intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Phạm Thái - từ truyện thơ “Sơ kính tân trang” đến tiểu thuyết “Tiêu Sơn tráng sĩ” của Khái Hưng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

48
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ việc khảo sát Phạm Thái như một nhân vật văn học ở cả hai thời trung đại, hiện đại đã được thể hiện ra sao, tiểu luận sẽ tìm hiểu và thử lý giải những yếu tố lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn chương… nào đã tác động đến cách tự thể hiện của tác giả Phạm Thái thành nhân vật văn chương trong thể loại truyện thơ Nôm và cách Khái Hưng tái tạo nhân vật Phạm Thái. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Phạm Thái - từ truyện thơ “Sơ kính tân trang” đến tiểu thuyết “Tiêu Sơn tráng sĩ” của Khái Hưng

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC PHAN SỸ QUÝ PHẠM THÁI - TỪ TRUYỆN THƠ “SƠ KÍNH TÂN TRANG” ĐẾN TIỂU THUYẾT “TIÊU SƠN TRÁNG SĨ” CỦA KHÁI HƯNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN – 2018
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................... 1 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ......................................................................................... 2 2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Phạm Thái........................................................... 2 2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về “Tiêu Sơn tráng sĩ” của Khái Hưng................... 8 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 10 3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................ 11 3.2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................. 11 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 11 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................. 11 4.2. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 11 5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................ 12 5.1. Phạm vi tư liệu ........................................................................................................... 12 5.2. Phạm vi vấn đề .......................................................................................................... 12 6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................... 13 7. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 13 CHƯƠNG 1: BIẾN ĐỘNG LỊCH SỬ VÀ ĐỜI SỐNG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM THẾ KỈ XVIII VỚI SỰ XUẤT HIỆN CỦA PHẠM THÁI ................................................ 14 1.1. Những biến cố lịch sử Việt Nam thế kỷ XVIII .......................................................... 14 1.2. Đời sống văn chương Việt Nam thế kỷ XVIII ........................................................... 16 1.2.1. Sự xuất hiện của những nhân tố ngoài khuôn khổ ................................................. 16 1.2.2. Dòng văn chương “chủ tình”, thể hiện tinh thần nhân đạo chủ nghĩa .................. 20 1.2.3. Sự lên ngôi của các sáng tác bằng chữ Nôm và các thể loại văn học dân tộc ....... 25 1.3. Tiểu sử Phạm Thái ...................................................................................................... 29 CHƯƠNG 2: PHẠM THÁI – CHÂN DUNG TỰ HỌA GIỮA NHỮNG QUY PHẠM THỜI TRUNG ĐẠI ................................................................................................................ 37 2.1. Phạm Thái - con người bổn phận ............................................................................... 37 2.2. Phạm Thái - con người tự nhiên................................................................................. 45 2.2.1. Cảm xúc trong tình yêu nam nữ.............................................................................. 45 2.2.2. Con người tài hoa, phong trần ............................................................................... 55 2.3. Phạm Thái – tác giả văn chương ................................................................................ 59 2.3.1. Quan niệm văn chương ........................................................................................... 59 2.3.2. Phạm Thái với việc viết truyện thơ Nôm ................................................................ 65 CHƯƠNG 3: PHẠM THÁI – TRÁNG SĨ TRONG HƯ CẤU VĂN CHƯƠNG THỜI KỲ THỰC DÂN............................................................................................................................. 68 3.1. Thực tại xã hội Việt Nam những năm 1930 - 1940 ................................................... 68 3.2. Phạm Thái trong Tiêu Sơn tráng sĩ ............................................................................ 72 3.2.1. Dấu vết của ba phương diện trong hình ảnh Phạm Thái thời trung đại ở “Tiêu Sơn tráng sĩ”............................................................................................................................ 72 3.2.2. Những nét “phụ trội” của Phạm Thái trong “Tiêu Sơn tráng sĩ” ......................... 80 3.3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng Phạm Thái của Khái Hưng ................................ 89 3.3.1. Nghệ thuật xây dựng bối cảnh ................................................................................ 89 3.3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................................ 91 KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................... 97
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Phạm Thái (1777-1813) là một nhân vật “lạ” của đời sống xã hội, văn hoá, văn chương Việt Nam thời trung đại. Trong phận vị một kẻ sĩ, giữa biến cố Tây Sơn kéo quân ra Bắc phế truất chúa Trịnh rồi vua Lê, Phạm Thái chọn cách chống lại Tây Sơn. Lựa chọn này đưa ông vào hàng ngũ “trung thần bất sự nhị quân” thường được chuẩn mực đạo đức Nho giáo đề cao, và bộc lộ sự cương ngạnh, cố chấp. Thế nhưng trong nhiều sản phẩm văn chương do ông tạo tác (tiêu biểu là thơ văn khóc Trương Quỳnh Như, thơ Tự trào, Tự thuật, bài phú Chiến tụng Tây Hồ, và đặc biệt là truyện thơ Nôm Sơ kính tân trang), Phạm Thái lại tỏ ra là một con người đầy chất phá cách. Nội dung thơ văn ấy cũng xếp ông vào số ít những người vừa là tác giả vừa là nhân vật của chính mình trong văn chương nghệ thuật thời trung đại. 1.2. Hơn 100 năm sau khi Phạm Thái qua đời, cuộc đời của ông được Khái Hưng tái hiện lại qua một cuốn tiểu thuyết dã sử mang màu sắc kiếm hiệp, Tiêu Sơn tráng sĩ. Dưới cái nhìn của Khái Hưng, Phạm Thái và các bạn đồng chí của ông (những cựu thần trung thành của nhà Lê) mang nét tráng sĩ với khát khao phục quốc cháy bỏng. Điều đặc biệt là trong cuốn tiểu thuyết này, người ta thấy hình bóng của Khái Hưng trong hình tượng Phạm Thái. Tiểu thuyết này được coi là nơi Khái Hưng thể hiện “giấc mơ lãng mạn chống Pháp” [4, tr.716], thể hiện quan niệm chính trị trong hoàn cảnh vong quốc (cụ thể ở đây là đất nước bị thuộc địa hoá). Thực tế, tác phẩm dã sử này của Khái Hưng không phải là hiện tượng cá biệt, vì viết lại lịch sử, mượn lịch sử là một xu thế khá phổ biến trong giới cầm bút Việt Nam thời kỳ trước 1945 như một cách biểu hiện ngầm của tinh thần dân tộc ái quốc. Nhưng việc đưa Phạm Thái - một người tự thể hiện tính cách ngông nghênh, chưa từng được bất kỳ sử liệu nào nhìn nhận ở phẩm cách anh hùng hay công tích với dân tộc - thành nhân vật phục quốc thì lại khiến tác phẩm trở nên đáng chú ý. 1
  4. 1.3. Một quan niệm từng ngự trị phê bình văn chương khá lâu là coi văn chương là sự phản chiếu của thực tại/hiện thực, trong đó có lịch sử. Nhưng gần đây, cái nhìn trên đã được bổ sung bằng quan niệm coi văn chương nghệ thuật như một cảm nhận hoặc nhận thức chủ quan về thực tại. Như vậy, mối quan hệ văn chương - lịch sử đã không chỉ là lịch sử được tái hiện đúng hay sai mà còn là mỗi thời đại, mỗi tác giả có cách diễn giải lịch sử khác nhau. Và câu hỏi nảy sinh từ trường hợp thứ hai là: vì sao lịch sử lại được diễn giải theo cách đó? Bên cạnh đó, quan niệm liên văn bản (intertext) cũng cung cấp cách nhìn thế giới văn bản không chỉ là văn bản này chịu ảnh hưởng của văn bản kia mà là mọi văn bản đều là liên văn bản, tức là mỗi văn bản đều là sản phẩm của sự tương tác giữa các văn bản. Đây chính là những gợi dẫn thú vị cho việc nhìn lại hiện tượng Phạm Thái - tác giả văn học trở thành Phạm Thái - nhân vật văn học. Trên đây là những lý do để chúng tôi chọn việc Phạm Thái - từ truyện thơ “Sơ kính tân trang” đến tiểu thuyết “Tiêu Sơn tráng sĩ” của Khái Hưng làm chủ đề nghiên cứu cho luận văn này. 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Phạm Thái 2.1.1. Về việc sưu tầm, giới thiệu thơ văn của Phạm Thái Trong kho lưu trữ tư liệu Hán Nôm (tại Viện nghiên cứu Hán Nôm), di sản của Phạm Thái chỉ còn duy nhất một văn bản mang tên Sơ kính tân trang ký hiệu A.1390 do Nguyễn Tử Mẫn chép năm 1883. Ngoài truyện thơ Sơ kính tân trang viết bằng chữ Nôm, “đầu sách có bài Chiêu Tôn Sư tân trang truyện thuyết và bài Trùng bạch đường thư thuyết của Nguyễn Tử Mẫn giới thiệu thân thế sự nghiệp Phạm Thái; các bài Mĩ nữ đề hồi văn cách thi, Tần sĩ lục và Từ Văn Trường truyện của Phạm Thái”1. Chuyển sang thời kỳ hiện đại (Âu hoá), khi chữ quốc ngữ thay thế văn tự Hán Nôm, đã xuất hiện phong trào xây dựng nền quốc văn với mục đích bảo tồn văn hoá truyền thống của dân tộc. Một trong những hoạt động của phong trào đó là biên khảo, phiên dịch các tác phẩm Hán Nôm sang chữ quốc ngữ. Và vào năm 1 Nguồn dẫn http://www.hannom.org.vn/default.asp?catID=246&c=80 2
  5. 1932, Sở Cuồng Lê Dư đã công bố Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập giới thiệu với độc giả hiện đại di sản văn chương của Phạm Thái, với các hình thức văn thể: thơ, câu đối, văn vần, văn xuôi, truyện thơ - tổng cộng 38 đơn vị tác phẩm [7]. Cùng thời gian đó, Trần Trung Viên tiến hành tuyển chọn tác phẩm văn chương truyền thống làm thành một ấn bản có tên Văn đàn bảo giám (biên soạn từ năm 1926 đến 1938), trong đó tác phẩm của Phạm Thái được chia ra giới thiệu ở các thể: Thơ thất ngôn bát cú (có các bài: Tự trào, Cảm thán, Gửi cho tình nhân, Khóc cô Trương Quỳnh Như, Mơ tưởng Quỳnh Như), Thơ yết hậu (có: Tự trào, Cha mắng con cờ bạc, Con trách cha nghiện rượu, Than nỗi chồng con, Bợm rượu, Con lươn), Văn sách (Khóc cô Trương Quỳnh Như) - tổng cộng 12 bài [68]. Hai công trình trên có lẽ là cơ sở văn bản chính cho Ngô Tất Tố thực hiện một giới thiệu trích lục về tác phẩm Phạm Thái (dưới tên tác giả Phạm Đan Phượng) trong Thi văn bình chú vào năm 1941. Ở ấn phẩm này, Ngô Tất Tố cung cấp cho độc giả 4 tác phẩm, là Gửi cô Trương Quỳnh Như, Khóc cô Trương Quỳnh Như, Tự trào, Tự thuật [62]. Năm 1960, Lại Ngọc Cang giới thiệu tác phẩm Sơ kính tân trang. Trong cuốn sách này, Lại Ngọc Cang cung cấp thêm một dị bản của truyện thơ này. Cuối sách có thêm phần phụ lục các tác phẩm của Phạm Thái và các bài thơ xướng họa của Trương Quỳnh Như. Tuy nhiên nhà nghiên cứu cũng trình bày rõ “Thơ văn ở phần phụ lục này đều chép trong “Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập” [3, tr.257]. Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay, Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập của Sở Cuồng Lê Dư vẫn là sưu tập đầu tiên và đầy đủ nhất sáng tác của Phạm Thái, và cùng với khảo cứu Sơ kính tân trang của Lại Ngọc Cang, đây là những cơ sở tư liệu cho các nghiên cứu về Phạm Thái. 2.1.2. Về việc nghiên cứu, đánh giá về Phạm Thái với tư cách một tác giả thời kì trung đại Cũng có thể coi là một hiện tượng lạ khi Phạm Thái không bao giờ được coi là một tác giả lớn của văn chương trung đại nhưng ông lại là tác giả được 3
  6. viết riêng thành mục trong gần như tất cả các bộ văn học sử ở các giai đoạn khác nhau, như Việt Nam văn học sử yếu (Dương Quảng Hàm, 1941) - trước 1945, Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn (1957), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957, quyển IV), Nguyễn Lộc với Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX (1976), Hoàng Hữu Yên với phần viết về Phạm Thái trong Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX (1990) - miền Bắc, sau 1945, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1967) của Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ với Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1969) - miền Nam, sau 1945. Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, như: Phạm Thái, một bộ diện đặc biệt trong văn học cuối Lê, đầu Nguyễn (Nguyễn Văn Xung, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 167, ngày 1/12/1970), Trao đổi với ông Nguyễn Văn Xung về chuyện “say mê” hay đánh giá lại cuộc đời Phạm Thái (Trần Nghĩa, Tạp chí văn học, số 5, năm 1971), Phổ Chiêu thiền sư và những sáng tác văn học đặc sắc của ông (Nguyễn Phạm Hùng, Tạp chí nghiên cứu Phật học, số 4, năm 2007), Phạm Thái - tài hoa và bi kịch (Đặng Thị Hảo, Tạp chí văn học, số 9, năm 2009), Đường mơ về tự ngã trong thơ văn Phạm Thái (Quang Huy, Tạp chí Sông Hương, năm 2013),... và mục từ “Phạm Thái” (do Nguyễn Huệ Chi biên soạn [4, tr.1368] trong Từ điển văn học bộ mới (2004)… Có thể nhận thấy, tất cả các nghiên cứu trên đều đã dành những phần viết đáng kể cho tác phẩm chính của Phạm Thái là Sơ kính tân trang. Bên cạnh đó còn có một số thực hành nghiên cứu thuộc các chương trình đào tạo cũng lấy tác phẩm này làm đối tượng tìm hiểu, như: luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Cảm hứng lãng mạn trong Sơ kính tân trang của Phạm Nam Trung (Đại học Vinh, 2006), Con người Phạm Thái qua thơ văn của Nguyễn Thị Kim Liên (Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007). Và một số sách, bài viết đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành như: Một số ý kiến về việc đánh giá Sơ kính tân trang (Triêu Dương, Nghiên cứu văn học, số 2, năm 1960), Qua những ý kiến khác nhau về Sơ kính tân trang của Phạm Thái (Nguyễn Nghiệp, Nghiên cứu văn học, số 2, năm 1963), Phạm Thái 4
  7. và “Sơ kính tân trang” (Nguyễn Văn Xung, Lửa thiêng xb, Sài Gòn, năm 1972), Mô hình kết cấu truyện Sơ kính tân trang của Phạm Thái (Nguyễn Thị Nhàn, Tạp chí văn học, số 8, năm 2000)…, mục từ “Sơ kính tân trang” (do Nguyễn Lộc biên soạn) [4, tr.1561-1562] trong Từ điển văn học bộ mới (2004). Qua các công trình, bài viết trên, các nhà nghiên cứu trên đã tập trung vào hai phương diện chính: về cuộc đời và di sản thơ văn của Phạm Thái với tâm điểm là truyện thơ Nôm Sơ kính tân trang. 2.1.2.1. Đánh giá về cuộc đời Phạm Thái hầu hết các tác giả đều thống nhất với các chi tiết tiểu sử Phạm Thái. Trong đó, Nguyễn Lộc là người đề cập một cách kĩ lưỡng nhất. Theo tác giả, Phạm Thái vốn xuất thân trong một gia đình võ quan dưới thời Lê Cảnh Hưng. Khi nhà Tây Sơn thành lập, cha Phạm Thái là Thạch Trung hầu Phạm Đạt từng cất quân chống lại nhưng không thành rồi mất. Phạm Thái khi ấy mới mười chín tuổi, nối chí cha, đã tìm đến với Nguyễn Đoàn để tham gia cuộc khởi nghĩa chống Tây Sơn nhưng rồi Nguyễn Đoàn cũng thất bại. Phạm Thái bị truy nã, phải ẩn náu nhiều nơi, giả dạng đi tu, lấy đạo hiệu là Phổ Chiêu thiền sư. Sau đó, Phạm Thái vẫn còn tìm cách chống Tây Sơn, bôn ba nhiều nơi nhưng rút cục đều không thành công. Cuối cùng “Phạm Thái mất ở Thanh Hóa, mới ba mươi sáu tuổi, kết thúc cuộc đời đầy bi kịch chua chát của một con người tài hoa nhưng đi ngược dòng lịch sử” [35, tr.309]. Thống nhất về chi tiết, song các nhà nghiên cứu lại khác biệt trong đánh giá về thái độ chính trị này của Phạm Thái. Nhóm các nhà nghiên cứu coi trọng lập trường giai cấp (như Văn Tân, Lại Ngọc Cang, Nguyễn Lộc, Triêu Dương, Trần Nghĩa, Nguyễn Nghiệp,…) cho đó là thái độ “cực kỳ phản động”, “đặt lợi ích đẳng cấp lên trên lợi ích dân tộc” [54, tr.196], hay Lại Ngọc Cang cho rằng Phạm Thái mang tư trưởng trung quân đến cực đoan [3, tr.15-16], Nguyễn Lộc cũng đánh giá đó là thái độ “phản động về chính trị” [35, tr.322]. Còn nhóm kia (bao gồm Dương Quảng Hàm, Lê Trí Viễn, Hoàng Hữu Yên - tại miền Bắc, hay Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Văn Xung - ở miền Nam,…) lại có cái 5
  8. nhìn khoan hòa hơn về vấn đề này, đặc biệt là học giới miền Nam trước 19751. Tác giả Nguyễn Văn Xung cho là “Phạm Thái say mê giấc mộng anh hùng của thời đại” [73, tr.35]. Còn trong các bộ lịch sử văn học hầu như không bình luận, đánh giá gì về thái độ chính trị này của Phạm Thái: Thanh Lãng chỉ giới thiệu vắn tắt rằng “Phạm Thái định nối chí cha, đi tìm đồng chí để lo sự khôi phục. Bị truy nã, ông phải trá hình đi tu ở chùa Tiêu Sơn, lấy hiệu là Phổ Chiêu thiền sư” [31, tr.569], Phạm Thế Ngũ thì xếp Phạm Thái vào các tác giả có khuynh hướng chống Tây Sơn cùng với Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Huy Dao, Lê Quýnh [44, tr.303] nhưng không đưa ra bất kỳ bình luận nào. Hai quan điểm khác biệt đó sẽ dẫn đến những nhận định khác nhau về giá trị thơ văn của Phạm Thái, đặc biệt là bài phú Chiến tụng Tây Hồ. Ngoài tư tưởng chính trị chống Tây Sơn, các nhà nghiên cứu khi viết về cuộc đời Phạm Thái còn đặc biệt chú ý tới mối tình của ông với Trương Quỳnh Như. Chính mối tình này là nguồn cảm hứng lớn chi phối sự nghiệp thơ văn Phạm Thái. Thậm chí, Hoàng Hữu Yên còn nhấn mạnh “Sự kiện quan trọng nhất chi phối cuộc đời tài hoa của Phạm Thái không phải là chí phò Lê - Trịnh, dấn thân cho sự nghiệp Cần vương mà là mối tình hận giữa ông và nữ sĩ Quỳnh Như nổi tiếng” [75, tr.147]. 2.1.2.2. Như trên đã nói, Sơ kính tân trang là tác phẩm đặc sắc nhất trong di sản thơ văn của Phạm Thái nên đã thu hút nhiều nhất sự chú ý của giới nghiên cứu. Vì mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu con người Phạm Thái được thể hiện như thế nào qua chính thơ văn của ông, nên chúng tôi chỉ tập trung lược thuật những ý kiến đánh giá về nội dung của tác phẩm. Về vấn đề này, tư liệu nghiên cứu cho thấy có hai luồng ý kiến chính như sau: Luồng ý kiến thứ nhất phủ nhận giá trị nội dung của Sơ kính tân trang. Các tác giả Văn Tân (trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam), Triêu Dương (trong bài “Một số ý kiến về việc đánh giá Sơ kính tân trang”), Nguyễn Nghiệp 1 Hai bài viết: Phạm Thái, một bộ diện đặc biệt trong văn học cuối Lê, đầu Nguyễn của Nguyễn Văn Xung công bố tại miền Nam năm 1970 và bài Trao đổi với ông Nguyễn Văn Xung về chuyện “say mê” hay đánh giá lại cuộc đời Phạm Thái do Trần Nghĩa thực hiện tại miền Bắc năm 1971 có thể coi là đại diện cho hai quan niệm khác biệt đó. 6
  9. (trong bài viết “Qua những ý kiến khác nhau về Sơ kính tân trang của Phạm Thái”), Trần Nghĩa (Trong bài “Trao đổi với ông Nguyễn Văn Xung về chuyện “say mê” hay đánh giá lại cuộc đời Phạm Thái”)… đều cho rằng tác phẩm còn nhiều hạn chế về mặt tư tưởng. Theo Văn Tân thì cuốn truyện cơ hồ không còn chút giá trị gì, thậm chí chứa đựng cả “một sự dụng tâm nằm trong hệ thống tư tưởng chống lại triều đại Tây Sơn, chống khởi nghĩa nông dân” [54, tr.199]. Nguyễn Nghiệp còn cực đoan hơn khi đem áp đặt quan điểm chính trị của Phạm Thái vào việc đánh giá tác phẩm, từ đó ông cho rằng “cái phần chủ yếu, cái khuynh hướng quán triệt trong Sơ kính tân trang vẫn là cái phần tiêu cực của nó”. Nhà nghiên cứu này không phủ nhận đóng góp của tác phẩm là “tiếng nói của tình yêu say sưa và chung thủy, phần yêu thiên nhiên, cảnh vật của đất nước chúng ta” nhưng “xét về toàn bộ tác phẩm mà nói, thử hỏi tác dụng giáo dục của Sơ kính tân trang đối với thế hệ chúng ta phỏng được bao nhiêu. Một con người với một tư tưởng căn bản là phản động và tiêu cực như Phạm Thái làm sao có thể tạo ra những giá trị nhân đạo cao cả, có tác dụng giáo dục lớn cho các thế hệ được” [47, tr.57]. Luồng ý kiến thứ hai đề cao giá trị của Sơ kính tân trang. Ngoài các bộ lịch sử văn học của nhóm Lê Quý Đôn, Hoàng Hữu Yên thì Lại Ngọc Cang trong tập khảo thích và giới thiệu Sơ kính tân trang, Nguyễn Văn Xung (trong “Phạm Thái và Sơ kính tân trang”)… đều thống nhất cho rằng tác phẩm ngợi ca tình yêu tự do, vượt lên mọi sự kiềm tỏa khắt khe của lễ giáo phong kiến. Tác giả Hoàng Hữu Yên đánh giá Sơ kính tân trang là “một bản tình ca độc đáo”, “những mối tình trong tác phẩm không có sự phân biệt sang hèn, là những bông hoa hàm tiếu, hễ gặp tiết lành thì tỏa sắc ngát hương” [75, tr.155]. 2.1.2.3. Nhận định về tài năng của Phạm Thái: Qua di sản văn học mà Phạm Thái để lại các nhà nghiên cứu nhìn chung đều đánh giá ông là một cây bút tài hoa, phóng túng, có nhiều sáng tạo nghệ thuật độc đáo, tác phẩm mang yếu tố trữ tình đậm nét. Truyện thơ Sơ kính tân trang được Lại Ngọc Cang chỉ ra rất nhiều thiếu sót của tác phẩm như kết cấu lỏng lẻo, “có nhiều đoạn rời rạc đến mức có thể 7
  10. nói là chắp vá” [3, tr.45]. Đồng tình với quan niệm này, Nguyễn Lộc cho rằng “Sơ kính tân trang là truyện thơ nhưng hình như tác giả của nó không sành lắm về thể loại văn học này” [35, tr.327]. Tuy nhiên, lại có ý kiến cho rằng đó là chỗ sáng tạo độc đáo của tác giả. Hoàng Hữu Yên cho rằng chính việc kết cấu truyện không diễn biến như các truyện thơ khác lại “tạo nên nét mới của nghệ thuật tả tình ít thấy trong loại truyện thơ tình yêu” [75, tr.161]. Đặc biệt, chất tự truyện của truyện thơ Nôm này đã được tất cả các nghiên cứu thừa nhận, trong đó Lê Trí Viễn và Hoàng Hữu Yên là những người đưa ra những đánh giá cao nhất. Lê Trí Viễn coi chất tự truyện này là một trong những “sáng kiến mới lạ” [32, tr.99] của tác giả Phạm Thái. Đến Hoàng Hữu Yên, “thiên tự truyện” này được đánh giá “vừa là sự thách thức của tác giả đối với hiện thực xã hội tàn bạo, vừa là tuyên ngôn về lẽ sống của tác giả: đeo đuổi tình yêu đắm say, chân thật và tự do là lý tưởng, là khát vọng của con người” [75, tr.151] 2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về “Tiêu Sơn tráng sĩ” của Khái Hưng Khái Hưng là một trong những nhà văn chủ chốt của Tự lực văn đoàn, viết về ông đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều điều chưa minh bạch. Thực chất cái chết và tư tưởng chính trị của Khái Hưng hiện vẫn chỉ được bàn luận một cách phi chính thức. Sự nghiệp văn chương của ông cũng được định hướng tìm hiểu vào các chủ đề chống lễ giáo, giải phóng cá nhân. Chính vì vậy, tiểu thuyết dã sử duy nhất của ông là Tiêu Sơn tráng sĩ tuy được tất cả các bộ văn học sử nhắc đến trong những lời giới thiệu, trong những bài nghiên cứu về sự nghiệp văn học của Khái Hưng song hầu như chưa có một công trình nghiên cứu độc lập nào quan tâm. Phan Cự Đệ có lẽ là nhà nghiên cứu đầu tiên công khai bày tỏ quan điểm của mình về Tiêu Sơn tráng sĩ. Trong bài “Góp ý về việc tái bản Tiêu Sơn tráng sĩ” viết năm 1957 ông cho rằng đây là tác phẩm đã “bôi nhọ một phong trào quần chúng nông dân khởi nghĩa, đã đề cao tầng lớp phong kiến suy tàn, đề cao những con người phiêu lưu anh hùng, những con người thất bại chạy trốn thực tế”. Về tư tưởng của Khái Hưng bộc lộ trong tác phẩm, Phan Cự Đệ cho rằng: 8
  11. “Càng nhìn về trước chúng ta càng thấy rõ hơn tư tưởng bảo thủ lạc hậu của Khái Hưng. Từ năm 1933, sau cao trào Xô Viết Nghệ An, Khái Hưng đã ru ngủ thanh niên vào đạo phật và tình yêu (…) Cho đến 1940, Tiêu sơn tráng sĩ ra đời với một tác dụng phản động sâu sắc, trắng trợn hơn”. Từ đó, nhà nghiên cứu kết luận “việc xuất bản và phổ biến rộng rãi Tiêu sơn tráng sĩ trong giai đoạn hiện nay là một việc không có lợi. Nó không đóng góp gì vào việc xây dựng đời sống tình cảm và tư tưởng cho thanh niên mà còn gây tác hại là đàng khác” [9, tr.5-6]. Ý kiến này có rất nhiều tương đồng với quan điểm của Văn Tân (và một số người khác) khi nhận định về Sơ kính tân trang mà chúng tôi đã lược thuật ở trên, bởi cùng đứng trên điểm nhìn giai cấp cực đoan. Năm 1988, sau 31 năm, Phan Cự Đệ lại viết lời giới thiệu cho cuốn Tiêu Sơn tráng sĩ của Nhà xuất bản Đại học và giáo dục chuyên nghiệp. Mặc dù vẫn giữ quan điểm phê phán khuynh hướng tư tưởng của Khái Hưng trong tác phẩm nhưng cách đánh giá của Phan Cự Đệ ở lời giới thiệu sách lần này đã nhẹ nhàng hơn. Ông thừa nhận: “Công bằng mà nói thì những đảng viên Tiêu Sơn như Phạm Thái, Trịnh Đản cũng có tinh thần dân tộc khi họ lên án triều đình Mãn Thanh làm nhục vua Lê, khi họ vạch trần âm mưu xâm lược của bọn phong kiến Trung Quốc” [10, tr.7-8]. Ông cũng chỉ ra chỗ hấp dẫn của Tiêu Sơn tráng sĩ chính là vẻ đẹp của “những người anh hùng chiến bại” và lí giải cho vấn đề Khái Hưng không phản ánh được không khí cách mạng của đất nước ta lúc bấy giờ bằng đặc trưng thể loại của tác phẩm; Tiêu Sơn tráng sĩ là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn nên nhà văn tôn thờ chủ trương “nghệ thuật vị nghệ thuật”, “đem đối lập cái Đẹp với cái Hữu ích, cái Đẹp với tính mục đích. Cho nên người anh hùng phải chiến bại, tình yêu phải đổ vỡ, tan tác, chia li mới là đẹp” [10, tr.9-10]. Từ góc nhìn trung đại, Nguyễn Lộc dường như là nhà nghiên cứu duy nhất chỉ ra sự tiếp nối của hình ảnh Phạm Thái ở thời hiện đại. Ông đánh giá việc Khái Hưng viết về Phạm Thái “như tìm đến một người bạn tâm tình”, tuy nhiên trong thời kì phong trào đấu tranh cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo thì việc ngợi ca Phạm Thái chỉ là “biểu hiện của một thái độ tiêu cực quay lưng lại cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lúc bấy giờ” [36, tr.323]. 9
  12. Nhà văn Thụy Khê trong bài nghiên cứu về tác giả Khái Hưng (năm 2009) đã đánh giá “Tiêu Sơn tráng sĩ là cuốn tiểu thuyết lịch sử hay nhất của văn học Việt Nam từ Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm (1659–1736), Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái đến ngày nay”. Bà cũng đã chỉ ra mục đích của Khái Hưng khi viết Tiêu Sơn tráng sĩ là để “kiện toàn một đời người, một đời văn, một cuộc đấu tranh giành độc lập, thất bại”, theo đó các nhân vật chính trong truyện chính là hình ảnh của các nhà văn trong Tự lực văn đoàn: “Trần Quang Ngọc phải là Nhất Linh, Khái Hưng phải là Phạm Thái” [29] và đảng Tiêu Sơn chính là Việt Nam quốc dân đảng. Như vậy, qua khảo sát các công trình nghiên cứu về di sản thơ văn Phạm Thái và tiểu thuyết Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng có thể thấy các nhà nghiên cứu đã có những tìm tòi, phát hiện về thơ văn Phạm Thái, về con người ông; đã nhận ra chất tự thuật/tự truyện trong các tác phẩm của ông; đã công nhận sự “tái sinh” của Phạm Thái ở thời hiện đại nhưng chưa có một công trình nào có cái nhìn xuyên thời gian1 để thấy được từ một tác giả thời trung đại đến một nhân vật trong tiểu thuyết thời hiện đại Phạm Thái đã diễn ra như thế nào? Khái Hưng đã kế thừa và sáng tạo, hư cấu thêm điều gì về con người ấy? Bản thân những luận bàn về tư tưởng chính trị của Phạm Thái, về giá trị tác phẩm mang tính tự thuật của ông là Sơ kính tân trang cũng bị nhiều giới hạn lịch sử, cần được điều chỉnh hoặc bổ sung cách hiểu. Và việc Phạm Thái tái sinh trong bối cảnh vong quốc, xã hội bị thực dân hoá qua ngòi bút của một thành viên Tự lực văn đoàn cũng là những tình huống có ý nghĩa. Đây chính là những vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 1 Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn của Nguyễn Thị Kim Liên với đề tài Con người Phạm Thái qua thơ văn là nghiên cứu khá gần với hướng quan tâm của chúng tôi, song tác giả luận văn đã dừng lại ở Phạm Thái thời trung đại. Thêm nữa, trong luận văn này tác giả Nguyễn Thị Kim Liên đã đặc biệt đi sâu vào phân tích các phương diện nghệ thuật trong sáng tác của Phạm Thái - đây là đóng góp riêng của luận văn, còn lại những nhận định, kiến giải về cuộc đời, tư tưởng, giá trị thơ văn của Phạm Thái, tuy có mềm mỏng hơn, song về căn bản chưa có đóng góp mới. 10
  13. 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn sẽ tìm hiểu Phạm Thái với tư cách là một nhân vật tự họa dưới những ước thúc của thời kì trung đại và Phạm Thái với tư cách là nhân vật văn học tái tạo trong bối cảnh thuộc địa thời kì hiện đại. Đồng thời, việc xây dựng hình ảnh Phạm Thái ở giai đoạn thứ hai (hiện đại) cũng sẽ được phân tích như một kiểu liên văn bản. 3.2. Mục tiêu nghiên cứu Từ việc khảo sát Phạm Thái như một nhân vật văn học ở cả hai thời trung đại, hiện đại đã được thể hiện ra sao, tiểu luận sẽ tìm hiểu và thử lý giải những yếu tố lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn chương… nào đã tác động đến cách tự thể hiện của tác giả Phạm Thái thành nhân vật văn chương trong thể loại truyện thơ Nôm và cách Khái Hưng tái tạo nhân vật Phạm Thái. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn sẽ: - Dựng lại chân dung Phạm Thái qua tác phẩm của chính ông và qua những ước thúc (tư tưởng, văn hóa, văn chương) thời trung đại. Đây là phần viết sẽ có những đối thoại với một số định giá trước đây về Sơ kính tân trang và chất tự thuật ở một số sáng tác khác của Phạm Thái. - Đối sánh chân dung tự họa đó với hình tượng hư cấu trong Tiêu Sơn tráng sĩ. - Chỉ ra tính kế thừa và những điểm sáng tạo của Khái Hưng khi xây dựng lại hình tượng Phạm Thái. Trả lời câu hỏi: Vì sao có sự tái sinh của Phạm Thái trong thời kỳ Việt Nam là một xứ thuộc địa (những năm 1930-1940), và sự tái sinh đó có ý nghĩa gì đối với tư tưởng và văn chương đương thời. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Do vấn đề quan tâm thuộc lĩnh vực văn học sử nên luận văn sẽ đặt đối tượng nghiên cứu vào bối cảnh của nó, đó là cái nhìn lịch sử (tức phương pháp văn học sử). Đây là một phương pháp rất quan trọng để xác định mối quan hệ giữa hoàn cảnh với sáng tác của tác giả, thấy được những tác động của hoàn 11
  14. cảnh tới tư tưởng, quan điểm sáng tác và quan điểm nghệ thuật của tác giả trong quá trình sáng tác văn chương. Bên cạnh đó luận văn cũng sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để xử lý vấn đề. Bởi vì luận văn có đối tượng nghiên cứu là văn chương nhưng định hướng triển khai liên quan đến nhiều vấn đề về tư tưởng, lịch sử, xã hội, văn hóa,... nên sẽ đòi hỏi phải kết hợp nhiều tri thức và điểm nhìn để có thể tiếp cận, nhận diện vấn đề một cách phù hợp và giải quyết thỏa đáng. Các hướng tiếp cận trên sẽ được cụ thể hoá trong một số thao tác như hệ thống hóa, so sánh, phân tích. 5. Phạm vi nghiên cứu 5.1. Phạm vi tư liệu Toàn bộ tác phẩm của Phạm Thái do các nhà nghiên cứu trước đây giới thiệu sẽ được chúng tôi tham khảo, là: - Phổ Chiêu htiền sư thi văn tập của Sở Cuồng Lê Dư - Truyện thơ Sơ kính tân trang (bản của Lại Ngọc Cang) - Tiểu thuyết Tiêu Sơn tráng sĩ (1936) của Khái Hưng Trên thực tế, sau Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng, Phan Khắc Khoan đã dựa theo đó soạn hai vở kịch thơ mang tên Phạm Thái (1942), Quỳnh Như (1943). Nhưng trong nghiên cứu này, chúng tôi tạm gác lại kịch thơ của Phan Khắc Khoan, vì 2 lý do: 1/Khuôn khổ hạn chế của luận văn bậc cao học, 2/Vở kịch thơ về căn bản dựa theo tiểu thuyết của Khái Hưng. 5.2. Phạm vi vấn đề Chọn đề tài là Phạm Thái - từ truyện thơ “Sơ kính tân trang” đến tiểu thuyết “Tiêu Sơn tráng sĩ” của Khái Hưng nên luận văn sẽ không nghiên cứu tất cả các vấn đề liên quan đến Phạm Thái mà quan tâm đến việc Phạm Thái tự thể hiện mình như thế nào trong truyện thơ Nôm thời trung đại và hình tượng Phạm Thái trong tác phẩm Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng, những sáng tác thơ văn khác (thể hiện quan niệm tình yêu và lí tưởng chính trị, thể hiện tài năng nghệ thuật) của Phạm Thái - tác giả văn chương - sẽ được sử dụng phụ trợ cho việc tìm hiểu nội dung chính của luận văn. 12
  15. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần MỞ ĐẦU, KẾT LUẬN, và TÀI LIỆU THAM KHẢO, luận văn có 3 chương chính: Chương 1. Biến động lịch sử và đời sống văn chương Việt Nam thế kỷ XVIII với sự xuất hiện của Phạm Thái Chương 2. Phạm Thái - chân dung tự họa giữa những quy phạm thời trung đại Chương 3. Phạm Thái - tráng sĩ trong hư cấu văn chương thời kỳ thuộc địa 7. Đóng góp của luận văn - Dựa trên những tư liệu mới, luận văn sẽ cung cấp một tổng thuật tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến luận văn, với những đánh giá riêng. - Thiết lập sự liên kết và chuyển động của tác giả Phạm Thái với nhân vật Phạm Thái từ văn chương trung đại đến hiện đại. - Lý giải các hiện tượng đó từ khuôn khổ của lịch sử, văn hóa của mỗi giai đoạn. Tóm lại, luận văn sẽ là sự kế thừa các nghiên cứu trước đây, liên kết đối tượng quan tâm trong dòng thời gian, đồng thời cố gắng có những lý giải mới hoặc thảo luận lại một số nhận định do các nhà nghiên cứu đưa ra trước đây. 13
  16. CHƯƠNG 1 BIẾN ĐỘNG LỊCH SỬ VÀ ĐỜI SỐNG VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM THẾ KỈ XVIII VỚI SỰ XUẤT HIỆN CỦA PHẠM THÁI 1.1. Những biến cố lịch sử Việt Nam thế kỷ XVIII Bước vào thế kỉ XVIII nội chiến diễn ra trong các thế kỉ XVI, XVII tạm chấm dứt nhưng loạn lạc vẫn xảy ra khắp nơi. Ở Đàng Ngoài, quyền lực rơi vào tay chúa Trịnh, vua Lê chỉ là bù nhìn. Trong giai đoạn đầu nắm quyền, các chúa Trịnh có nhiều chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Các khoa thi tuyển chọn nhân tài được tổ chức khá đều đặn đã tạo nên nhiều trường thi, nhiều nhà văn hóa lớn của đất nước thời kỳ này để lại dấu ấn đáng kể như Phùng Khắc Khoan, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú… Song, những vị chúa cuối cùng như Trịnh Cán, Trịnh Tông (Khải), Trịnh Bồng càng ngày càng tham lam về quyền lực khiến bộ máy chính quyền cuối thời Lê - Trịnh vừa chuyên chế lại vừa sâu mọt. Các vua Lê thì chỉ biết khoanh tay rũ áo, trong khi các chúa cũng không còn oai phong lẫm liệt như Trịnh Kiểm ngày nào giúp vua khôi phục cơ nghiệp. Sự tồn tại song song cả cung vua và phủ chúa, nhất là sự bất lực của vua Lê trước chúa Trịnh khiến việc duy trì các thiết chế văn hóa xã hội không còn được như trước, trong đó có đạo đức phong kiến. Tính chính thống của quyền lực bị xâm phạm dẫn đến sự đảo lộn tôn ti và kỷ cương, sự lung lay các chuẩn mực đạo đức Nho giáo như tam cương ngũ thường. Từ năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750) đời vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Sâm, ngân khố kiệt quệ, triều đình thiếu tiền nên có lệ mua quan bán tước. Họ Trịnh đặt ra lệ “cứ từ tứ phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc. Còn những người chân trắng mà nộp 2800 quan thì được bổ làm tri phủ, 1800 quan thì được bổ tri huyện” [30, tr.55], do đó lúc bấy giờ người đi làm ruộng, đi buôn bán đều được quyền vào thi. Lịch triều hiến chương loại chí có ghi rõ: “người làm ruộng, người đi buôn cho chí người hàng thịt, người buôn bán vặt cũng đều làm đơn 14
  17. nộp tiền xin đi thi cả. Ngày vào thi đông đến nỗi giày xéo lẫn nhau, có người bị giẫm chết ngay cửa trường thi. Trong trường thi, nào mang sách, nào hỏi chữ, nào mượn người thi hộ, công nhiên làm bậy, không còn biết phép thi là gì, những người có thực tài mười phần không đậu một...” [6, tr.31]. Tuy nhiên, hoàn cảnh tao loạn lại cũng là cơ hội cho tư tưởng vượt khỏi khuôn khổ xã hội nảy sinh. Điều đó hết sức có ý nghĩa đối với sự phát triển của văn học. Tình hình kinh tế và chính trị như thế dẫn đến kết quả tất yếu là sự phẫn nộ của quần chúng nhân dân và sự bùng nổ của phong trào nông dân khởi nghĩa. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam, chỉ một thời gian ngắn mà lại diễn ra nhiều phong trào nông dân sôi nổi và rầm rộ như vậy1. Đặc biệt, năm 1771, ở Đàng Trong đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong lịch sử nước ta, đó là cuộc khởi nghĩa của quân Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Không những thế, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ Quang Trung, lực lượng này còn buộc quân xâm lược phương Bắc phải rút khỏi lãnh thổ. Như vậy, ý nghĩa lớn lao của cuộc khởi nghĩa này không phải ở chỗ nó lan rộng toàn quốc hay đã thực hiện một số yêu cầu bức thiết của nông dân mà ở chỗ phong trào đã thực hiện được nhiều nhiệm vụ dân tộc trọng đại: - Chấm dứt tình trạng “lưỡng đầu chế” Lê – Trịnh, xoá bỏ ranh giới chia cắt lãnh thổ Trịnh (Đàng Ngoài) - Nguyễn (Đàng Trong). - Đánh đuổi hai đội quân xâm lược: quân Xiêm ở Đàng Trong và quân Thanh ở Đàng Ngoài, bảo vệ độc lập dân tộc. Trong cuộc khởi nghĩa này nổi lên vai trò của người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ. Sau khi lên ngôi, vua Quang Trung đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế, công thương nghiệp; chính trị, ngoại giao cũng có nhiều tiến bộ tích cực. Đặc biệt về văn hóa, tư tưởng, triều đại Tây Sơn rất có ý thức xây dựng một nền văn hóa mang tinh thần tự chủ. Chữ Nôm được khuyến 1 Năm 1737 nhà sư Nguyễn Dương Hưng nổi dậy ở Tam Đảo. Năm 1738, Lê Duy Mật đảo chính ở Thăng Long nhưng thất bại, sau đó chạy vào miền núi Thanh Hóa xây dựng lực lượng đối đầu với triều đình. Năm 1739, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Ngô Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Sau khi Nguyễn Cừ thua trận, Nguyễn Hữu Cầu (Quận He) đã lãnh đạo nghĩa quân, lực lượng trải rộng trên địa bàn rộng lớn suốt từ miền đồng bằng Sơn Nam đến tận Tây Bắc, đối địch với triều đình suốt 30 năm liền (1739–1769). 15
  18. khích phát triển. Năm 1791, nhà vua cho thành lập viện Sùng chính, mời La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp làm viện trưởng để dịch các sách chữ Hán ra chữ Nôm. Quang Trung cũng có chính sách cầu hiền rộng mở nên trong một thời gian ngắn, đã thu hút được nhiều nhân tài ra giúp triều đại mới như: Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp… Tuy nhiên, khi vương triều Tây Sơn xuất hiện cũng đặt các sĩ phu Bắc Hà vào một tình huống phải lựa chọn: sẽ phụng sự cho triều đại nào? Bên cạnh những trí sĩ thức thời đi theo nhà Tây Sơn như đã kể trên thì cũng còn nhiều trí sĩ vì tư tưởng trung quân mà chọn con đường bất hợp tác, thậm chí chống đối nhà Tây Sơn như Phạm Thái, Nguyễn Bá Xuyến… Điều đó thể hiện tính chất phức tạp trong tư tưởng và cách ứng xử trước thời cuộc của các nhà nho thời kì này. 1.2. Đời sống văn chương Việt Nam thế kỷ XVIII 1.2.1. Sự xuất hiện của những nhân tố ngoài khuôn khổ Loạn lạc bắt đầu từ thế kỉ XVI kéo dài qua thế kỷ XVII, XVIII đã khiến thiết chế phong kiến lấy Nho giáo làm nền tảng bị lay chuyển. Các vua nhà Lê mất vai trò “minh quân”, sự lấn lướt quyền lực và tiếm vị của nhà Mạc, nhà Trịnh… đã khiến nhiều kẻ sĩ và các nhân vật tài năng phân hoá trong lựa chọn xuất - xử, thay vì một kiểu tích cực nhập thế ở thời kì thịnh trị. 1.2.1.1. Cái tôi cá thể ở các tác giả nhà nho ẩn dật, tài tử Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu khi nghiên cứu về vấn đề xuất - xử của các nhà Nho thời trung đại đã chỉ rõ: “Nho giáo vốn là học phái chủ trương con người sống có trách nhiệm với đời, nhập thế cứu thế, thế nhưng … xuất hay xử thì phải có điều kiện… Nếu nước trị, vua biết đến, nếu được tin dùng thì xuất, nếu ngược lại thì xử” [25, tr.81]. Như vậy, ẩn dật chính là mặt thứ hai của nhà nho hành đạo. Trong thời đại loạn lạc của thế kỉ XVIII, nhiều nhà nho đã lựa chọn con đường ẩn dật, lánh đời. Đó là những con người chán ghét chốn quan trường nhiều thị phi nên tìm về nơi thôn dã hoặc vùng núi non, sống cùng thiên nhiên, di dưỡng tinh thần. Ở thế kỉ XVI, Nguyễn Dữ chính là hình mẫu tiêu biểu cho loại hình nhà nho ẩn dật. Sau khi đậu Hương tiến (tức Cử nhân), ông làm 16
  19. quan với nhà Mạc, rồi về với nhà Lê làm Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phú); nhưng mới được một năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, xin về ở núi rừng Thanh Hóa. Từ đó trải mấy năm dư, chân không bước đến thị thành rồi mất tại Thanh Hóa. Sang thế kỉ XVIII, có các tác giả: Nguyễn Huy Vinh (1770-1818), Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720- 1791); La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (1723-1804)… Khác với các nhà nho hành đạo, các nhà nho ẩn dật không đề cao khát vọng lập công danh. Với họ tránh xa chốn quan trường, coi thường danh lợi là một cách thể hiện thái độ với thời thế. Nguyễn Huy Vinh sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học, văn học, đỗ đạt kể cả bên nội lẫn bên ngoại (cha ông là chí sĩ Nguyễn Huy Tự). Ông thừa hưởng được những tố chất văn chương của hai dòng họ nổi tiếng, nhưng hoàn cảnh lịch sử không tạo điều kiện cho ông tiến thân trên con đường khoa bảng. Nguyễn Huy Vinh chưa một lần tham gia chốn quan trường. Năm Kỷ Tỵ (1809) ông chuyển lên vùng núi Chung Sơn (Nam Đàn, Nghệ An) để dựng nhà dạy học, sống cuộc đời thanh cao của một nhà giáo mẫu mực, nhiệt thành. Nguyễn Thiếp dù có tài năng văn chương và quân sự hơn người, được vua Quang Trung nhiều lần cho mời ra làm quan nhưng ông đều từ chối. Đến năm 1971, nhà vua lập điện Sùng Chính, mời ông ra làm viện trưởng, ông mới nhận lời. Lê Hữu Trác thì tự nhận mình là Hải Thượng Lãn Ông (Ông già lười trên bến Thượng Hồng) với ngụ ý coi thường danh lợi, suốt đời chuyên tâm với nghề y, bốc thuốc, chữa bệnh cho dân. Bên cạnh các nhà nho ẩn dật, thời kì này cũng xuất hiện nhiều nhà nho tài tử. Nhà nho tài tử vẫn là nhà nho kể từ nguồn gốc xuất thân, học vấn và nhân sinh quan, thế giới quan. Tuy nhiên họ là những người luôn có ý thức về tài năng cá nhân và không chịu ép mình trong khuôn khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến. Chính điều kiện kinh tế, lịch sử của xã hội Việt Nam giai đoạn này đã là tiền để loại hình nhà nho tài tử xuất hiện và phát triển mạnh mẽ. “Tư tưởng thị dân đòi hưởng lạc, đòi hỏi hạnh phúc, chống lại thói an bần lạc đạo xuất hiện, và trở thành xu thế chính. Các tài tử ra đời để thay thế các quân tử, các trượng phu, là những người độc chiếm văn đàn trước đây” [41, tr.45]. Sau khi bàn sâu 17
  20. về kiểu nhà nho này, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đúc kết: “Nhà nho tài tử khác với nhà nho chính thống là người cẩn trọng tu thân, giữ lễ, an bần lạc đạo… Nhà nho tài tử đề cao tài và tình - chứ không phải đức và tính - sống thị tài và đa tình, say mê nghệ thuật, cuộc sống phóng khoáng, mong ước lập sự nghiệp hơn đời và cuộc gặp gỡ đẹp đẽ trai tài gái sắc. Họ bắt đầu ý thức về cá nhân, hạnh phúc cá nhân, bất mãn với số mệnh không cưng chiều người tài sắc, không quý trọng tài tình. Nhưng họ cũng không chống thể chế chuyên chế về mặt chính trị và Nho giáo về mặt ý thức hệ” [26, tr.175]. Từ nhận định trên đây, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương trong công trình Loại hình học tác gia văn học: Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam đã có một thống kê cụ thể về kiểu nhà nho này trong văn chương, bao gồm: Nguyễn Hữu Chỉnh (1741–1787), Đặng Trần Thường (1759–1816), Nguyễn Du (1765–1820), Phạm Quý Thích (1760–1825), Phạm Thái (1777–1813)… Trần Ngọc Vương cũng cho rằng đặc điểm chung của các nhà nho tài tử này là: thị tài (đề cao tài năng của mình), liên tài (biết đến và cảm thông với tài năng của người khác), đa tình (đề cao chuyện tình cảm, đặc biệt là tình yêu nam nữ, những tình cảm yêu đương ngoài khuôn khổ lễ giáo và cảm thông với nỗi khổ về thể xác và tinh thần của người khác). Trong đó, gương mặt tiêu biểu nhất chính là Phạm Thái. 1.2.1.2. Các nhân vật nổi loạn, ngoài vòng cương tỏa Nho giáo chủ trương khuyến khích con người nhập thế, cống hiến tài năng cho xã tắc nên hình tượng nhân vật thường thấy trong các sáng tác của các nhà nho là những con người có chí lớn, có khát vọng công danh. Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Cảm hoài của Đặng Dung, các sáng tác của Nguyễn Trãi… là những tác phẩm rất tiêu biểu cho đặc điểm này. Tuy nhiên, từ thế kỷ XVIII trở đi, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân không ngừng nổ ra khắp nơi trong nước, lôi cuốn hàng vạn người. Hình ảnh về những người anh hùng nông dân và những cao trào ấy đã được ghi nhận trong nhiều sáng tác dân gian hoặc khuyết danh. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân rất nổi tiếng như Quận He, Hoàng Công Chất... có thể ước đoán đã từng là đề tài của nhiều bài vè, truyền thuyết, truyện cổ tích... 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2