Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay
lượt xem 23
download
Luận văn trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận chung về tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên và đánh giá thực trạng công tác tổ chức giáo dục đạo đức của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác tổ chức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thanh niên là lực lượng đông đảo, chiếm trên 1/3 dân số và trên 1/2 lực lượng lao động xã hội, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đánh giá về vai trò của thanh niên, đã nhấn mạnh: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” [55, tr.185]. Chính vì lý do đó, việc bồi dưỡng, chăm lo giáo dục cho tầng lớp này có tầm quan trọng đặc biệt. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Đảng phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng họ thành những người kế tục sự nghiệp cách mạng vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết” [57, tr.510]. Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VII, khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta khẳng định: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội" [15, tr.7]. Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta cùng với các tổ chức chính trị xã hội khác đã luôn chú trọng đến công tác thanh niên, quan tâm, bồi dưỡng giáo dục thanh niên về đạo đức, lối sống, bản lĩnh chính trị, hướng tới xây dựng lớp người kế tục mục tiêu, lý tưởng của Đảng “Xây dựng nước Việt Nam độc lập dân tộc gắn liền 1
- với Chủ nghĩa xã hội”. Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng và vai trò, trách nhiệm của tổ chức đối với công tác giáo dục cho thanh niên, trong thời gian qua, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh đã phát huy vai trò, tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện cho thanh niên. Trong đó, công tác giáo dục đạo đức là một trong những nội dung trọng tâm được thực hiện. Tuy nhiên, công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh còn có những hạn chế nhất định. Thực trạng này đòi hỏi tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh cần đặc biệt chú trọng việc giáo dục đạo đức cho thanh niên; qua đó, phát huy vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay. Chính vì lý do đó, tôi lựa chọn chủ đề Giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay làm đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý công của mình 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho thanh niên nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng ở nước ta là một yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng đặt ra thường xuyên, liên tục đối với tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Do đó, vấn đề này thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học với nhiều công trình được công bố với những mức độ, cách tiếp cận khác nhau. Thứ nhất, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức: Công trình “Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới, chủ trương, thực hiện, đánh giá” (Ban Khoa giáo Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002) bao gồm các văn kiện của Đảng, một số bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tập trung đánh giá những thành tựu cũng như những hạn chế của ngành giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng; đồng thời, công trình chỉ ra phương hướng và nhiệm vụ 2
- trong thời gian tới giúp chúng ta nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Trong bài viết “Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường” (Trong cuốn: Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay , Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003), tác giả Nguyễn Văn Phúc cho rằng, nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, còn có những ảnh hưởng, tác động tiêu cực tới nhân cách mỗi người. Đó là sự vị kỷ, chỉ biết tới lợi ích cá nhân mà bỏ qua lợi ích cộng đồng, xã hội; là sự vô cảm, thờ ơ trong mối quan hệ giữa người với người; là sự “lệch chuẩn”… Vì vậy, theo tác giả, giáo dục đạo đức góp phần không nhỏ vào việc đánh thức lương tâm, đề kháng được các chuẩn mực đạo đức xa lạ không phù hợp với dân tộc, hình thành và củng cố trong con một niềm tin sâu sắc vào những giá trị đích thực và lâu bền của con người…[8, tr.215 222]. Bên cạnh những công trình trên, những công trình đi sâu phân tích về đạo đức truyền thống Việt Nam cũng có ý nghĩa quan trọng tạo ra một cái nhìn toàn diện và sâu sắc trong quá trình giáo dục đạo đức ở Việt Nam hiện nay, trong đó phải kể đến công trình Luận án “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay” của tác giả Ngô Thị Thu Ngà năm 2011 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay dưới góc độ truyền thống” của tác giả Cao Thu Hằng (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016)… Thứ hai, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên: Công trình “Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong 3
- quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế” do Phạm Hồng Tung chủ biên tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về thanh niên và lối sống của thanh niên; khảo sát và phân tích tình hình thanh niên Việt Nam và lối sống của thanh niên trong hơn hai thập kỷ đổi mới đất nước, thông qua đó chỉ ra những đặc trưng cơ bản của thanh niên và đặc trưng lối sống của thanh niên; xu hướng biến đổi của thanh niên trong hội nhập quốc tế, chỉ ra những yếu tố tác động cơ bản và đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng lối sống của thanh niên Việt Nam phù hợp với tiến trình đổi mới của đất nước. Công trình“Giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Lương Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013. Cuốn sách phân tích tầm quan trọng và nội dung giáo dục đạo đức mới cho sinh viên; khái quát thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc giáo dục đạo đức mới cho sinh viên; từ đó, đề xuất một số phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài các cuốn sách, các luận án, luận văn trên, liên quan đến chủ đề này cũng có có thể kể đến một số bài viết, như “Giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Lại Quốc Khánh, Phan Duy An, Tạp chí Tuyên giáo, số 9 (2013). Trong bài viết này, theo các tác giả, để nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng cho thanh niên cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản và các giải pháp cần phải được thực hiện đồng bộ. Thứ ba, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh: Công trình “Tổng quan tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên giai đoạn 20072012” do tác giả Nguyễn Đắc Vinh làm 4
- chủ biên được xuất bản năm 2012. Cuốn sách tiếp cận các vấn đề liên quan đến thanh niên và đặt nó trong tương quan chung của xã hội, so sánh với các giai đoạn trước để chỉ ra những biến đổi, chiều hướng biến đổi của các vấn đề; những yếu tố tác động đến sự biến đổi đó; tổng kết, xác định những vấn đề nổi bật về tình hình thanh niên trong giai đoạn 5 năm (2007 – 2012); đánh giá hiệu quả công tác, tác động của hoạt động Đoàn đến thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng. Đồng thời, công trình cũng nghiên cứu những cơ sở lý luận, thực tiễn, từ đó đề xuất mục tiêu, phương hướng, giải pháp công tác Đoàn trong nhiệm kỳ tới. Công trình“Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh – Những chặng đường phát triển” do tác giả Vũ Quang Hiển chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2014), đã tổng hợp nhiều bài viết của các tác giả khác nhau với các nội dung: tái hiện những trang sử vàng của các thế hệ thanh niên Việt Nam, khẳng định vai trò của lực lượng thanh niên Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển đất nước hiện nay; nêu ra nhiều quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với thanh niên và công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới; vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong công tác vận động thanh niên giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trong giao lưu văn hóa quốc tế,… Thứ tư, những nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh: Về cơ bản, việc giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bắc Ninh cũng đã được chú ý, quan tâm. Tuy nhiên, sự quan tâm này mới chỉ dừng lại ở mức độ trong các báo cáo hàng năm, thường kỳ. Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bắc Ninh nói chung và công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên trong tỉnh của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nói riêng. Tuy nhiên, các 5
- báo cáo này cũng là tài liệu tham khảo quý để học viên tham khảo trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài. Trong các báo cáo đó, có thể kể đến Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh khóa XIII trình tại Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2017 – 2022 và Báo cáo tổng kết công tác giáo dục của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2012 – 2017. Các báo cáo đã tổng kết, đánh giá thực tiễn 05 năm (2012 – 2017) thực hiện chức năng giáo dục cho đoàn viên, thanh niên Bắc Ninh của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Báo cáo cũng đã tổng kết thực tiễn, đưa ra các số liệu phản ánh thực tế, rút ra những đánh giá khách quan về công tác giáo dục cho thanh niên và những bài học kinh nghiệm sâu sắc cho nhiệm kỳ sau. Theo đó, công tác giáo dục cho đoàn viên, thanh niên Bắc Ninh do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh thực hiện đã đạt những kết quả rất quan trọng, được các cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn xã hội đánh giá cao, đồng tình, ủng hộ. Tuy nhiên, với phạm vi của các báo cáo nên chưa đưa ra các nhóm giải pháp bài bản góp phần nâng cao công tác giáo dục đạo đức cho đoàn viên, thanh niên Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay. Thứ năm, Những nghiên cứu về giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, sinh viên về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đã có nhiều công trình khoa học có giá trị được công bố như: Phạm Ngọc Anh – Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh – văn hóa và phát triển, Nxb Chính trị hành chính, Hà Nội. Phạm Ngọc Anh (2012), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh – Gía trị lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Chí Bảo (2009), Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội… Trong các cuốn sách, các bài viết trên, các tác giả bàn đến nguồn gốc, đặc điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các giá trị chuẩn mực của đạo đức 6
- mới, con đường tu dưỡng đạo đức cách mạng, vai trò của thanh niên trong cách mạng Việt Nam. Thứ sáu, Những nghiên cứu về công tác tô ch ̉ ưc v ́ ề thanh niên một số công trình nghiên cứu và bài viết về công tác thanh niên trong phạm vi cả nước với góc độ vĩ mô của quản lý nhà nước, đưa ra các quan điểm nhìn nhận về vai trò, trách nhiệm của nhà nước đối với thanh niên và vai trò, nghĩa vụ của thanh niên đối với nhà nước và xã hội, cũng như những thời cơ, thách thức của thanh niên trước sự thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế – xã hội và lịch sử như: Đề tài nghiên cứu cấp nhà nước “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách đối với thanh niên” do PTS. Nguyễn Văn Trung làm Chủ nhiệm, năm 1995; Đề tài nghiên cứu cấp bộ “Cơ sở khoa học nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do TS. Vũ Đăng Minh – Vụ trưởng Vụ Công tác thanh niên làm Chủ nhiệm, năm 2012; Đề tài nghiên cứu cấp bộ “Đặc trưng tâm lý tư tưởng của thanh niên dưới tác động của cơ chế thị trường” do Trần Xuân Vinh làm Chủ nhiệm, năm 1992; Đề tài nghiên cứu cấp bộ “Tình hình thanh niên thế kỷ XX – Những sự kiện quan trọng nhất” do ThS. Phạm Bằng làm Chủ nhiệm, năm 1999; Chương trình nghiên cứu cấp bộ “Những vấn đề lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả công tác thanh vận trong tình hình mới” do PGS.TS Nguyễn Đắc Vinh – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn làm Chủ nhiệm, năm 2014; “Quản lý nhà nước về công tác thanh niên” của tác giả Nguyễn Vĩnh Oánh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 1995. Nhìn chung, các cuốn sách, các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều rất phong phú về nội dung và có hàm lượng khoa học cao, đã có đóng góp nhất định trong việc nêu rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về yêu cầu của việc giáo dục đạo đức nói chung, giáo dục đạo đức cho thanh niên ở nước ta hiện nay; đã làm sáng tỏ ở mức độ nhất định tác động của các điều 7
- kiện kinh tế, xã hội, chính trị trong và ngoài nước tới sự biến đổi của đạo đức xã hội, đạo đức thanh niên, đề ra một số phương hướng để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, một mặt, sự tổng quan của các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên phản ánh tầm quan trọng và yêu cầu bức thiết của vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Mặt khác, cũng cho thấy, việc giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bắc Ninh của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hiện nay cũng chưa được tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, bài bản và chuyên sâu. Vì vậy, việc triển khai nghiên cứu đề tài “Giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay” mang tính cấp thiết đối với thanh niên tỉnh Bắc Ninh hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Trên cơ sở làm rõ vân đê ly luân chung vê tô ch ́ ̀ ́ ̣ ̀ ̉ ức giao duc đao đ ́ ̣ ̣ ức cho ́thực trạng công tac tô ch thanh niên va đanh gia ̀ ́ ́ ̉ ưc ́ giáo dục đạo đức của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tac tô ch ́ ̉ ưc ́ giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau: Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận chung về tô ch ̉ ưc ́ giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Hai là, phân tích thực trạng tô ch ̉ ưć giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay Ba là, đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng 8
- ̉ ưc cao tô ch ́ giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu ̉ Đê tai chi đi sâu vao nghiên c ̀ ̀ ̀ ứu vân đê tô ch ́ ̀ ̉ ức giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi vê th ̀ ơi gian: Luân văn nghiên c ̀ ̣ ứu từ năm 2014 đến nay. Phạm vi vê không gian: đia ban tinh Băc Nin ̀ ̣ ̀ ̉ ́ 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng va Nha ̀ ̀ nươc tô ch ́ ̉ ức giao duc ́ ̣ đạo đức cho thanh niên cua Đoan TNCS Hô Chi Minh ̉ ̀ ̀ ́ . 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cung cac ph ̀ ́ ương phap nghiên c ́ ưu khoa hoc cu thê nh ́ ̣ ̣ ̉ ư: Phương phap phân tich, tông h ́ ́ ̉ ợp, so sanh, thông kê. ́ ́ 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận chung về tô ch ̉ ưć giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hiện nay. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn và có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao vai trò tô ch ̉ ưć giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nói chung, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc 9
- Ninh nói riêng trong tình hình hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về tô ch ̉ ưć giáo dục đạo đức ̉ cho thanh niên cua Đoan TNCS Hô Chi Minh ̀ ̀ ́ . Chương 2: Thực trạng tô ch ̉ ưc ́ giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng tô ch ̉ ưć giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh. 10
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÊ TÔ CH ̀ ̉ ƯC ́ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN CUA ĐOAN ̉ ̀ THANH NIÊN CÔNG SAN HÔ CHI MINH ̣ ̉ ̀ ́ 1.1. Môt sô khai niêm c ̣ ́ ́ ̣ ơ ban ̉ 1.1.1. Khái niệm thanh niên Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội ở hiện tại và là chủ thể sáng tạo của tương lai; thanh niên có vị trí quan trọng trong suốt tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của tất cả các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Hiện nay, khái niệm thanh niên được định nghĩa chưa có sự thống nhất, tùy thuộc vào nội dung và góc độ tiếp cận mà người ta đưa ra các khái niệm khác nhau về thanh niên. Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, năm 1999, định nghĩa “Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành” [43, tr.871], khái niệm này nhìn nhận thanh niên dưới hai góc độ là độ tuổi – sinh học, và sự phát triển đến một mức được cho là hoàn chỉnh, đầy đủ về mọi mặt – sự trưởng thành. Từ góc độ sinh học, thanh niên là giai đoạn được xác định khi mà quá trình phát triển của cơ thể con người đã trải qua một khoảng thời gian nhất định, ở giai đoạn này sự phát triển về mặt sinh học như tầm vóc, hệ các cơ quan bên trong và các bộ phận bên ngoài của cơ thể đã dần hoàn thiện về mặt chức năng. Độ tuổi thanh niên được quy định tùy thuộc vào quan điểm và nhận thức của mỗi quốc gia, dao động từ 12 đến 35 tuổi, khái niệm độ tuổi có thể chỉ bao hàm về mặt thời gian và mức độ phát triển sinh học của cơ thể con người hoặc phản ánh vị thế xã hội và hoạt động đặc trưng nhất định của một bộ phận con người trong xã hội; để xác định độ tuổi của một 11
- cá thể thanh niên có thể dựa vào tuổi sinh học, tuổi xương, tuổi răng hoặc tuổi dậy thì,.... Từ góc độ sự trưởng thành, thanh niên được xem là giai đoạn phát triển chuyển tiếp từ thiếu nhi sang giai đoạn hoạt động tương đối độc lập với tư cách là một công dân có trách nhiệm. Theo đó, những cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định về mặt pháp lý tùy theo từng quốc gia, thì được coi là đã đạt tới tuổi trưởng thành về tuổi tác, nhận thức và phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình. Sự trưởng thành này là phép đo của sự trưởng thành về sinh lý, thể chất, cũng như trong suy nghĩ, nhận thức, tích lũy về kinh nghiệm sống và trình độ học vấn qua thời gian; khả năng giao tiếp, thấu hiểu, kết nối và duy trì các mối quan hệ xã hội, bộc lộ năng lực hoạt động trong một môi trường văn hóa, xã hội đặc thù. Mức độ trưởng thành còn thể hiện qua khả năng đóng góp cho nền kinh tế – xã hội từ góc độ kinh tế học, thanh niên được xem là một lực lượng to lớn và nguồn bổ sung quan trọng hàng đầu cho lực lượng lao động trên tất cả các lĩnh vực, quyết định đến sự phát triển có hiệu quả của cả nền kinh tế – xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học Mác – Lênin định nghĩa con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con người vừa là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người, “là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và các yếu tố xã hội” [5, tr. 520]. Theo đó, thanh niên là một giai đoạn phát triển nhất định của cơ thể con người, do đó, nó mang những bản chất đặc trưng của con người, nó là một khái niệm dùng để chỉ một bộ phận người tồn tại ở một độ tuổi nhất định trong một giai đoạn xác định, một không gian nhất định có thể của một dân tộc, một 12
- quốc gia hoặc thậm chí là quy mô của cả xã hội loài người, với những đặc điểm sinh học, tâm lý và sự phát triển nhận thức ở một trình độ nhất định. Tại Việt Nam, Nghị quyết số 25NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Khóa X khẳng định “Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình…”. Để xác định độ tuổi thanh niên Việt Nam, trong quá trình xây dựng Luật Thanh niên, có rất nhiều ý kiến khác nhau của các chuyên gia và các nhà khoa học được đưa ra bàn bạc, thảo luận để đi đến sự thống nhất khi ban hành:“Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi” [26, Điều 1]. Từ các phân tích trên cho thấy, để nhìn nhận và đưa ra khái niệm thanh niên, cần phải đánh giá thanh niên một cách tương đối toàn diện dưới nhiều góc độ khác nhau, từ những đặc điểm sinh học, tâm lý,... cho đến sự phát triển của nhận thức đến một mức độ nhất định; gắn thanh niên với mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội và trên mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Với cách hiểu về thanh niên như vậy, theo tác giả: Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc thù, ở độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi, mang những đặc trưng tâm, sinh lý, sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ; luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình; có mặt trong tất cả các nhóm dân tộc, giai cấp, tầng lớp trong xã hội và trên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội hiện tại và tương lai. 13
- Theo cách quản lý và phân loại đối tượng thanh niên của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thanh niên Việt Nam được chia thành các nhóm sau: thanh niên nông thôn, thanh niên công nhân, thanh niên công chức và viên chức, thanh niên đô thị, thanh niên học sinh và sinh viên, thanh niên trong các lực lượng vũ trang. Các nhóm thanh niên đặc thù bao gồm: thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên có đạo, thanh niên đang học tập, lao động ở nước ngoài. Các nhóm thanh niên yếu thế bao gồm: thanh niên bị nhiễm HIV/AIDS, thanh niên khuyết tật, thanh niên sau cai nghiện và sau cải tạo trở về tái hòa nhập với cộng đồng. 1.1.2. Khai niêm Đoan thanh niên công san Hô Chi Minh ́ ̣ ̀ ̣ ̉ ̀ ́ Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng tổ chức Đoàn. Tại hội nghị Ban Chấp hành lần thứ hai họp từ ngày 20 đến 26/3/1931, Trung ương Đảng đã giành 01 ngày trong thời gian hội nghị để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng về công tác vận động thanh niên của Đảng. Xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt ấy, được sự đồng ý của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (họp từ ngày 22 đến 25/3/1961 tại Hà Nội) đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 là ngày thành lập Đoàn. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Điều lệ Đoàn khẳng định: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trịxã hội của thanh niên Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện” [22, tr.9]. Điều này phản ánh đầy đủ Đoàn là một tổ chức thanh niên Cộng sản mang tính tiên tiến của giai cấp công nhân và tính quần chúng rộng rãi của thanh niên Việt Nam thông qua việc tổ chức các phong trào, 14
- hoạt động có tính chất xã hội, mỗi đoàn viên và cơ sở Đoàn đều được thể hiện tinh thần xung kích cách mạng, thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Đoàn có 3 đặc điểm cơ bản: là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, Nhà nước và các ngành. Đoàn luôn luôn xác định nhiệm vụ của mình là đội quân xung kích cách mạng tích cực tham gia xây dựng Đảng và là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của Bác Hồ; là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, tạo môi trường đưa thanh niên vào các hoạt động giúp học tập rèn luyện và phát triển nhân cách, năng lực của người lao động mới phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay; là người đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tuổi trẻ. Đặc điểm này khẳng định rõ tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức của thanh niên, vì thanh niên. Đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [22, tr.12]. Trong hệ thống này, Đảng là người lãnh đạo, Đoàn là một trong các tổ chức thành viên. Về quan hệ giữa tổ chức Đoàn với Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể và các tổ chức xã hội khác của thanh niên được quy định cụ thể: Đối với Đảng, Đoàn là hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, là đội dự bị tin cậy của Đảng, nguồn cung cấp cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng. Đối với Nhà nước, Đoàn là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành, các đoàn thể và tổ chức xã hội chăm lo giáo dục, đào tạo, tạo mọi điều kiện cho sự phát triển của thanh thiếu nhi. Đối với các tổ chức xã hội của thanh niên và phong trào thanh niên, Đoàn giữ vai trò làm nòng cốt chính trị trong việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam và các thành viên khác của Hội. Đối với Đội TNTP Hồ 15
- Chí Minh, Đoàn giữ vai trò là người phụ trách Đội và có trách nhiệm xây dựng tổ chức Đội, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thiếu nhi, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài chính cho hoạt động của Đội. Được xây dựng, rèn luyện và trưởng thành qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tập hợp đông đảo thanh niên phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ mới, Đoàn tiếp tục phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và bản chất tốt đẹp của mình, xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng trong lao động tập thể; xung kích, sáng tạo làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời đại. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng; tổ chức động viên đoàn viên, thanh niên cả nước đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [22, tr.1011]. 1.1.3. Khai niêm đao đ ́ ̣ ̣ ức Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris, nghĩa là lề thói. Ngoài ra, còn một danh từ nữa cũng hay được sử dụng là ethicos, có gốc từ chữ Hy Lạp cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Theo nghĩa đó, khi nói đến đạo đức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong giao tiếp với nhau hàng ngày. Ở phương Đông, người Trung Quốc cổ đại sớm đưa ra các học thuyết 16
- về đạo và đức của họ. Theo đó, Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm này được vận dụng trong triết học nhằm chỉ con đường của tự nhiên. Sau đó, đạo không chỉ là con đường của tự nhiên, mà còn có nghĩa là đường sống của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính, là biểu hiện của đạo nghĩa, là nguyên tắc của luân lý. Như vậy, đạo đức được hiểu như những nguyên tắc, các quy định, các chuẩn mực xã hội nhằm điều tiết hành vi của con người mà mỗi người sống trong đó cần phải tuân theo. Từ cách tiếp cận mácxít, có thể hiểu: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội [40, tr.8]. Đạo đức còn là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, giữa cá nhân với xã hội. Nó được phát triển, bị ảnh hưởng nhiều bởi các chế độ kinh tế xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển đó, cùng với sự vận động biến đổi của tồn tại xã hội, đạo đức cũng có những biến đổi, như các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã từng nói rằng “Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”[46, tr.135]. Có thể thấy rằng, thứ nhất, với tư cách hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức chịu ảnh hưởng của tồn tại xã hội. Tuy nhiên, ở đây, có thể thấy rằng, quan hệ giữa kinh tế với đạo đức không phải là quan hệ đơn trị, một chiều. Vì vậy, không phải mọi biến đổi nào đó trong cơ sở kinh tế cũng đều nhất thiết và ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi tương ứng 17
- trong đạo đức. Không phải mọi sự phát triển kinh tế nào cũng dẫn đến sự tiến bộ đạo đức. Hơn nữa, đạo đức còn bị ảnh hưởng bởi triết học, chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,… nghĩa là của toàn bộ đời sống tinh thần. Thứ hai, với tư cách là những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội … điều tiết hành vi con người, người nào thực hiện đúng những nguyên tắc, chuẩn mực đó được coi là có đạo đức, được xã hội ủng hộ, biểu dương và ngược lại. 1.1.4. Khai niêm vê giao duc đao đ ́ ̣ ̀ ́ ̣ ̣ ức Có nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục đạo đức, song có thể coi “giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích của chủ thể giáo dục đến đối tượng giáo dục để hình thành trong họ những yếu tố, tình cảm, niềm tin, lý tưởng và tất cả được thể hiện ở những hành vi đạo đức ” [2, tr.45]. Như vậy, giáo dục đạo đức không chỉ làm cho con người nhận thức đúng các chuẩn mực đạo đức, các giá trị đạo đức mà còn thông qua đó để hình thành niềm tin và tình cảm đạo đức. Giáo dục đạo đức là một trong những hoạt động nhằm góp phần chuyển đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân. Đây cũng là quá trình mang những tri thức, kinh nghiệm, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm phát triển ý thức cũng như năng lực đánh giá và thực hiện hành vi đạo đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã hội của cá nhân. Giáo dục đạo đức góp phần hình thành những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức trong từng cá nhân cụ thể; giúp họ xác lập khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tuợng xã hội. Giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực trong việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống. Những giá trị đạo đức truyền thống chỉ có thể được các thế hệ sau tiếp nhận thông qua giáo dục đạo đức như: thông qua giáo dục tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, thế hệ trẻ sẽ 18
- tiếp nhận được những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc như lòng yêu nước, yêu hòa bình, tôn trọng đạo lý, tinh thần đoàn kết…Nhờ các hoạt động giáo dục đạo đức mà các thế hệ sau luôn kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và nhờ vậy, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta không bị mai một. Quan điểm này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Di chúc, theo Bác, tương lai của đất nước, của dân tộc nằm ngay trong tay các thế hệ thanh niên: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai” [59,tr.488]. Nói đến giáo dục đạo đức là nói đến chủ thể, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục. Về chủ thể giáo dục: tùy theo phạm vi, quy mô, và những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, chủ thể giáo dục đạo đức là khác nhau. Song, về cơ bản, một cách chung nhất, người ta thường cho rằng, các chủ thể giáo dục đạo đức là gia đình, nhà trường và xã hội. Một cách cụ thể hơn, trong gia đình, chủ thể giáo dục đạo đức là ông bà, cha mẹ, anh chị… Trong nhà trường, đó là thầy cô giáo, các đoàn thể… Ở xã hội, chủ thể giáo dục có thể là các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội, truyền thông,… Về nội dung giáo dục đạo đức: tùy theo mục tiêu của các chủ thể giáo dục, nội dung giáo dục đạo đức có sự khác nhau giữa các quốc gia, dân tộc; giữa các thời kỳ lịch sử khác nhau. Ví dụ, như ở phương Đông thời kỳ phong kiến, nội dung giáo dục đạo đức tập trung vào những nội dung như “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”… Về phương pháp và hình thức giáo dục đạo đức: phương pháp đàm thoại, diễn giải, thi đua, nêu gương, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn… Trong công tác giáo dục, đối tượng giáo dục cũng là một nhân tố quan trọng trong giáo dục. Bởi các chủ thể giáo dục dù có nội dung, phương pháp 19
- giáo dục hay đến thế nào đi chăng nữa mà đối tượng giáo dục không tiếp thu thì quá trình giáo dục cũng khó đạt hiệu quả như mong muốn. Đây chính là quá trình tự giáo dục của đối tượng giáo dục. Như vậy theo quan điêm cua tac gia ̉ ̉ ́ ̉ “Giáo dục đạo đức cho thanh niên là quá trình tác động có mục đích của chủ thể giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội…) đến đối tượng thanh niên để hình thành trong họ những yếu tố, tình cảm, niềm tin, lý tưởng và tất cả được thể hiện ở những hành vi đạo đức. 1.1.5. Khai niêm tô ch ́ ̣ ̉ ức giao duc đao đ ́ ̣ ̣ ức 1.2. Nhưng vân đê chung vê nguyên tăc tô ch ̃ ́ ̀ ̀ ́ ̉ ức, nôi dung tô ch ̣ ̉ ức giao duc đao đ ́ ̣ ̣ ức cho thanh niên cua Đoan thanh niên công san Hô Chi ̉ ̀ ̣ ̉ ̀ ́ Minh ́ ̉ ức giao duc đao đ 1.2.1. Nguyên tăc tô ch ́ ̣ ̣ ức cho thanh niên 1.2.1.1. Đoan thanh niên v ̀ ơi t ́ ư cach la môt nhanh cua hê thông chinh tri ́ ̀ ̣ ́ ̉ ̣ ́ ́ ̣ (bo ch ̉ ư đê an đi va phân tich thêm vai tro cua nha n ̃ ̀ ́ ̀ ́ ̀ ̉ ̀ ước vao) ̀ Chủ thể thực hiện công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là bộ máy từ Trung ương Đoàn đến các cơ sở Đoàn cấp xã, phường, thị trấn. Để cụ thể hóa việc giáo dục đạo đức cho thanh niên, Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã xây dựng và thực hiện Đề án “Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh thiếu niên giai đoạn 2013 2020”. Ban Bí thư Trung ương Đoàn báo cáo Ban Bí thư Trung ương Đảng về Đề án để Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lý 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 300 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 222 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 127 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 97 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 15 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn