thuyết tự sự học thì chủ nghĩa cấu trúc với những tên tuổi như R. Barthes, Tz. Todorov, A. J. Greimas, G. Genette… lại góp phần hình thành bộ môn tự sự học. Chủ nghĩa cấu trúc đi tìm mô hình cho hình thức tự sự. Mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự. Sau đó, các nhà tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa như M. Bakhtin, Iu. M. Lotman, B. Uspenski… đã quan tâm đến các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở. Hình thức tự sự chính là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm. Lí thuyết tự sự góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu nghệ thuật tự sự của các thể loại nói chung và của từng tác phẩm văn học cụ thể nói riêng. Ngoài việc khám phá giá trị tác phẩm, lý thuyết này còn cho chúng ta thấy được truyền thống văn học cũng như các giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Đây cũng là lý do cho thấy tính thời sự và hấp dẫn của hướng nghiên cứu này trong những năm trở lại đây. 2
  9. Ở Việt Nam, có thể kể đến một số công trình, bài viết nghiên cứu bàn về các khía cạnh của tự sự học như: Trong bài viết Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg [42], tác giả Cao Kim Lan đã giới thiệu về điểm nhìn nghệ thuật và sự chi phối của điểm nhìn trong truyện kể, vấn đề quyền năng của người kể chuyện với điểm nhìn của nhân vật, điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của người đọc… Trong bài viết Tự sự học - một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng, Trần Đình Sử đã hệ thống, khái lược những vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngôn ngữ học Saussure, Platon, Aritoste, Tz. Tododov, Genette… Qua đó, ông khẳng định vai trò quan trọng của tự sự học. Đặc biệt phải kể đến công trình chuyên khảo tập hợp một loạt bài viết nghiên cứu chuyên sâu về tự sự học do ông làm chủ biên đó là: Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử [61]. Trong đó, tác giả Phan Thu Hiền có bài viết Về lí thuyết tự sự của Northrop Frye [61, tr.56 - 70] giới thiệu Northrop Frye là đại biểu quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc nhất của lí thuyết Phê bình huyền thoại (mythcritic) còn gọi là lí thuyết Phê bình nguyên mẫu (archetypal critism) với quan niệm cho rằng mục tiêu của văn chương là đạt đến sự giới thiệu, sự trình bày cuộc sống. Nguyễn Đức Dân giới thiệu về Greimas trong bài Greimas - Người xây nền cho trường phái kí hiệu học Pháp [61, tr. 39 - 55] với mô hình vai hành động, cấu trúc cơ sở của nghĩa, mô hình cấu tạo. Ngoài ra, cuốn sách còn đăng tải một số bài viết tiêu biểu khác như: Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật của Phương Lựu [48], Người kể chuyện - nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự [61, tr. 196 - 208] của Nguyễn Thị Hải Phương, Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong truyện kể của Đặng Anh Đào [61, tr. 169 - 178]. Qua các bài viết này, các tác giả đã góp phần làm rõ các khái niệm tự sự học như: Người kể chuyện, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn… Có thể nói, lí thuyết tự sự có vai trò quan trọng và cần thiết trong việc tiếp cận tác phẩm văn học, đặc biệt là tác phẩm văn xuôi vì thế nó luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Ở Việt Nam, ngoài những tác phẩm dịch thuật, ít có công trình nghiên cứu sâu về nghệ thuật tự sự từ bình diện lí thuyết. Về cơ bản, hầu hết các thành phần của nghệ thuật tự sự đều được các học giả nghiên cứu và bước đầu làm rõ qua những tác phẩm văn học cụ thể như: thời gian và không gian trần thuật, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, tình huống trần thuật, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn… Bên cạnh đó, có thể điểm qua một số bài viết và công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại như: Công trình Văn học Việt Nam thế kỉ XX - Những vấn đề lịch sử và lí luận [15] có chương VI đề cập đến “Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam”. Các tác giả cho rằng giai đoạn 1975 - 2000 là “thời của truyện ngắn”, truyện ngắn 3
  10. thực sự khởi sắc, “các nhà văn đã có công tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ” có sức chứa”, “có khả năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu” [15, tr. 261]. Khi nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam, các tác giả đã bày tỏ quan điểm về tình huống truyện, cốt truyện, các kiểu truyện ngắn hiện đại và nghệ thuật kể chuyện từ góc nhìn tự sự học. Tuy nhiên, những nhận xét vẫn chỉ dừng ở những nhận định khái quát, điểm xuyết mà chưa đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc văn bản truyện kể. Trong cuốn Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy [55] có một số bài viết tiêu biểu bàn về truyện ngắn từ góc độ tự sự học như: Quan niệm về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt Nam sau 1975 [55, tr. 192 - 202], Nghiên cứu và dạy học truyện ngắn hiện đại [55, tr. 293 - 299]. Đặc biệt, bài viết Một vài khuynh hướng vận động của điểm nhìn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 [53, tr. 300 - 306] của Nguyễn Văn Hiếu đã tìm hiểu về sự vận động của điểm nhìn nghệ thuật trong tiến trình của văn xuôi sau 1975. Bài viết đã chỉ ra những khuynh hướng vận động nổi bật của điểm nhìn như: khuynh hướng cá thể hóa, khuynh hướng đối thoại, khuynh hướng gián cách. Tuy nhiên, những nhận xét của tác giả mới chỉ nằm trong khuôn khổ của một bài viết nên sự lí giải chưa thực thấu đáo. Cuốn Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử, thi pháp, chân dung [16] do Phan Cự Đệ chủ biên đã tập trung làm rõ lịch sử phát triển của các khuynh hướng và loại hình truyện ngắn; đặc trưng của thể loại truyện ngắn hiện đại, truyện ngắn trong mối quan hệ với các thể loại khác. Các tác giả đã lí giải về đặc trưng thi pháp của truyện ngắn hiện đại như: kết cấu và cốt truyện, khoảnh khắc và tình huống; các kiểu của truyện ngắn hiện đại... Từ những vấn đề lí luận đó, các tác giả đã tiến hành nghiên cứu và định hình phong cách truyện ngắn của các thế hệ nhà văn từ Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao… đến các nhà văn kháng chiến như: Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng… và sau 1975 như: Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp… Bài viết Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công đáng chú ý của văn xuôi sau 1975 của Nguyễn Thị Bình đăng trong cuốn Tự sự học, những vấn đề lịch sử và lí luận [61, tr. 351 - 367] do Trần Đình Sử chủ biên đã đề cập đến hai khía cạnh trong sự chuyển động mạnh mẽ của văn xuôi sau 1975 là ngôn ngữ và giọng điệu. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã định dạng những phong cách ngôn ngữ mới qua các gương mặt nhà văn tiêu biểu như: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Lê Lựu, Chu Lai, Phạm Hải Vân, Nguyễn Việt Hà… Tuy nhiên, sự phân tích, lí giải trên cũng chỉ nằm trong phạm vi của một bài viết nên chưa được chứng minh một cách sâu sắc. Ngoài các bài viết, các công trình chuyên khảo, chúng tôi còn hệ thống được khá nhiều luận văn, luận án bàn về vấn đề này như: 4
  11. Luận án Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện) [76] của Nguyễn Thị Thu Thủy đã tiến hành nghiên cứu hai phương diện là phương thức kể và thoại dẫn. Luận án đã xây dựng được cơ sở lí thuyết về điểm nhìn, đưa ra một khái niệm điểm nhìn cụ thể và khái quát cho nhiều góc độ, chỉ ra được các nhân tố, các tính chất của điểm nhìn mà các công trình trước đây chưa đề cập một cách có hệ thống. Văn xuôi Việt Nam thời kì hậu chiến (1975 - 1985) là luận án của tác giả của Ngô Thu Thuỷ [75]. Luận án đã góp phần khẳng định mối quan hệ giữa văn học và đời sống xã hội, đồng thời cung cấp cái nhìn hệ thống về văn xuôi giai đoạn này trong bước chuyển của lịch sử văn học. Tác giả đã phát hiện, lí giải những rạn nứt, những dấu hiệu mới trong khuôn khổ đề tài cũ và những cảm hứng mới, đồng thời cũng chỉ ra những đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi hậu chiến và khẳng định vị trí của giai đoạn 1975-1985 trong quá trình chuyển đổi tư duy văn học Việt Nam sau 1975. Tuy nhiên, đặc trưng của thể loại truyện ngắn chưa được tác giả làm rõ. Luận án Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng) của Nguyễn Thị Bích [6] là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của nhóm tác giả đã có vị trí và đóng góp to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện - đương đại. Trên cơ sở nghiên cứu đó, tác giả khẳng định sự đổi mới và những thành công về tổ chức tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của ba nhà văn “gạo cội” - tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn mở đường của nền văn học Việt Nam từ sau 1975. Cùng hướng khai thác trên, tác giả Nguyễn Thị Huệ đã mô tả và lí giải sự chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người qua bốn tác tác giả nêu trên đồng thời nhận diện một số dấu hiệu vận động của thể loại và sự chuyển động của ngôn ngữ trong luận án Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi Việt Nam 1980 đến 1986 qua bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu - Nguyễn Khải - Ma Văn Kháng - Nguyễn Mạnh Tuấn [34]. Tuy nhiên, công trình này chỉ nghiên cứu các sáng tác văn xuôi trong giai đoạn 1980 - 1986. Tác giả thiên về mô tả, lí giải sự vận động của thể loại và những tín hiệu đổi mới mà không nghiên cứu các tác phẩm từ góc nhìn tự sự học. Trong luận án Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại) [77], Lê Thị Hương Thuỷ đã góp phần làm sáng rõ một số vấn đề thuộc về lí luận thể loại, về những đặc điểm khu biệt và sự tương tác thể loại qua việc khảo sát truyện ngắn sau 1986, đánh giá một phương diện của văn học sử qua việc tìm hiểu thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học đương đại. Bên cạnh đó còn có khá nhiều luận văn thạc sĩ cũng bàn về vấn đề này như: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Bảo 5
  12. Ninh; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Tô Hoài; Một số vấn đề về đổi mới thi pháp thể loại trong truyện ngắn Việt Nam đương đại,… Trên đây là những bài viết, những công trình nghiên cứu tập trung đi sâu vào những phương diện của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam đương đại như: cách xây dựng nhân vật, giọng điệu, điểm nhìn, ngôn ngữ, kết cấu và cốt truyện, khoảnh khắc và tình huống, thời gian và không gian trần thuật… Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu thiên về lí luận. Các công trình ứng dụng lí thuyết tự sự để nghiên cứu về nhóm tác giả cùng thế hệ từ đó nhận diện điểm chung trong cách viết của các nhà văn và điểm riêng trong phong cách của từng tác giả; so sánh phong cách sáng tác của các thế hệ nhà văn Việt Nam hiện đại và đương đại vẫn còn hạn chế và rất cần được khỏa lấp. 2.2. Lịch sử nghiên cứu về truyện ngắn Lê Minh Khuê Trong dòng văn học đương đại Việt Nam, được đánh giá là một nữ văn sĩ tài năng, bản lĩnh, thường xuyên tìm tòi đổi mới nghệ thuật trên nhiều phương diện và là một nhà văn đầy tâm huyết có duyên với thể loại truyện ngắn, nên những công trình, bài viết nghiên cứu về Lê Minh Khuê và các tác phẩm truyện ngắn của bà tương đối nhiều, đặc biệt trong khoảng chục năm trở lại đây. Nhận định khái quát về đặc điểm cũng như đóng góp của ngòi bút Lê Minh Khuê trong dòng văn học đương đại có thể điểm qua các ý kiến sau: Giáo sư Hà Minh Đức trong bài viết: Những tác giả nữ trong nền văn xuôi chống Mĩ đã nhận xét: “Lê Minh Khuê là một cây bút trẻ xông xáo trong những năm chống Mĩ. Chị đã có ý thức chuyển nhanh sang thời kỳ mới và tỏ ra khá nhạy bén trong cách cảm nhận nghệ thuật của mình”. Bùi Việt Thắng cho rằng "Lê Minh Khuê là một nhà văn chuyên tâm và trung thành với truyện ngắn và đã thành công trong thể loại này... Mỗi truyện ngắn của chị viết đều thức dậy ở người đọc một khao khát hướng thiện" [70, tr. 8]. Lê Thị Đức Hạnh trong bài báo Lê Minh Khuê - cây bút truyện ngắn sung sức [26] đánh giá đây là “một cây bút nữ có nhiều đóng góp về truyện ngắn. Từ hồn nhiên, trong trẻo đến sắc sảo, nghiêm ngặt, chị luôn có một chất giọng riêng… cốt truyện hấp dẫn, nhiều chi tiết sắc nhọn, cách diễn đạt linh hoạt, đầy hình ảnh, màu sắc, âm thanh,...” [26, tr. 5]. Tuy nhiên, tác giả chưa thực sự đi sâu phân tích các yếu tố này. Lời cuối cuốn sách Lê Minh Khuê truyện ngắn chọn lọc [65], Hồ Anh Thái cũng nhận xét: "Lê Minh Khuê rất có ý thức nói bằng giọng của mình - tiết chế, đôi khi như chủng chẳng, khô khan, nhưng đầy hàm ý..." [65, tr.439]. Trong bài viết khác có nhan đề Lê Minh Khuê - người đàn bà viễn thị, Hồ Anh Thái còn đưa ra cảm nhận về sự thay đổi phong cách truyện ngắn của Lê Minh Khuê: Những tác phẩm viết dưới thời kỳ chống Mỹ mang “cái náo nức quên mình trong trẻo… hồn nhiên đến lạ kỳ trong những ước mơ”. Nhưng sau này, cái náo nức đó dần nhường chỗ cho “nỗi day trở thường xuyên của lương tâm trước sự sa sút của nhân tính, của lòng vị tha trước 6
  13. sự gia tăng của cái ác, cái đạo đức giả. Người ta lắng thấy trong những tác phẩm dữ dội đó nỗi chua xót, nỗi đau, nỗi tiếc thương những giá trị bị xói mòn, đang dần mất. Lắng kỹ hơn thì nghe được cả những ước ao không cất thành lời. Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái trong vai trò diễn giả buổi ra mắt Nhiệt đới gió mùa đánh giá rằng Lê Minh Khuê đã đưa ra một cách giải thích về chiến tranh khiến người đọc rơi nước mắt và cho rằng Lê Minh Khuê là một trong số ít những nhà văn Việt Nam viết về chiến tranh với một tấm lòng bao dung và nhìn thấu bản chất của nó. Bà còn khẳng định nữ văn sĩ là người đàn bà thấu thị, luôn nhìn cuộc sống, chiến tranh bằng cặp mắt xuyên thấu, bên trong âm ỉ một tấm lòng nồng nhiệt. Các ý kiến đánh giá trên đã phần nào khẳng định những đóng góp đa dạng của nhà văn Lê Minh Khuê (chủ yếu ở thể loại truyện ngắn). Nhiều người khẳng định đây là một cây bút có “sức bền”, từ hồn nhiên, trong sáng đến sắc sảo, nghiêm nhặt… luôn có một chất giọng riêng… đi vào một số mặt trong đời sống, chú ý nhiều đến đạo đức, nhân sinh, nhân tình thế thái… Việc đổi mới bút pháp trong những năm gần đây của nữ nhà văn là dấu hiệu đáng mừng bởi nó chứng tỏ Lê Minh Khuê là một cây bút đang sung sức. Ngoài ra, còn có khá nhiều công trình nghiên cứu về phong cách cũng như các khía cạnh trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê như: Luận văn Phong cách truyện ngắn Lê Minh Khuê [81] của Hoàng Thị Hải Yến, đã tiến hành tìm hiểu bút pháp của hầu hết truyện ngắn Lê Minh Khuê qua các phương diện: các kiểu lựa chọn đề tài, đặc trưng nhân vật và kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu. Từ đó, tác giả luận văn đã tiếp cận, lý giải truyện ngắn Lê Minh Khuê từ góc nhìn lý luận về phong cách nghệ thuật, nêu bật được những đóng góp nghệ thuật truyện ngắn của nữ nhà văn đối với sự phát triển của văn học hiện đại Việt Nam. Các vấn đề quan niệm nghệ thuật và quá trình sáng tác của nhà văn cũng được tác giả đề cập tới ở một mức độ nhất định. Luận văn Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê [28] đã tiến hành khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Lê Minh Khuê từ đó nghiên cứu và làm rõ thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê như: bức tranh cuộc sống, thế giới nhân vật, các phương diện nghệ thuật đặc sắc khác. Còn trong luận văn Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê [80], tác giả Phan Thị Thanh Vân lại tập trung làm rõ các phương diện cơ bản như: phương thức trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật nhằm làm nổi bật tài năng của cây bút dẻo dai và sung sức này. Tác giả luận văn còn chỉ ra sự thay đổi về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trước và sau Đổi mới 1986. Luận văn Giọng điệu truyện ngắn Lê Minh Khuê đã khảo sát các truyện ngắn của Lê Minh Khuê từ năm 1978 đến 2008 từ đó tìm hiểu và làm rõ các yếu tố chi phối sự hình thành và giọng điệu chủ đạo trong truyện truyện ngắn Lê Minh Khuê. 7
  14. Tác giả cũng chỉ ra sự khác biệt về giọng điệu của văn học đương đại so với văn học giai đoạn trước. Trên cơ sở tiến hành khảo sát 10 tập truyện ngắn đã xuất bản tính đến 2014, luận văn Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê Minh Khuê [41] đã nghiên cứu một cách khá hệ thống về hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê Minh Khuê từ quan niệm nghệ thuật về con người đến phương thức thể hiện. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra sự nối tiếp về thành tựu và phong cách của các tác giả nữ trong văn học Việt Nam đương đại. Trung Thị Hồng Biên trong luận văn Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau năm 1975 [5] cũng đã tập trung tìm hiểu một cách tương đối hệ thống từ phương diện nội dung và nghệ thuật từ đó làm sáng tỏ cái nhìn mới mẻ và đầy đủ hơn về con người cũng như hiện thực cuộc sống thông qua cách thức xây dựng thế giới nhân vật đa dạng và độc đáo của nhà văn Lê Minh Khuê. Tác giả Nguyễn Thị Thanh trong luận văn Xu hướng “nhạt hóa” trong truyện ngắn Lê Minh Khuê [66] đã ứng dụng những khía cạnh lý thuyết từ công trình triết học Bàn về cái Nhạt của Francois Jullien (do Trương Thị An Na chuyển ngữ) để tìm hiểu hành trình truyện ngắn Lê Minh Khuê qua các tác phẩm từ Cao điểm mùa hạ (1978) đến Nhiệt đới gió mùa (2012). Luận văn thể hiện cái nhìn mới mẻ về giá trị của tác phẩm văn chương Lê Minh Khuê dưới lăng kính triết học. Trên cơ sở khảo sát 6 tập truyện ngắn của Lê Minh Khuê, Phạm Thị Nhung đã làm rõ ý thức đối thoại của truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 với tư cách là phương diện để truyền tải quan niệm sáng tác. Kết quả nghiên cứu này được thể hiện trong luận văn Ý thức đối thoại trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 [52]. Nhìn từ góc độ lý thuyết thi pháp học, luận văn Truyện ngắn Lê Minh Khuê nhìn từ thi pháp thể loại [32] của Cao Thị Hồng đã đưa nhận định: “Nhân vật trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê (đặc biệt là loại hình nhân vật tha hóa) không hiện lên như những lược đồ khô cứng, công thức, những tính cách bất biến mà chúng được rọi chiếu ở những ánh sáng khác nhau, những môi trường, hoàn cảnh khác nhau, bởi thế chân dung và số phận của những con người này hiện lên chân thực, sống động và thực sự đã mang lại những ám ảnh, những ấn tượng thẩm mĩ riêng đối với người đọc” [32, tr. 79]. Tác giả cũng đã luận giải khá kỹ về nguyên tắc xây dựng loại nhân vật tha hóa trong truyện ngắn Lê Minh Khuê nhưng tư liệu khảo sát mới chỉ dừng lại ở những tác phẩm xuất bản cho đến thời điểm năm 2002 . Nghiên cứu sâu về tập Nhiệt đới gió mùa, tác giả Trần Thị Thu Phương trong luận văn Đặc điểm tập truyện ngắn Nhiệt đới gió mùa (Lê Minh Khuê) [59] đã nghiên cứu phương diện nhân vật, cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật sử dụng ngôn từ của 12 truyện ngắn trong tập truyện Nhiệt đới gió mùa được ấn hành năm 2012. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ bàn đến hai khía cạnh trên mà chưa đề cập đến các phương diện khác làm nên nghệ thuật tự sự đặc sắc của tác phẩm. 8
  15. Ngoài ra, có thể kể đến một số luận văn và các bài viết khác cũng nghiên cứu về truyện ngắn của Lê Minh Khuê như: Truyện ngắn Lê Minh Khuê của Mai Thị Thúy Ninh; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê của Đinh Lưu Hoàng Thái; Cảm hứng thế sự trong sáng tác của Lê Minh Khuê sau 1975… Như vậy, các công trình nói trên đã khẳng định vị trí của Lê Minh Khuê với tư cách một nữ nhà văn thành công ở thể loại truyện ngắn. Bà sáng tác ở cả giai đoạn trước và sau Đổi mới. Mỗi giai đoạn sáng tác, nữ nhà văn đều thể hiện một bản lĩnh sáng tác nhất quán và vững vàng đó là nhìn thằng vào sự thật, coi hiện thực như một phương tiện để chuyển tải quan điểm nghệ thuật của mình. Đặc biệt, Lê Minh Khuê đã thể hiện sự đổi mới về bút pháp để thích ứng với thời cuộc. Sáng tác trước và sau 1986 thể hiện rõ sự vận động và thay đổi đó. Các truyện ngắn của Lê Minh Khuê bước đầu đã được nghiên cứu ở các khía cạnh như: thi tháp, thể loại, thế giới nhân vật, lời văn, giọng điệu, cảm hứng, người kể chuyện… Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về nghệ thuật tự sự trong hai tác phẩm đánh dấu sự đổi mới phong cách truyện ngắn sau đổi mới của Lê Minh Khuê là Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua. Do vậy, luận văn của chúng tôi được thực hiện để thể hiện sự kế thừa và tiếp nối mạch nghiên cứu đầy hấp dẫn về nhà văn tài năng này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê qua hai tập truyện ngắn tiêu biểu (Nhiệt đới gió mùa, Làn gió chảy qua) ở các phương diện: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chủ yếu khảo sát hai tập truyện của nhà văn Lê Minh Khuê, đó là: - Tập truyện ngắn: Nhiệt đới gió mùa, Nxb Hội Nhà Văn, 2012. - Tập truyện ngắn: Làn gió chảy qua, Nxb Trẻ, 2016. Ngoài ra, luận văn còn khảo sát và so sánh với một số tác phẩm khác của nhà văn Lê Minh Khuê và các tác giả khác. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Qua khảo sát hai tập truyện ngắn Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua, luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Minh Khuê một cách hệ thống về các phương diện: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật,… Qua đó góp phần làm sáng rõ những điểm độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam. 9
  16. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa các cơ sở lý luận, thực tiễn có liên quan đến đề tài: các khái niệm liên quan đến nghệ thuật tự sự, các nét chính về nhà văn Lê Minh Khuê và hai tập truyện ngắn: Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua. - Khảo sát, làm rõ nghệ thuật tự sự trong hai tác phẩm trên ở các phương diện: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật. - Chỉ ra, so sánh và chứng minh những điểm độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trước và sau Đổi mới từ đó khẳng định, tôn vinh vị thế của nhà văn trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương pháp sau: 5.1. Phương pháp thống kê - phân loại Phương pháp này được luận văn sử dụng để khảo sát và thống kê tất cả các truyện ngắn trong hai tập truyện từ đó tiến hành phân loại các ngữ liệu theo các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu như: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật. 5.2. Phương pháp hệ thống - loại hình Phương pháp hệ thống - loại hình được sử dụng để khái quát và hệ thống hóa các dữ liệu nghiên cứu gắn với đặc trưng của thể loại truyện ngắn đương đại. Ngoài ra, phương pháp này còn được luận văn sử dụng để đặt các truyện ngắn của Lê Minh Khuê trong sự vận động phát triển của thể loại truyện ngắn Việt Nam đương đại. 5.3. Phương pháp phân tích- tổng hợp Phương pháp này được sử dụng để phân tích các ngữ liệu, các dẫn chứng làm rõ vấn đề đặt ra trong đề tài từ đó đưa ra những khái quát trên cơ sở phân tích ngữ liệu cụ thể. 5.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu Phương pháp so sánh - đối chiếu được luận văn sử dụng để so sánh các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu trong các truyện ngắn của nhà văn Lê Minh Khuê cũng như so sánh với tác phẩm của một số tác giả khác. Từ đó chỉ ra sự đổi mới và sáng tạo về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại. 6. Đóng góp của đề tài Trên cơ sở khảo sát hai tập truyện ngắn tiêu biểu Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua, luận văn tiến hành chỉ ra một cách hệ thống và phân tích những đặc điểm độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của nhà văn Lê Minh Khuê. Từ đó, luận văn góp phần khẳng định diện mạo, vai trò, vị trí của Lê Minh Khuê trong sự vận động của thể loại truyện ngắn trong nền văn học Việt Nam đương đại. 10
  17. 7. Cấu trúc Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát về truyện ngắn sau 1975 và hành trình sáng tác của Lê Minh Khuê. Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê. Chương 3: Người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong trong truyện ngắn Lê Minh Khuê. 11
  18. NỘI DUNG Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN SAU 1975 VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ 1.1. Vài nét về truyện ngắn 1.1.1. Khái niệm So với tiểu thuyết, những tài liệu lý thuyết bàn về truyện ngắn không nhiều và tương đối thống nhất. Theo các nhà nghiên cứu, khái niệm và thể loại truyện ngắn chỉ được xác lập trong nền văn học hiện đại vào khoảng cuối thế kỉ XIX… Theo cách hiểu phổ biến, truyện ngắn là một truyện kể có dung lượng ngắn, cốt truyện thường tập trung vào một biến cố gọn và đơn giản, diễn ra trong một phạm vi không gian và thời gian nhỏ với một số ít nhân vật. Theo Lại Nguyên Ân: “Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ” [24, tr.1846 - 1847]. Từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng: “Khác với tiểu thuyết, là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người” [29, tr.371]. Do có chung tính chất là tự sự, ranh giới giữa truyện ngắn và tiểu thuyết đôi khi chỉ mang tính chất tương đối. Được sinh ra từ những câu chuyện kể hằng ngày rất đỗi dung dị, tự nhiên, truyện ngắn hình thành và phát triển vượt bậc với sức mạnh dẻo dai phi thường qua sự sáng tạo của nhiều thế hệ nhà văn. Đến nay truyện ngắn đã khẳng định vị trí của mình trong hệ thống thể loại tự sự của văn học thế giới cũng như văn học Việt Nam. 1.1.2. Đặc trưng Hệ thống hóa từ các tài liệu bàn về truyện ngắn trong và ngoài nước, chúng tôi tổng hợp và chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của truyện ngắn như sau: * Dung lượng nhỏ (Tính chất ngắn gọn, cô đúc) Xét trong tương quan với các thể loại tự sự khác, truyện ngắn nổi bật lên ở dung lượng “nhỏ” hay tính chất ngắn gọn, cô đúc. Dung lượng phổ biến của một truyện ngắn thường từ 3 đến 50 trang. Những cách gọi này tương ứng với các khái niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn), trung thiên tiểu thuyết (truyện vừa), trường thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ đầu của văn xuôi tự sự hiện đại. Tuy vậy, tính chất của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung lượng nhỏ mà quan trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Dung lượng “nhỏ” vừa 12
  19. là khối lượng câu chữ vừa là nội dung phản ánh của truyện ngắn, đồng thời còn là quy tắc sáng tạo của nhà văn. Đọc một truyện ngắn, độc giả phải khám phá được một vấn đề về cuộc sống nào đó, được bồi đắp thêm những xúc cảm đẹp đẽ cho tâm hồn. Các tác giả truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét đặc trưng, bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn. Về tác động, do tính chất cô đúc, truyện ngắn thường có sự cô đọng và sức truyền tải mạnh mẽ. Theo nhận định của các nhà lý luận nước ngoài thì việc xác định chính xác ranh giới giữa truyện ngắn và truyện dài là một vấn đề phức tạp. Hiện nay, định nghĩa truyện ngắn được nhiều người quan niệm dùng cho các tác phẩm không dài quá 20,000 từ và không ngắn hơn 1000 từ. Như vậy, chúng ta có thể thấy đây là thể tài không bị quy định nghiêm ngặt về khối lượng chữ viết. Truyện ngắn vẫn có độ co giản hợp lý, tùy theo nội dung tác giả chuyển tải sẽ có hình thức phù hợp. * Nhất quán ở các phương thức biểu hiện Nếu như tiểu thuyết mang tính tổng hợp thì truyện ngắn bộc lộ rõ nhất khuynh hướng khắc họa “tính chất đơn nhất… về mặt chọn tình thế… giọng điệu… nhân vật…” [69,tr.379]. Bàn về vấn đề này, tác giả Huỳnh Như Phương trong cuốn Trường phái hình thức Nga và văn xuôi tự sự, Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, trang 73 đã viết: “Có thể so sánh việc đọc tiểu thuyết với một cuộc đi dạo xuyên qua những địa điểm khác nhau và giả định có một lần âm thầm quay lại; còn đọc truyện ngắn thì giống như leo lên một ngọn đồi để thưởng lãm toàn cảnh thiên nhiên từ một độ cao”. Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn có xu hướng đi sâu vào mô tả một hiện tượng, phát hiện một nét đặc trưng cốt lỗi trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Vì thế, trong truyện ngắn, nhân vật có vai trò hết sức quan trọng, là trụ cột của sáng tác, là nơi gửi gắm quan niệm nhân sinh đối với thế giới với con người của nhà văn. Truyện ngắn cũng thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Nhân vật trong truyện ngắn được xây dựng như là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Cùng với nhân vật, cốt truyện được coi là thành phần không kém phần quan trọng, cốt yếu và có vai trò đặc biệt quan trọng trong truyện ngắn. Cốt truyện có chức năng bộc lộ các mâu thuẫn quan trọng trong đời sống nên nhà văn có thể khai thác nó từ các sự kiện có thật trong đời sống, từ các tác phẩm văn học, từ kinh nghiệm sống của bản thân hoặc tưởng tượng... Khác với tiểu thuyết, truyện ngắn đặc biệt quan tâm đến khoảnh khắc trong cuộc đời nhân vật. Do đó, nhà văn phải tìm ra được một tình huống truyện - tức thời điểm một sự việc, một sự kiện xảy ra đối với nhân vật, đưa nhân vật vào tình thế phải 13
  20. đối đầu, phải bộc lộ tích cách và hành động, tức là vấn đề chính của truyện ngắn được mở ra. Với mỗi truyện ngắn, người viết phải phải sáng tạo cho được một tình huống truyện. Tác giả xây dựng truyện ngắn thường dựa trên việc khai thác một mối xung đột, một sự tan vỡ, một sai lầm hay tương phản để tìm ra cái khoảnh khắc giá trị cho truyện ngắn của mình. Trong xây dựng truyện ngắn, nhà văn còn đặc biệt chú ý đến yếu chi tiết và kết cấu tác phẩm. Truyện ngắn luôn đòi hỏi nhà văn phải không ngừng sáng tạo trong việc quan sát, tìm tòi, chọn lựa và xây dựng chi tiết nghệ thuật. Chi tiết được coi là nội dung của truyện ngắn. Chính chi tiết sẽ cụ thể cho chủ đề chung mà tác giả muốn diễn đạt. Nó vừa là phương tiện cho nhà văn khắc họa nhân vật vừa góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng của truyện ngắn. Nhà văn Nguyễn Công Hoan đã từng định nghĩa “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [51, tr.15]. Nhà văn khi sáng tạo truyện ngắn cũng rất chú ý đến cách tổ chức tác phẩm. Truyện ngắn có thể được kết cấu xâu chuỗi theo trình tự thời gian hoặc theo hành động sự kiện, kết cấu tâm lý, kết cấu lắp ghép hoặc kết cấu đồng hiện. Nhìn chung thì các thủ pháp kết cấu trong truyện ngắn thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn và quyết định sự thành công của truyện ngắn Việc tổ chức truyện ngắn còn phụ thuộc vào nghệ thuật sử dụng ngôn từ nghệ thuật của tác giả. Đó là “thứ ngôn ngữ cô đọng, chính xác, trong sáng và vang lên theo cách của mình. Chính thứ ngôn ngữ này truyền đạt tư tưởng, xây dựng tính cách, khiến cho truyện ngắn tràn đầy nhạc điệu” [51, tr.168]. Ngôn ngữ truyện ngắn là ngôn ngữ được ý thức cao độ nhưng vẫn giản dị, chính xác và tươi tắn. * Tính hiệu quả cao Việc sáng tạo truyện ngắn cũng đặt ra một yêu cầu cao đối với nhà văn là mỗi truyện ngắn bắt buộc phải để lại một ấn tượng. Việc đọc truyện ngắn đem lại cho độc giả sự thỏa mãn và hưng phấn về trí óc lẫn tinh thần. Đọc truyện ngắn chính là khám phá sự vô tận về đời sống con người, sự học hỏi làm giàu thêm cho tâm hồn con người như Vương Trí Nhàn đã nhận xét: “Cái đặc điểm duy nhất cũng rõ nhất của truyện ngắn là nằm trong chính sự ngắn gọn của nó, với điều kiện là sự ngắn gọn này đủ tạo nên một hiệu quả nhất định” [68, tr.388]. Vì vậy, mỗi truyện ngắn hay phải đọng lại những âm vang sâu lắng trong lòng người đọc. * Tính năng động kịp thời trước các vấn đề thời sự Có thể nói, truyện ngắn là một hình thức nghệ thuật biểu hiện cuộc sống hiện đại phù hợp nhất. Truyện ngắn ngày càng trở nên hấp dẫn người đọc và không kém phần thu hút người viết vì những đổi thay không ngừng của thể loại. Dó đó, truyện ngắn có sức mạnh nội tại lớn lao. Người ta có thể cho phép tiểu thuyết quay về khái quát một giai đoạn đã qua, nhưng truyện ngắn sẽ trực tiếp tác động mạnh mẽ và kịp 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2