Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án - Từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng
lượt xem 8
download
Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu nhằm nghiên cứu lý luận, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, làm rõ những vướng mắc, khó khăn và những hạn chế để đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của bị can trong TTHS, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố các VAHS.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án - Từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Vũ Trọng Hách. Các số liệu thống kê, kết quả nghiên cứu là trung thực, bảo đảm tính khách quan, khoa học và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào. Các số liệu, tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn đều có chú thích nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2018 Tác giả Đỗ Hoàng Khang
- LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình thực hiện đề tài “Quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án - Từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng” tác giả luận văn đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ và động viên của quý thầy, cô, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè. Trước tiên tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc, Ban Quản lý Đào tạo Sau đại học - Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với thầy PGS.TS. Vũ Trọng Hách, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Công an quận Hồng Bàng và Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi được tham dự khóa học và cung cấp tài liệu báo cáo cho tôi hoàn thành luận văn. Cuối cùng tác giả luận văn luôn ghi nhớ sâu sắc những tình cảm quan tâm của gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, khích lệ và giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 2018 Tác giả Đỗ Hoàng Khang
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................... 8 1.1. Khái quát chung về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ...... 8 1.2. Ý nghĩa và nội dung của bảo đảm thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ....................................................................................................... 17 1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền của bị can ....................................... 26 Chương 2 : THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG........................................................................................... 34 2.1. Thực trạng khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng ......................................................................................................................... 34 2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tại quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng ............ 39 2.3. Những hạn chế trong thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và nguyên nhân ............................................................................................. 46 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN – TỪ THỰC TIỄN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ............................................................................. 56 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ... 56 3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ....................................................................................................................................... 60 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 85
- DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Số trang Bảng 2.1. Số liệu khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn quận Hồng 38 Bàng thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017 Bảng 2.2. Tổng hợp số vụ án được đưa ra khởi tố và số vụ án 40 không đưa ra khởi tố trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017 Bảng 2.3. Tổng số vụ án và người không tiến hành khởi tố vụ án 40 hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017 Bảng 2.4. Tổng số tin báo tội phạm và giải quyết tin báo tội 40 phạm trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017 Bảng 2.5. Số liệu phân loại tin báo tội phạm trên địa bàn quận 41 Hồng Bàng thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017 1
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra NNPQ Nhà nước pháp quyền QCN Quyền con người THTT Tiến hành tố tụng TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát VAHS Vụ án hình sự XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là trách nhiệm mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ). Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu lên những vấn đề cần phải đảm bảo như quyền con người, sự dân chủ hóa trong hoạt động tư pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp vững mạnh, hạn chế đến mức thấp nhất việc oan sai, bỏ lọt tội phạm trong các vụ án hình sự (VAHS). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” [24]. Gần đây, thể chế hóa đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 2013, Chương về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” đã được đưa lên vị trí thứ 2, chỉ sau Chương I về “Chế độ chính trị”. Quy định này phản ánh quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong thực hiện quyền con người, quyền công dân [51]. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 còn quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Từ khi Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 được ban hành và có hiệu lực thi hành, việc quy định quyền của những người tham gia tố tụng trong VAHS đã được định hình khá rõ và ngày càng được các văn bản hướng dẫn cố gắng hoàn thiện phù hợp với tình hình phát triển của kinh tế xã hội, xu thế phát triển của nền kinh tế và các hiệp ước mà Việt Nam ký kết với các khối kinh tế trên thế giới và gần đây nhất là việc ban hành BLTTHS 2015 lần đầu tiên trong lịch sử tố tụng Việt Nam xuất hiện khái niệm bị can, bị cáo là pháp nhân. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng nói 1
- chung mà đặc biệt là quyền của bị can nói riêng trong thực tiễn vẫn chưa được hiệu quả. Bị can với địa vị pháp lý bất lợi của mình khi tham gia vào các hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) thường gặp những trở ngại khi thực hiện các quyền của mình Việc bảo đảm thực hiện các quyền của con người nói chung và quyền của bị can nói riêng bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để thực hiện quyền con người, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật TTHS. Hoạt động TTHS chính là công cụ sắc bén của Nhà nước và xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên, bảo đảm những giá trị vật chất, tinh thần chân chính của con người và xã hội. Việc quy định và bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS bằng hoạt động của các cơ quan THTT trong việc thực thi pháp luật có hiệu quả là hết sức quan trọng. Bởi quyền của bị can trong TTHS là một trong những nội dung thể hiện quyền con người trong TTHS là quyền dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương, nhất là quyền an toàn về thân thể (quyền được sống, được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe…), danh dự và nhân phẩm của cá nhân. Khởi tố VAHS là giai đoạn TTHS đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) VAHS liên quan đến hành vi đó. Quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng là một quận trung tâm, với dân số đông, tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh, các giao dịch dân sự, kinh tế diễn ra sôi động. Chính vì lẽ đó, tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn quận Hồng Bàng diễn ra rất phức tạp. Hàng năm, Cơ quan điều tra (CQĐT) công an quận Hồng Bàng khởi tố hàng trăm vụ án với hàng trăm bị can, số lượng VAHS đã khởi tố trên địa bàn quận Hồng Bàng luôn dẫn đầu toàn thành phố Hải Phòng. Trong quá trình giải quyết VAHS nói chung trong đó có hoạt động khởi tố VAHS nói riêng các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về 2
- bảo đảm quyền của bị can nói chung trong TTHS. Tuy nhiên, có những thời điểm, tại một số vụ án cụ thể vấn đề này chưa thực sự được quan tâm, còn xảy ra một số hạn chế, tồn tại nhất định. Thực tiễn cho thấy, trong quá trình giải quyết VAHS trong đó có giai đoạn khởi tố VAHS nhìn chung quyền và lợi ích hợp pháp của công dân về cơ bản đã được bảo đảm, đã hạn chế được tình trạng oan, sai. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn có nhiều trường hợp các cơ quan THTT, đặc biệt là CQĐT chưa bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền của bị can đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố VAHS. Có thể là các cơ quan tố tụng và những người THTT lạm dụng việc bắt giữ, khởi tố, bắt tạm giam sau đó phải đình chỉ điều tra do không phạm tội… Việc nghiên cứu vấn đề về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các vụ án hình để đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân và đề xuất những giải pháp hoàn thiện Bộ luật TTHS (BLTTHS), là hết sức cần thiết, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, điều tra viên, kiểm sát viên về vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của mình trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công, nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội pham, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tư an toàn xã hội, bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với lý do đó, học viên đã chọn đề tài “Quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án - Từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng”, làm đề tài Luận văn thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền con người nói chung, quyền của bị can trong TTHS nói riêng như: - “Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam” [8]. Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, do Lê Văn Cảm; Nguyễn Ngọc Chí và Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì, năm 2005. Đây là công trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề bảo đảm quyền con người trong luật hình sự và TTHS. Trong nội dung nghiên cứu của 3
- công trình cũng có những nội dung đề cập trực tiếp đến việc bảo vệ quyền con người dưới góc độ áp dụng biện pháp ngăn chặn. - Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can trong TTHS Việt Nam” [57], của Lại Văn Trình, TP. Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2011. Đây là công trình nghiên cứu trực tiếp về bảo đảm quyền của người bị bắt tạm giữ, tạm giam. Biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ngăn chặn tác động tiêu cực tới đảm bảo quyền của người bị áp dụng, do đó cần phải tiến hành một cách chặt chẽ và đảm bảo điều kiện cũng như thủ tục nghiêm túc. - Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS [10], của Nguyễn Ngọc Chí (2007), Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật (23). Trong bài viết của mình, tác giả phân tích về những nội dung liên quan đến bảo đảm quyền con người bằng pháp luật TTHS có liên quan. Đặc biệt nghiên cứu về địa vị pháp lý của bị can trong TTHS đặc biệt là quyền của bị can trong TTHS có thể thấy một số công trình sau: - Luận án tiến sỹ luật học “Hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo” năm 2015 của tác giả Nguyễn Sơn Hà; Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam” - Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2006; Các bài tạp chí “Bảo đảm quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam” của Hoàng Thị Minh Sơn, Tạp chí Luật học số 3/2011; Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát số 01/2009; “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Trần Văn Độ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2011; Võ Quốc Tuấn (2015), “Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các VAHS”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7... Các công trình khoa học, bài viết nêu trên, các tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung hoặc quyền con người của một nhóm đối tượng nhất định (như người bị tạm giữ, 4
- bị can nói chung hoặc người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can), trong toàn bộ quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử, hoặc chỉ tập trung vào giai đoạn xét xử VAHS. Trong Luận văn, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về vấn đề quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS nhằm đưa ra những đánh giá về thực trạng quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS, từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện nhằm phát huy các phương thức đảm bảo quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc xâm phạm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để thực hiện luận văn, tác giả đã lựa chọn, kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, làm rõ những vướng mắc, khó khăn và những hạn chế để đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của bị can trong TTHS, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố các VAHS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như khái niệm quyền của bị can, quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án, đặc điểm của quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS, quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS. - Phân tích thực trạng quy định về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS theo BLTTHS năm 2015 có so sánh đối chiếu với các quy định của BLTTHS trước đó. Từ đó rút ra những hạn chế, bất cập của một số quy định pháp luật và hạn chế, bất cập trong thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS những năm qua. 5
- - Nghiên cứu thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong TTHS nói chung và trong giai đoạn khởi tố VAHS nói riêng trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng, từ đó đánh giá được những ưu điểm và hạn chế bất cập trong thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thiệu quả bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS theo BLTTHS ở Việt Nam hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn Luận văn phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS theo quy định của BLTTHS 2015 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng. Về thời gian Luận văn nghiên cứu: Những vấn đề thực tiễn liên quan đến đề tài gắn với quá trình thi hành BLTTHS năm 2003 và 2015 trong địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng trong 05 năm (2013-2017). 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người, các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính như: phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp logic, các phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp khoa học của Luận văn 6
- Luận văn đề cập một số vấn đề lý luận về quyền con người, quyền của bị can trong TTHS, đặc biệt là luận giải việc bảo đảm quyền của bị can trong một giai đoạn tố tụng cụ thể là giai đoạn khởi tố VAHS. Làm rõ cơ sở xác định nội dung, mục đích, nhiệm vụ bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS. Phân tích và đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS cũng như thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng. Thông qua đó, Luận văn đưa ra được số giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS và một số các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự - từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái quát chung về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Để xác định được vấn đề quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố chúng ta cần xác định các nội dung sau: 1.1.1. Khái niệm quyền của bị can * Khái niệm bị can Trong các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng thường quy định các chủ thể tham gia tố tụng và nêu định nghĩa thế nào là bị can tùy vào các đặc điểm, tùy vào các giai đoạn THTT khác nhau. Do đó, nghiên cứu và tìm ra một khái niệm thống nhất về bị can trong pháp luật TTHS là điều cần thiết để đi đến nghiên cứu địa vị pháp lý nói chung hay quyền của bị can nói riêng. Bị can là người bị buộc tội. Những người này chưa có bản án, quyết định kết tội của Tòa án có hiệu lực nên họ không bị coi là có tội. Đây là nguyên tắc cơ bản, có tính hiến định. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [51]. Những chủ thể bị buộc tội được xác lập địa vị pháp lý tùy theo các giai đoạn tố tụng khác nhau, qua đó có các chủ thể được định danh thành các khái niệm cụ thể. Từ trước tới nay, chưa có khái niệm bị can mang tính pháp lý. Ngay cả BLTTHS năm 2015 cũng chỉ quy định mang tính chỉ định, liệt kê từng chủ thể mà theo luật trong từng trường hợp khác nhau họ có tên gọi khác nhau trong hoạt động TTHS. BLTTHS năm 2015 cũng quy định tương tự như vậy, mặc dù lần đầu tiên trong lịch sử tố tụng thừa nhận bị can có thể là pháp nhân. Từ những phân tích trên tác giả cho rằng, khi đưa ra khái niệm về một chủ thể có địa vị pháp lý trong TTHS thì khái niệm đó cần phải thể hiện được nội 8
- dung các thành tố tạo nên chủ thể đó. Cho nên, khái niệm bị can phải có đầy đủ các yếu tố tạo nên một khái niệm, không thể chỉ dưới hình thức liệt kê là các chủ thể tham gia tố tụng theo luật định. Bị can là người bị tình nghi phạm tội tuy nhiên không phải tình nghi một cách thiếu căn cứ, mà sự tình nghi này phải được đặt trong một tiến trình TTHS theo luật định. Việc tình nghi phạm tội trong TTHS khác với sự ngờ vực hay suy đoán chủ quan mang tính cảm tính của cơ quan cơ quan THTT, người THTT với một cá nhân bình thường trong đời sống xã hội. Người bị tình nghi phạm tội được đặt trong bối cảnh bị cơ quan cơ quan THTT, người THTT thực hiện quyền lực nhà nước dựa vào các căn cứ trên thực tế để xác định rằng người bị tình nghi đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi này được quy định trong BLHS là tội phạm. Không dừng lại ở đó, bị can phải là người đã bị cơ quan cơ quan THTT, người THTT đưa ra một quyết định cụ thể như quyết định khởi tố bị can. Các quyết định đó đều gắn với chủ thể bị buộc tội và họ có các quyền và nghĩa vụ được luật định trong các giai đoạn tố tụng khác nhau, họ trở thành những người tham gia tố tụng. Những điều cơ bản được trình bày ở trên hoàn toàn tách biệt bị can theo pháp luật TTHS đối với những đối tượng bị tình nghi là đã có hành vi trái pháp luật trong trường hợp bình thường khác khác. Ví dụ: - A lén lút lấy trộm điện thoại iphone 6s của B để trên quầy hàng và bị C, D phát hiện bắt quả tang. Trong trường hợp này thì rõ ràng A đã có hành vi trộm cắp được quy định trong BLHS. Tuy nhiên, lúc này A chưa thể xem là bị can trong TTHS. Từ những nội dung đã nêu ở trên chúng tôi đưa ra khái niệm bị can trong TTHS như sau: Bị can là đối tượng bị điều chỉnh bởi các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật khi có căn cứ rằng chủ thể đó có dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS. * Khái niệm quyền của bị can trong tố tụng hình sự 9
- Trước khi bàn đến khái niệm quyền của bị can cần tìm hiểu khái niệm quyền và quyền con người, quyền công dân. Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi. Về khái niệm quyền con người, hiện nay có nhiềuf. định nghĩa khác nhau. Một định nghĩa phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: Quyền con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người. Một khái niệm khác của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc cho rằng: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người [64, tr.255]. Quyền con người được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công dân. Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền công dân mà pháp luật nước đó quy định. Theo Điều 28 Hiến pháp năm 2013 thì công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân [51]. Như đã trình bày ở trên thì bị can trước hết là con người, là công dân có đầy đủ mọi quyền và nghĩa vụ được hiến pháp công nhận và bảo vệ, nhưng kể từ 10
- khi phát sinh sự kiện pháp lý và được điều chỉnh bằng các hoạt động tố tụng vì bị nghi ngờ phạm tội, bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì lúc này họ là bị can. Do đó họ gặp các bất lợi bởi bị hạn chế hoặc bị mất một phần hay toàn bộ các quyền công dân. Thế nhưng, những bị can không phải là người có tội, họ có tội hay không phải do Tòa án quyết định và chỉ đến lúc có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật thì người đó mới được xem là có tội. Bị can chưa bị coi là có tội vì vậy họ vẫn được cơ quan THTT, người THTT đảm bảo và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Khi bị buộc tội thì những bị can cũng có những quyền được pháp luật trao cho được hưởng, được làm và được đòi hỏi. Vì là trong thời gian bị buộc tội nên họ là những người tham gia tố tụng, chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng trong các quan hệ pháp luật giữa họ với cơ quan, người THTT và người tham gia tố tụng khác. Do vậy, có thể kết luận về quyền của bị can như sau: Quyền của bị can là những điều mà pháp luật quy định cho người đã bị khởi tố về hình sự được hưởng, được làm, được đòi hỏi khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự * Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự “Khởi tố VAHS là giai đoạn mở đầu của TTHS, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố”[14, tr.235]. Như vậy, khởi tố VAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, ở giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để thu thập, xử lý các thông tin ban đầu, khi có đủ chứng cứ, sẽ ra quyết định khởi tố VAHS hoặc không khởi tố VAHS. Hiến pháp năm 2013 có quy định “mọi công dân điều bình đẳng trước pháp luật” [51] và công dân có những quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ, không ai có thể xâm phạm những quyền hiến định được pháp luật ghi nhận. Căn cứ vào quy định đó, Điều 3 BLTTHS năm 2015 quy định nguyên tắc pháp chế 11
- XHCN trong TTHS, mục đích nhằm giải quyết vụ án tuân theo pháp luật và đảm bảo quyền và lợi ích của công dân trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên tắc này không thừa nhận việc áp dụng các hoạt động tố tụng mà không được quy định trong BLTTHS. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì quá trình TTHS bao gồm năm giai đoạn là: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong đó khởi tố VAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, ở giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền (cơ quan THTT và các cơ quan được giao quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu), thu thập, xử lý các thông tin ban đầu và ra quyết định khởi tố VAHS hoặc không khởi tố VAHS. Xác định những dấu hiệu tội phạm trong giai đoạn này là việc xác định những dấu hiệu, hành vi và sự kiện phạm tội nhưng chưa kết luận một cách chắc chắn về tội phạm và người phạm tội [52]. Quyết định khởi tố VAHS là cơ sở để các cơ quan THTT tiến hành các hoạt động tiếp theo là điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Quyết định khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng làm phát sinh quan hệ pháp luật TTHS giữa cơ quan có thẩm quyền và người tham gia tố tụng. Khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án sẽ là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc điều tra [14, tr.190]. Khởi tố VAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, từ đó các quan hệ tố tụng bắt đầu phát sinh. Trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở những thông tin ban đầu thu thập được đi đến xác định có hay không có căn cứ để khởi tố VAHS hoặc không khởi tố VAHS và trên cơ sở đó mà ra quyết định cho phù hợp. Kết quả của giai đoạn này làm cơ sở cho việc mở ra các hoạt động TTHS tiếp theo hoặc có thể chấm dứt mọi hoạt động TTHS đối với tin báo về tội phạm. * Đặc điểm của khởi tố VAHS Là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của quá trình TTHS, thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc 12
- thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố hoặc không khởi tố VAHS có liên quan đến hành vi đó. Chủ thể có thẩm quyền khởi tố VAHS là cơ quan THTT và các cơ quan được giao quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu. Khi tiếp nhận thông tin, các cơ quan này có trách nhiệm kiểm tra, xác minh nguồn tin nhận được bằng các biện pháp nghiệp vụ như: Khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai của người bị hại, nhân chứng, người bị tạm giữ....... Giai đoạn khởi tố VAHS không cần phải xác minh toàn bộ sự thật của vụ án, mà là không để bỏ lọt bất cứ một dấu hiệu tội phạm nào mà không được xem xét và không để cho bất cứ hành vi tội phạm nào mà không bị phát hiện. Mọi hoạt động tố tụng điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn và những biện pháp khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố VAHS. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố VAHS được tính từ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhận được những tin tức về tội phạm và kết thúc khi cơ quan THTT ra một trong hai quyết định khởi tố VAHS hoặc quyết định không khởi tố VAHS. Vì vậy, khởi tố VAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình TTHS, trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có căn cứ để ra quyết định khởi tố VAHS hoặc quyết định không khởi tố VAHS. Kết thúc giai đoạn khởi tố VAHS sẽ là sự khởi đầu cho một giai đoạn mới hoặc chấm dứt quá trình tố tụng. Khởi tố VAHS là một giai đoạn TTHS cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền của công dân trước khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. * Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố VAHS - Chứng minh có hoặc không có tội phạm xảy ra Khi tiếp nhận về tin tức về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi tố VAHS phải xác định sự tồn tại của sự việc đó có hay không có dấu hiệu tội 13
- phạm để quyết định việc khởi tố hay không khởi tố VAHS. Qua đó, kịp thời phát hiện tội phạm, hạn chế tối đa tình trạng bỏ lọt tội phạm, cũng như bảo đảm được nguyên tắc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vô tội. Nếu xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án, hoặc thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 107 BLTTHS “Những căn cứ không được khởi tố VAHS”, thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố VAHS. Khởi tố VAHS là nhằm “phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội” (Điều 1 BLTTHS năm 2015), [52] vì vậy nhiệm vụ của giai đoạn này là phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi loại tội phạm xảy ra, có biện pháp phù hợp cho việc điều tra làm rõ và xử lý công minh đối với những loại tội phạm đó. Giúp cho cơ quan có chức năng kiểm sát, giám sát hoạt động điều tra nắm được diễn biến tình hình tội phạm và công tác điều tra tội phạm để có thể đặt ra các yêu cầu trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, truy tố, buộc tội người phạm tội, góp phần quan trọng trong công tác giữ gìn an ninh trật tự địa phương. Khởi tố vụ án một cách kịp thời là một trong những bảo đảm quan trọng để xử lý nhanh chóng, công minh đối với hành vi phạm tội đã xảy ra. Ngược lại, nếu các hoạt động TTHS trong giai đoạn khởi tố không đầy đủ, không chính xác thì có thể dẫn đến những sai lệch, khó khăn trong quá trình giải quyết VAHS. Bảo đảm tính khách quan, toàn diện, đầy đủ trong hoạt động điều tra, các quyền lợi cơ bản của công dân phải được tôn trọng. Khởi tố VAHS là sự phản ứng nhanh chóng từ phía Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra và xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và người phạm tội, đồng thời không chỉ là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự mà còn là phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc trong TTHS, tránh bỏ lọt tội phạm và phát hiện hành vi phạm tội một cách kịp thời. 14
- Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố VAHS là nhằm xác định dấu hiệu của tội phạm, tức là xác định xem sự việc xảy ra có dấu hiệu của một tội phạm cụ thể hay không, nói cách khác là có VAHS đã xảy ra hay không [29]. Để thực hiện nhiệm vụ này, cơ quan có thẩm quyền sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố, trong phạm vi thẩm quyền của mình và thời hạn luật định phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh các tin tức về tội phạm bằng những biện pháp cụ thể: Kiểm tra giấy tờ tùy thân, hộ khẩu, đăng ký tạm trú của người bị tố cáo; yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân có liên quan đến sự việc cung cấp những tài liệu cần thiết. Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có liên quan giải thích rõ sự việc nhằm mục đích làm rõ dấu hiệu tội phạm. Khi yêu cầu giải thích, cơ quan có thẩm quyền không được áp dụng các biện pháp hỏi cung hoặc cưỡng chế tố tụng đối với người được yêu cầu giải thích. Nếu bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì tiến hành lấy lời khai của người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết thì khám nghiệm hiện trường và tiến hành các biện pháp khác theo quy định của BLTTHS để xác định dấu hiệu tội phạm. - Hoàn thành hồ sơ, thủ tục khởi tố Khởi tố vụ án là khâu đầu tiên của TTHS, nếu không được thực hiện tốt, khởi tố chậm trễ, điều tra vụ án không khách quan, không có căn cứ, thì dễ để lọt tội phạm hoặc gây ra lãng phí công sức, tiền bạc của Nhà nước và có khi còn gây hậu quả nghiêm trọng làm oan người vô tội. Vì vậy, sau khi tiến hành các biện pháp điều tra, xác minh thu thập chứng cứ, khi có đủ cơ sở chứng minh, cơ quan THTT sẽ thực hiện một trong hai nhiệm vụ quan trọng đó là: + Nếu đủ cơ sở chứng minh có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan THTT sẽ ra quyết định khởi tố VAHS và vụ án sẽ được tiến hành các bước tiếp theo của quá trình tố tụng. + Nếu đủ cơ sở chứng minh không có dấu hiệu tội phạm xảy ra, cơ quan THTT sẽ ra quyết định không khởi tố VAHS và vụ án sẽ được khép lại. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 303 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 231 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 129 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 100 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 18 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 15 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 27 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn