intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Thơ tình Lò Ngân Sủn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

22
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của luận văn là chỉ ra những nét đặc sắc, hấp dẫn đậm mầu sắc dân tộc và miền núi, những giá trị và ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn ở cả trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Thơ tình Lò Ngân Sủn

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ HOÀNG GIANG THƠ TÌNH LÒ NGÂN SỦN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Thái Nguyên – 2019 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ HOÀNG GIANG THƠ TÌNH LÒ NGÂN SỦN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung Thái Nguyên – 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 11 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hoàng Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  4. ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn PGS.TS.Trần Thị Việt Trung đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 11 năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hoàng Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  5. iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT - Dân tộc thiểu số : DTTS - Văn học nghệ thuật : VHNT Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  6. iv MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................... iii MỤC LỤC ........................................................................................................... iv MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .................................................................... 6 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 7 5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 8 6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................ 8 7. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 9 NỘI DUNG ......................................................................................................... 10 Chương 1: VÀI NÉT VỀ THƠ TÌNH YÊU DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ TÌNH DÂN TỘC GIÁY – LÒ NGÂN SỦN 10 1.1.Vài nét khái quát về thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ tình yêu dân tộc thiểu số nói riêng. ................................................................................................ 10 1.1.1.Văn học dân tộc thiểu số thời kì hiện đại ................................................... 10 1.1.2.Thơ ca dân tộc thiểu số nói chung và thơ tình yêu DTTS nói riêng .......... 12 1.2. Nhà thơ tình dân tộc Giáy - Lò Ngân Sủn ................................................... 15 1.2.1.Những nét đặc sắc của văn hóa Giáy ......................................................... 15 1.2.2. Văn học dân gian dân tộc Giáy ................................................................. 19 1.2.3.Cuộc đời, con người và quá trình sáng tác của nhà thơ Lò Ngân Sủn ...... 22 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1...................................................................................... 29 Chương 2: NỒNG ĐỘ VÀ SẮC THÁI TÌNH YÊU TRONG THƠ LÒ NGÂN SỦN ..................................................................................................................... 30 2.1. Một tình yêu mộc mạc, hồn hiên, trong sáng của “Người đàn ông đá núi” ............. 30 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  7. v 2.2. Một tình yêu nóng bỏng, đắm say, cuồng nhiệt ........................................... 36 2.3. Một tình yêu nhuốm màu bản năng nhưng “cường tráng” và lành mạnh, mang giá trị nhân văn sâu sắc. ............................................................................ 46 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...................................................................................... 52 Chương 3: NHỮNG ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT THƠ TÌNH YÊU CỦA LÒ NGÂN SỦN .................................................................................................. 53 3.1. Ngôn ngữ thơ rất giàu hình ảnh và mang tính biểu cảm cao. ...................... 53 3.2. Một thứ thơ tình giàu tính nhạc.................................................................... 69 3.3. “Thực phẩm hóa tình yêu” - một phương thức nghệ thuật đặc sắc trong thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn: ........................................................................... 76 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3...................................................................................... 85 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 90 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với các nhà thơ dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam hiện đại: Nông Quốc Chấn, Mã A Lềnh, Pờ Sảo Mìn, Y Phương… Lò Ngân Sủn là một trong số những cây bút thơ tiêu biểu. Ông được sinh ra và lớn lên tại thôn Bản Vền, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Thiên nhiên núi rừng tươi đẹp hùng vĩ, con người chất phác, thật thà nhưng cũng rất lãng mạn, mạnh mẽ cùng với nguồn cội văn hóa truyền thống dân tộc Giáy phong phú đã hun đúc nên một tâm hồn thơ, một trái tim sôi nổi, nhiệt tình, một con người yêu hết mình, dâng hiến hết mình, cháy hết mình trong tình yêu – đó là nhà thơ dân tộc Giáy Lò Ngân Sủn. Là tác giả của 22 tập thơ, phần lớn là thơ tình yêu – Lò Ngân Sủn xứng đáng là một nhà thơ tình tiêu biểu của thơ ca DTTS Việt Nam hiện đại. Với cuộc đời cầm bút gần 50 năm, nhà thơ Lò Ngân Sủn đã để lại sự nghiệp thơ ca đáng nể: 22 tập thơ (trong đó có nhiều bài thơ đã được phổ nhạc như: “Chiều biên giới” (Phổ nhạc: Trần Trung), “Chiều Lào Cai” (Phổ nhạc: Trương Ngọc Ninh), “Những người con của núi” (Phổ nhạc: Ngọc Quang), “Tình ca lều nương” (Phổ nhạc: Phạm Tịnh), “Phiên chợ Sa Pa” (Phổ nhạc: Hà Té), “Người đẹp” (Phổ nhạc: Ma Quang Hạ))… Thơ Lò Ngân Sủn đậm bản sắc dân tộc và miền núi, nhưng cũng luôn được tác giả đổi mới và sáng tạo trong cách viết, do đó được nhiều người quan tâm, yêu quý, trân trọng. Thơ của ông đặc sắc và giàu tính sáng tạo nên được nhận khá nhiều giải thưởng của Trung ương và địa phương như: Giải A (1993) cho tập thơ Đám cưới; Giải B cho tập thơ Dòng sông mây (1995) của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; Giải B của Hội Văn học Nghệ Thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam trao tặng cho tập thơ Những người con của núi… cùng nhiều giải thưởng khác. Tuy là một nhà thơ sáng tác nhiều và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  9. 2 có thành tựu trong nhiều lĩnh vực như: thơ, tiểu luận, phê bình văn học…, nhưng tác giả Lò Ngân Sủn cũng chưa thực sự được nghiên cứu xứng với những đóng góp của ông. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thấy rằng mới chỉ có một số bài viết, nghiên cứu, giới thiệu về thơ Lò Ngân Sủn của một số nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình về văn học DTTS như: Trần Mạnh Hảo, Vũ Quần Phương, Irasara, Bùi Tuyết Mai, Lê Thiếu Nhơn, Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo... Gần đây có một số luận văn nghiên cứu về thơ Lò Ngân Sủn (cùng với các nhà thơ khác như: Pờ Sảo Mìn, Y Phương…): “Bản sắc dân tộc Giáy và Pa Dí trong thơ Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn” của Nguyễn Phương Ly, “Thơ Lò Ngân Sủn” của Phạm Thị Cẩm Anh. Nhưng những nghiên cứu, bài viết, các luận văn này hoặc là đi nghiên cứu một cách khái quát về thơ Lò Ngân Sủn; hoặc là khái quát chung những nét nổi bật về bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ ông; hoặc là bàn về cái hay cái đẹp ở một số bài thơ tiêu biểu, còn riêng về mảng thơ tình yêu thì chưa có một nghiên cứu nào đi sâu một cách có hệ thống và toàn diện trong toàn bộ thơ ca của ông, chính vì vậy chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Thơ tình yêu Lò Ngân Sủn” để nghiên cứu và tìm hiểu. Từ đó giúp người đọc có cái nhìn rõ nét hơn về nét đặc sắc, riêng biệt cùng những đóng góp đáng ghi nhận ở mảng thơ hay nhất của một nhà thơ đã có nhiều đóng góp cho văn học thiểu số miền núi Việt Nam hiện đại. 2. Lịch sử vấn đề Xét trong toàn bộ sự nghiệp cầm bút của Lò Ngân Sủn thì không phải ngay từ đầu ông đã đến với việc sáng tác thi ca, có thời gian ông từng đứng trên bục giảng với tư cách người đi gieo hạt giống tri thức cho miền núi. Thế nhưng cái duyên với văn chương, cùng sự đam mê, học hỏi một cách nghiêm túc đã dẫn lối ông đến với nàng thơ như một mối lương duyên. Từ bài thơ được cho là đầu tay khi Lò Ngân Sủn bắt đầu đến với thi ca đó là “Hoa má Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  10. 3 po” (1965), cho đến khi “trở về với núi”, ông đã say mê sáng tạo và sống hết mình với thơ ca - giống như con ong cần mẫn,ông đã dâng hiến bao mật ngọt cho đời và đã trở thành nhà thơ DTTS tiêu biểu, xuất sắc với bao tập thơ tình làm lay động lòng người. Điều đáng trân trọng ở ông là sự nghiêm túc trong nghề cầm bút, ông luôn trăn trở với việc “thơ hay và thơ không hay”, ông từng viết: “Thơ hay là thơ thuộc về chân lý, lẽ phải, thuộc về trái tim nhân loại, và sẽ tồn tại mãi mãi cùng với thời gian, cùng với sự sống của con người” [32, tr.11]. Đúng vậy, nếu thơ chỉ thiên về cảm xúc chủ quan của người làm thơ mà không đi từ chân lí, lẽ phải, không thuộc về trái tim nhân loại thì sẽ không có đất cho thơ, nhà thơ cũng không có chỗ đứng trong lòng bạn đọc. Chính từ tâm niệm đó mà nhà thơ Lò Ngân Sủn đã cho ra đời những tập thơ đặc sắc, mang dấu ấn riêng, đặc biệt là mảng thơ tình yêu của ông. Chính vì vậy, thơ của ông nói chung, thơ tình yêu của ông nói riêng đã thu hút được khá nhiều người yêu thích, say mê, tìm đọc, và đã giới thiệu phê bình cho nhiều người cùng biết, thưởng thức. Thơ Lò Ngân Sủn hướng đến nhiều đề tài, và ông đã dành nhiều cảm xúc viết về mảnh đất và con người miền núi. Thơ ông thể hiện một cách mộc mạc, chân thành, rất đỗi hồn nhiên, tự nhiên về cuộc sống, về thiên nhiên, về những nét phong tục tập quán mang bản sắc của các tộc người miền núi. Đánh giá chung về thơ Lò Ngân Sủn trong bài viết “Thơ với tuổi thơ”, nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: “Thơ Lò Ngân Sủn trước sau luôn giữ được bản sắc của thơ miền núi, trong cả nội dung đến hình thức biểu hiện. Cảnh, tình, nguyện vọng, cách bình giá cuộc đời…đều là việc thời sự của đồng bào các dân tộc trên vùng cao phía bắc đất nước” [26, tr.435]. Trong bài viết “Khi kẽ tay người nở hoa”, nhà thơ, nhà phê bình Trần Mạnh Hảo cũng có bình giá xác đáng về bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ Lò Ngân Sủn: “Ông còn là nhà thơ của thiên nhiên, của núi đồi, của tiếng kèn pí lè dân tộc Dáy, của những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  11. 4 cuộc vui bất tận quanh chảo thắng cố, phiên chợ người H.Mông với xòe ô và bát rượu ngô say khướt…” [26, tr.419]. Nhà thơ Lò Ngân Sủn sử dụng vốn hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc một cách rất hiệu quả, và chính những nét đẹp về văn hóa dân tộc đã làm nên giọng điệu, phong cách riêng trong thơ ông. Lê Thiếu Nhơn đã dành cho nhà thơ nhận xét chí lí: “Tài thơ Lò Ngân Sủn được chưng cất từ hồn vía Tây Bắc, khiến tôi ngờ rằng có nhiều câu thơ ông viết về cái nôi văn hóa của mình có thể trở thành đặc sản. Đã có không ít nhà thơ đã đến Mèo Vạc, Hà Giang và viết về phiên chợ Khâu Vai, nhưng khó ai so được với Lò Ngân Sủn sự ví von “như cái chảo thắng cố, nóng lên bao mối tình dang dở” [26, tr 459]. Vượt ra khỏi phạm vi ảnh hưởng của vùng văn hóa dân tộc mình (dân tộc Giáy), Lò Ngân Sủn còn có những cảm nhận những nét đẹp đặc trưng về văn hóa của các dân tộc anh em, vì thế “cái tình” của ông không bị đóng khung vào các giá trị hạn hẹp của cái nôi văn hóa làng, bản, quê hương mình. Ông đem cái “tình” của mình đến với mọi người, với muôn nơi, đến muôn đời. Họa sĩ Đỗ Đức viết: “Cái tình không bờ bến của Lò Ngân Sủn dẫn dắt thơ anh đến mọi nẻo đường. Cái tình nhuốm màu hoang dã kết hợp với lối viết chắt lọc như ca dao, tục ngữ, rất nặng về tiết tấu như nhịp của móng ngựa gõ trên đường mòn để cho thơ anh chỉ thuận để đọc mà khó để ngâm; tạo ra chất thơ hiện đại, giản dị, trong sáng mà rất dân tộc” [26, tr.445]. “Cái tình không bờ bến” ấy đã làm nên “lều thơ tình” đặc sắc mang dấu ấn riêng của Lò Ngân Sủn. Thơ tình yêu của ông tự nhiên, chân thật, sôi nổi, mãnh liệt, hấp dẫn người đọc bởi lối tư duy rất đỗi hồn nhiên và mang đậm tính bản năng của người miền núi. TS.Lê Thị Bích Hồng trong bài viết “Bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ Lò Ngân Sủn” nhận xét: “Thơ tình yêu của ông thường có cái hoang sơ, trụi trần giữa thiên nhiên phóng khoáng, có sự thành thật đắm say đến tận cùng và có lời tự bạch chân thành”. Tình yêu trong thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  12. 5 Lò Ngân Sủn còn mang đậm sắc thái dân tộc vùng cao, giàu yếu tố phồn thực, tác giả Mai Liễu nhận định: “Thơ Lò Ngân Sủn cũng chứa đựng những yếu tố phồn thực, nhất là những bài thơ nói về tình yêu nam nữ. Đó là một thái độ vui sống chân thành, si mê, hồn nhiên, táo bạo, bất ngờ, hoang dã và đầy ám ảnh” [26, tr.484]. Trong cuốn “Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam đời và văn” (Tập I – Nxb Văn hóa dân tộc – 2003) của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam có giới thiệu những nét khái quát về nhà thơ Lò Ngân Sủn, về quá trình công tác và hoạt động văn học nghệ thuật của ông, trong đó có bài viết “Khi kẽ tay người nở hoa” cuả Trần Mạnh Hảo, tác giả bài viết đã phân tích, bình giá rất sâu sắc về bài thơ “Người đẹp”, “Nàng” cả về nội dung và cấu tứ: “Có lẽ, trong thi ca, sở trường của Lò Ngân Sủn là thơ tình, thường là những bài thơ ngắn có tứ lại khá hiện đại trong lối viết không câu nệ vào vần vèo, bằng trắc” [26,tr.418]; PGS.TS Trần Thị Việt Trung trong cuốn “Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số” đã có một bài viết rất sâu sắc về thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn và đưa ra những nhận định rất tinh tế, chính xác về cái đặc sắc trong “Bữa tiệc tình yêu” của ông: “Là tác giả của 22 tập thơ, trong đó phần lớn là thơ tình yêu, một thứ tình yêu cuồng nhiệt, say đắm, cháy bỏng, đầy bản năng của một người đàn ông miền núi đích thực – thơ tình Lò Ngân Sủn đã khiến cho người đọc phải ngạc nhiên, thích thú và dần bị chinh phục, bị cuốn theo dòng cảm xúc mãnh liệt như thác lũ của nhà thơ DTTS tài hoa, lãng mạn và cháy hết mình trong tình yêu” [47, tr.288]. Ở trong cuốn “Tuyển tập thơ Lò Ngân Sủn” (Nxb Văn học), họa sĩ Đỗ Đức viết bài “Thơ tình của Lò Ngân Sủn”; nhà thơ, nhà báo Lê Thiếu Nhơn viết “Lò Ngân Sủn chắt chiu những bữa tình yêu” đều chỉ ra cái đẹp, cái hay trong thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn... Bên cạnh đó, cũng đã có một số luận văn tốt nghiệp đại học và sau đại học nghiên cứu về thơ Lò Ngân Sủn (ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  13. 6 các góc độ khác nhau và nghiên cứu tổng quát về Bản sắc dân tộc trong thơ Lò Ngân Sủn). Ví dụ như: “Bản sắc dân tộc Giáy và Pa Dí trong thơ Lò Ngân Sủn và Pờ Sảo Mìn” của Nguyễn Phương Ly, tác giả chủ yếu đi vào nghiên cứu ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình trong thơ Lò Ngân Sủn và của Pờ Sảo Mìn, và cũng đã khai thác vẻ đẹp của ngôn ngữ tạo hình thông qua việc khắc họa hình ảnh con người miền núi, đặc biệt là người phụ nữ - đối tượng yêu trong thơ tình lò Ngân Sủn; “Thơ Lò Ngân Sủn” của Phạm Thị Cẩm Anh tác giả đã đi vào nghiên cứu cảm hứng chủ đạo, biểu tượng, ngôn ngữ và thể thơ trong thơ Lò Ngân Sủn, trong đó có nói đến cảm hứng nồng nàn, say đắm đầy chất phồn thực trong tình yêu đôi lứa và ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi trong thơ tình yêu của ông. Nhưng nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết về thơ Lò Ngân Sủn mặc dù là những phát hiện rất chính xác, thú vị, tuy nhiên cho đến nay,vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng quát và toàn diện về thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn – mảng thơ đặc sắc và thành công nhất của ông. Chính vì vậy chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài này để nghiên cứu cụ thể hơn, sâu sắc và hệ thống hơn về mảng thơ hay nhất của nhà thơ dân tộc Giáy này, hy vọng luận văn sẽ đóng góp thêm tiếng nói về thơ tình – thơ đặc sản trong thơ ông, khẳng định những nét đặc sắc, những sáng tạo riêng trong thơ của ông, đồng thời cũng là nét đặc sắc của thơ ca DTTS hiện đại nói chung. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Toàn bộ các tập thơ của Lò Ngân Sủn, đặc biệt là đi vào nghiên cứu sâu, kĩ về thơ tình yêu của ông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  14. 7 3.2. Mục tiêu nghiên cứu - Chỉ ra những nét đặc sắc, hấp dẫn đậm mầu sắc dân tộc và miền núi, những giá trị và ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong thơ tình yêu cùa Lò Ngân Sủn ở cả trên hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu khái quát về thơ tình yêu DTTS Việt Nam hiện đại và nhà thơ tình dân tộc Giáy – Lò Ngân Sủn - Nghiên cứu, làm rõ một số đặc điểm nổi bật, những nét đặc sắc, riêng biệt trong thơ tình của Lò Ngân Sủn ở cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật - Khẳng định những nét riêng, những sáng tạo độc đáo, đậm bản sắc văn hóa tộc người (Giáy) trong thơ tình yêu Lò Ngân Sủn. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại thơ trữ tình (phân tích các tác phẩm thơ, phân tích hình tượng thơ…) - Phương pháp hệ thống, thống kê, phân loại. - Phương pháp so sánh, đối chiếu (so sánh với thơ tình yêu của các nhà thơ DTTS khác…). - Phương pháp nghiên cứu liên nghành (văn học với văn hóa học, dân tộc học, nhân học…). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  15. 8 - Vận dụng một số thao tác của phương pháp nghiên cứu Thi pháp học (Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ, giọng điệu…trong thơ trữ tình Lò Ngân Sủn). 5. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn, chủ yếu qua các tập thơ tình tiêu biểu của ông: - Tập thơ Chợ tình – Nxb văn hóa dân tộc (1995) - Tập thơ Lều Nương – Nxb Văn hóa dân tộc (1996) - Tập thơ Người đẹp – Nxb Văn hóa dân tộc (1999) - Tập thơ Bữa tình yêu – Nxb Hội nhà văn (2004) - Tập Tuyển tập thơ Lò Ngân Sủn – Nxb Văn học (2012) Ngoài ra chúng tôi còn đọc và tìm hiểu một số sáng tác của các nhà thơ DTTS khác (để so sánh, đối chiếu, tìm ra nét riêng biệt trong thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn); đọc tham khảo các bài viết, công trình nghiên cứu về thơ của Lò Ngân Sủn; đọc tham khảo những cuốn sách về lý thuyết lí luận để làm cơ sở lí luận và thực tiễn cho công trình nghiên cứu của mình. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Phụ lục, Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Vài nét về thơ tình yêu dân tộc thiểu số và nhà thơ tình dân tộc Giáy – Lò Ngân Sủn. Chương 2: Nồng độ và sắc thái tình yêu trong thơ Lò Ngân Sủn Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật thơ tình yêu Lò Ngân Sủn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  16. 9 7. Đóng góp của luận văn Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về đặc điểm Thơ tình yêu của Lò Ngân Sủn, góp phần để khẳng định những nét đặc sắc ở mảng thơ tình của nhà thơ dân tộc Giáy – trong mảng thơ tình yêu DTTS nói riêng, ở thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  17. 10 NỘI DUNG Chương 1 VÀI NÉT VỀ THƠ TÌNH YÊU DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ THƠ TÌNH DÂN TỘC GIÁY – LÒ NGÂN SỦN 1.1. Vài nét khái quát về thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ tình yêu dân tộc thiểu số nói riêng. 1.1.1. Văn học dân tộc thiểu số thời kì hiện đại Có thể nói nếu văn học Việt Nam hiện đại nói chung được hình thành từ đầu thế kỉ XX thì bộ phận văn học DTTS Việt Nam thời kì hiện đại chủ yếu hình thành và phát triển từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tuy ra đời sau nhưng văn học DTTS Việt Nam hiện đại đã có bước phát triển khá nhanh chóng và đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận. Trước đó trong đời sống văn học nước ta đã có một bộ phận văn học các DTTS Việt Nam rất phong phú và đặc sắc như các tác phẩm văn học dân gian: “Xong chụ xon xao” của dân tộc Thái, “Ẩm Ệt Luông” của dân tộc Mường, “Trường ca Đăm Săn”, “Xinh Nhã” của dân tộc Ê đê… đến “Khảm hải” của dân tộc Tày… Văn học DTTS Việt Nam nói chung, văn học DTTS hiện đại nói riêng đã một mặt kế thừa những tinh hoa của văn học dân gian, mặt khác đã có những đổi mới, phát triển, hiện đại hóa với một đội ngũ sáng tác văn học đông đảo đến từ nhiều dân tộc khác nhau như: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Cầm Biêu, Nông Viết Toại, Triều Ân, Vi Hồng, Mã Thế Vinh, Hà Thị Cẩm Anh, Mã A Lềnh, Inrasara, Y Phương, Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn, Cao Duy Sơn, Mai Liễu,Bùi Thị Tuyết Mai, Linh Nga Nieekdam, Niê Thanh Mai, Dương Khâu Luông, Đồng Ngọc Minh, Bùi Thị Như Lan... Cùng với lực lượng sáng tác văn học ngày càng hùng hậu thì số lượng và chất lượng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  18. 11 của các tác phẩm văn học DTTS Việt Nam hiện đại cũng ngày nhiều hơn và càng được nâng cao hơn. Đã có nhiều tác phẩm thơ ca DTTS đạt được Giải thưởng cao trong đời sống văn học Việt Nam nói chung, trong văn học các DTTS Việt Nam nói riêng, ví dụ như: “Ánh hồng Điện Biên” (1984) của Cầm Biêu đạt Giải A Hội VHNT Việt Nam năm 1984; tập thơ “Tiếng hát tháng giêng” của Y Phương được trao Giải hay nhất trong năm1987; 2 tập thơ “Những người con của núi” (1990) và “Tôi là ngọn gió” (1998) của nhà thơ Lò Ngân Sủn đạt Giải B Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1990, 1998); tập thơ “Giấc mơ của núi” của Mai Liễu đạt Giải B Hội VHNT các DTTS Việt Nam (năm 2001); “Tháp nắng” - Thơ và trường ca (1996) của Inrasara đạt Giải B Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1997), “Lễ tẩy trần tháng Tư” (2002) – Thơ và trường ca đạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (năm 2003) và Giải thưởng văn học Asean (năm 2005) và gần đây nhất là tác phẩm “Vũ Khúc Tày – Tủng Tày (2015) của tác giả Y Phương được nhận Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (2015)… Sự vận động, thay da đổi thịt của cuộc sống con người và thiên nhiên miền núi qua các giai đoạn lịch sử của đất nước là nội dung phản ánh chủ yếu của các tác phẩm văn học DTTS Việt Nam hiện đại. Từ khí thế hào hùng của Cách mạng, ca ngợi cuộc sống mới đầy phấn chấn, tự hào, đến phẩm chất tốt đẹp của con người miền núi, tình yêu tự do tràn đầy năng lượng, và cả việc phê phán những thói hư, tật xấu, sự tha hóa biến chất của một bộ phận con người trong cuộc sống hiện đại…đều được các tác giả văn học DTTS phản ánh một cách rất chân thực và sinh động. Hòa cùng vào dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại nói chung, văn học DTTS Việt Nam hiện đại cũng phát huy được vai trò, nhiệm vụ lịch sử của mình, đó là hướng vào “một nền văn học phong phú, đa dạng, đặc sắc và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”. Nền văn học phong phú, đa dạng, đăc sắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  19. 12 ấy đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho đội ngũ các nhà văn DTTS trên tất cả các thể loại: thơ, văn xuôi, kịch, lí luận phê bình…,trong đó thể loại thơ ca đã có những đóng góp không nhỏ vào quá trình vận động và phát triển của văn học DTTS Việt Nam thời kì hiện đại. 1.1.2. Thơ ca dân tộc thiểu số nói chung và thơ tình yêu DTTS nói riêng Trong các thể loại (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, lí luận phê bình, kịch bản sân khấu…) của văn học các DTTS Việt Nam thì thể loại thơ được đánh giá là phát triển mạnh mẽ nhất và cũng là thể loại mang lại nhiều thành công nhất. Với một đội ngũ đông đảo các nhà thơ gồm nhiều thế hệ liên tục phát triển, thơ ca DTTS hiện đại đã có nhiều thành tựu đáng khẳng định. Thơ ca DTTS giai đoạn từ 1945 đến 1975 có thể nói đã có bước phát triển khá phong phú và đa dạng. Đây là giai đoạn đất nước bước vào chặng đường đấu tranh đầy gian khổ và ác liệt trước những thế lực xâm lược bạo tàn, đó là thực dân Pháp và đế quốc Mĩ; đồng thời đây cũng là giai đoạn nước ta tiến hành công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Thơ ca DTTS giai đoạn này cũng đã phản ánh kịp thời những chuyển biến mới của lịch sử dân tộc, ca ngợi lòng yêu nước, yêu quê hương, lòng tự hào, tự tôn dân tộc của người dân miền núi; phản ánh hiện thực cuộc sống khổ cực của đồng bào miền núi dưới sự áp bức bóc lột của giặc Pháp và bè lũ tay sai; thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc và tinh thần đấu tranh dũng cảm, một lòng theo Đảng, theo Bác, kháng chiến trường kì…Giai đoạn này xuất hiện một số gương mặt tác giả với các sáng tác tiêu biểu như: Cầm Biêu với các bài thơ, tập thơ: “Vợ lính ngụy mong chồng” (1949), “Gái thời giặc” (1950), “Mường muổi yên vui” (1954); Nông Quốc Chấn với “Việt Bắc đánh giặc” (1948) , “Khâu áo” (1948), “Dọn về làng” (1950), “Người núi hoa” (1958), “Tiếng ca Việt Bắc” (1959); Triều Ân với “Tung còn và suối đàn” (1963), “Tiếng hát rừng xa” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
  20. 13 (1974), “Nắng ngàn” (1974); Bàn Tài Đoàn có “Xuân về trên núi” (1963), “Một giác mơ” (1964), “Trùm xấy cấu - Kể chuyện đời” (1968); Nông Viết Toại với “Kin Ngay phuối khát” (1962), “Đét chang nâu” (Nắng ban trưa); Vương Anh có “Sao chóp núi” (1968), “Trăng mắc võng” (1973)… Sau đại thắng mùa xuân 1975, non sông đã liền một dải, Bắc Nam xum họp một nhà, niềm vui thắng lợi, không khí tươi vui phấn khởi tràn ngập muôn nơi, đất nước sang trang sử mới , khép lại thời kì “khổ nhục mà vĩ đại”, mở ra thời kì mới – thời kì độc lập dân tộc thống nhất nước nhà, xây dựng cuộc sống mới. Cùng với sự chuyển mình của văn học dân tộc trong giai đoạn mới, thơ ca DTTS cũng có những thành tựu vượt bậc, cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh lớp nhà thơ đi trước vẫn bền bỉ sức sáng tạo như: Nông Quốc Chấn với “Dòng thác” (1977), “Bài thơ Pác Bó” (1982); Bàn Tài Đoàn với “Trên núi vẫn là nơi ta ở” (1979), “Bước đường tôi đi” (1985), “Ba con đường” (1995), “Bó đuốc sáng” (2002); Vương Anh với “Đến hẹn” (1983), “Hoa Li-pa yêu” (1989), “Rượu mặn” (1993), “Lá đắng” (1993); Vương Trung với “Sóng Nậm Rốn” (trường ca – 1998); Triều Ân với “Chốn xa xăm” (1990)…là đông đảo lớp nhà thơ trẻ với lòng nhiệt huyết sôi trào,tình yêu cuộc sống thiết tha, đem đến muôn điệu và âm hưởng đa dạng, phong phú cho cây đàn thơ ca DTTS, khiến cho thơ ca dân tộc thiểu số thời kì này có một đời sống sôi động và phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, với sự xuất hiện của các gương mặt nhà thơ tiêu biểu như: Y Phương với “Tiếng hát tháng giêng” (1986), “Lửa hồng một góc” (1987), “Đàn then” (1996); Pờ Sảo Mìn với “Cây hai nghìn lá” (1992), “Mắt lửa” (1998), “Con trai người Pa Dí” (2001); Lò Ngân Sủn với “Chiều biên giới” (1989), “Những người con của núi” (1990), “Dòng sông mây” (1995), “Người đẹp” (1999); Dương Thuấn với “Cưỡi ngựa đi săn” (1991), “Đi tìm bóng núi” (1993), “Đi ngược mặt trời” (1995); Lò Cao Nhum với “Giọt sao trở về” (1995), “Rượu núi” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2