Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai
lượt xem 8
download
Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận có liên quan đến hoạt động tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên, chỉ rõ đặc thù của GDPL cho sinh viên trường đại học, cao đẳng. Luận văn có giá trị tham khảo đối với các cơ quan nhà nước, các trường đại học, cao đẳng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện GDPL cho cho sinh viên nói chung, sinh viên trường đại học, cao đẳng nói riêng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA MAI THỊ LAN HƢƠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÀO CAI LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ ANH XUÂN HÀ NỘI – NĂM 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Mai Thị Lan Hƣơng
- TS. Lê Anh Xuân Mai Thị Lan Hƣơng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG........7 1.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng ...............7 1.2. Quan niệm về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng ............................................................................................19 1.3. Các yếu tố bảo đảm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng ................................................................................25 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÀO CAI.......................................................................................................29 2.1. Khái quát chung các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai và đặc thù sinh viên các trường đại học, cao đẳng.........................................29 2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai ...................................................37 2.3. các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai .................................60 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÀO CAI .........................................................................66 3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai .................................66 3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai ...................................................69 KẾT LUẬN ..............................................................................................................90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................92
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT GDPL Giáo dục pháp luật HĐND Hội đồng nhân dân QPPL Quy phạm pháp luật TNXH Tệ nạn xã hội UBND Ủy ban nhân dân VPHC Vi phạm hành chính VPPL Vi phạm pháp luật XHCN Xã hội chủ nghĩa CNH - HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa ĐH, CĐ Đại học, cao đẳng GD & ĐT Giáo dục và Đào tạo HSSV Học sinh sinh viên PBGDPL Phổ biến giáo dục pháp luật KTX Ký túc xá CBGV Cán bộ giáo viên QH Quốc hội TCGDPL Tổ chức giáo dục pháp luật
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Số lượng học viên đã được đào tạo tại khoa Pháp lý từ ngày thành lập đến nay .................................................................................... 40 Bảng 2.2. Kết quả học tập môn Pháp luật ................................................................ 42 Bảng 2.3. Chương trình đào tạo môn học Pháp luật ................................................. 45 Bảng 2.4. Chương trình đào tạo môn học Luật hành chính ...................................... 47 Bảng 2.5. Kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên ............................................... 59
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục pháp luật là một hoạt động có vai trò to lớn đối với sự phát triển toàn diện của Việt Nam, trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý trong nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ hội nhập thì việc giáo dục pháp luật cho các đối tượng nói chung và cho sinh viên trường đại học, cao đẳng nói riêng đã được coi là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Các trường học đã xác định đây là một hoạt động giáo dục quan trọng, cụ thể, không thể thiếu và gắn bó hữu cơ với hoạt động giáo dục nói chung, mang tính định hướng, có tổ chức, có chủ đích của các chủ thể giáo dục pháp luật. Thông qua các hoạt động giáo dục chính khóa và ngoại khóa, bằng các phương pháp giáo dục khác nhau nhằm trang bị tri thức pháp luật cơ bản, định hướng, phát triển nhân cách và tư cách công dân, nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật và có tri thức pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề lĩnh vực mình được đào tạo. Thực tiễn cho thấy, giáo dục pháp luật trong các nhà trường, đặc biệt trong các trường đại học và cao đẳng đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực, hình thành một cách vững chắc những thế hệ công dân đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai. Do đó, trong đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước thường xuyên quan tâm đến hoạt động này thông qua việc ban hành các loại nghị quyết, chỉ thị, trong đó xác định rõ muốn xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân cần đưa việc giáo dục pháp luật vào các trường học, các cấp học, từ phổ thông đến đại học, trung học chuyên nghiệp cùng toàn thể nhân dân. Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ cần: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân [1]. 1
- Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng” [2]. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng nhấn mạnh: “coi trọng công tác giáo dục tuyên truyền, giải thích pháp luật, đưa việc dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ thông, đại học) của các đoàn thể nhân dân” [4]. Trên tinh thần ấy, các cơ quan chức năng đã phối hợp, từng bước triển khai việc đưa phổ biến, giáo dục pháp luật vào các trường học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Đổi mới chương trình, mục tiêu giáo dục ở các hệ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong các chương trình chính khóa, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường được thực hiện thông qua việc dạy và học các môn học pháp luật; pháp luật đại cương hoặc lồng ghép, tích hợp vào các môn học có liên quan. Bên cạnh đó, phổ biến, giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên được nhà trường thực hiện thông qua các hoạt động ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp. Trong thời kỳ hiện nay, có rất nhiều học sinh, sinh viên có ý chí vươn lên trong học tập, có hoài bão khát khao lớn. Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, kinh tế mở cửa, sự du nhập của nhiều nền văn hóa và do nhiều nguyên nhân khác, hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên có xu hướng ngày càng tăng. Hiện tượng vi phạm pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự ngày càng trở thành những vấn đề nhức nhối của xã hội. Một số hành vi vi phạm pháp luật của sinh viên khiến gia đình và xã hội lo lắng như: vi phạm giao thông, đua xe trái phép, cờ bạc, rượu chè, quay cóp bài… có lối sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, xa hoa, lãng phí, lười lao động và học tập dẫn đến những hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội như: cướp của, giết người, hiếp dâm.... Những hành vi ấy là hậu quả của giáo dục không đồng bộ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, trong thời gian khá dài, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên còn hạn chế, chưa thực 2
- sự được quan tâm dẫn tới tình trạng vi phạm pháp luật trong giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng có chiều hướng gia tăng. Một tỷ lệ không nhỏ học sinh, sinh viên còn hiểu về pháp luật một cách sơ sài, hời hợt. Nhiều sinh viên coi các môn học pháp luật trong trường đại học, cao đẳng chỉ là môn học phụ, thậm chí có những sinh viên chưa phân biệt được hành vi hợp pháp với hành vi không hợp pháp, giữa các loại vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình sự… dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật một cách đáng tiếc. Mặc dù những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động nhưng trong đó không thể không kể đến việc nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số trường chưa đúng mức; chương trình nội dung giáo dục pháp luật cho sinh viên còn dàn trải, chưa thống nhất; hình thức và phương thức giáo dục còn chậm đổi mới; hoạt động giáo dục ngoại khóa còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn; đội ngũ nhà giáo và cán bộ làm công tác giáo dục pháp luật còn thiếu cả về số lượng và chất lượng. Thể hiện ở vấn đề năng lực của một số cán bộ, giảng viên chưa đáp ứng được nhu cầu trong công việc; cơ chế phối hợp giữa các chủ thể giáo dục pháp luật còn thiếu đồng bộ… chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài: “Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai” để đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và ý thức pháp luật nói riêng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Phổ biến giáo dục pháp luật luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật càng có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một trong những nội dung mà các nhà khoa học pháp lý đặc biệt quan tâm. Thể hiện qua các công trình nghiên cứu như: - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời ký đổi mới. Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92 - 98 - 223 - ĐT của viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. 3
- - Bàn về giáo dục pháp luật, của tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai. - Giáo dục pháp luật trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân Thảo, 1996. - Xây dựng ý thức và lối sống pháp luật, do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, 1995. - Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp, Hà Nội. - Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000. - Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hoàng Thị Kim Quế chủ nhiệm, năm 2002. - Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nguyễn Đặng Đình Lục, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2005. - “Sự hình thành ý thức pháp luật và giải pháp nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta trong thời kỳ đổi mới” - Đào Duy Tấn, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004; - “Giáo dục pháp luật cho học viên ở trường bồi dưỡng nghiệp vụ công an nhân dân” - Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Tiến Công, 2013; - “Chất lượng giáo dục pháp luật cho học viên ở trường sỹ quan lục quân 1 - Quân đội nhân dân Việt Nam” - Luận văn thạc sỹ của Trịnh Văn Hưng, 2014; Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên. Mỗi đề tài nghiên cứu, có các cách tiếp cận và mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu cơ bản về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Vì vậy, tác giả đã nghiên cứu có hệ thống và tương đối hoàn thiện về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng GDPL cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, luận văn đề xuất 4
- một số giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận tổ chức thực hiện GDPL cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng. - Nghiên cứu, đánh giá về thực trạng tổ chức thực hiện GDPL cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, chỉ ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân - Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện GDPL cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức thực hiện GDPL cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai dưới góc độ Quản lý Hành chính công. - Phạm vi nghiên cứu: Công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai trong khoảng 10 năm trở lại đây. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là lý luận Mác - Lê nin với phép biện chứng duy vật khoa học và biện chứng khoa học lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc đề cao vai trò của pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền; đề cao nhân tố con người, đào tạo con người phát triển toàn diện phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử - cụ thể; phương pháp khảo sát thực tế… 5
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận có liên quan đến hoạt động tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên, chỉ rõ đặc thù của GDPL cho sinh viên trường đại học, cao đẳng. - Luận văn có giá trị tham khảo đối với các cơ quan nhà nước, các trường đại học, cao đẳng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện GDPL cho cho sinh viên nói chung, sinh viên trường đại học, cao đẳng nói riêng. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy về GDPL tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai. 6
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG 1.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật cho sinh viên trƣờng đại học, cao đẳng 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm sinh viên các trường đại học, cao đẳng Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học. Sinh viên các trường các trường đại học, cao đẳng là một bộ phận thanh niên của cả nước, là lực lượng thanh niên tương lai hùng hậu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sau khi ra trường họ sẽ làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hầu hết các ngành nghề của xã hội. Xét dưới góc độ đối tượng để giáo dục pháp luật thì sinh viên các trường đại học, cao đẳng có các đặc điểm cơ bản sau: Một là, sinh viên hầu hết có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn và xu hướng nghề nghiệp rõ ràng, có khả năng nhận thức nhanh. Để được học tập, rèn luyện tại các trường đại học, cao đẳng, mọi sinh viên phải trải qua quá trình nỗ lực phấn đấu, được lựa chọn và trải qua thi tuyển nghiêm túc, chặt chẽ. Những thí sinh có đủ điểm trúng tuyển, được gọi nhập học và được công nhận là sinh viên đại học, cao đẳng theo mô hình, mục tiêu đào tạo của từng trường đều nhận thức đầy đủ giá trị của sự phấn đấu của bản thân, từ đó xây dựng động cơ, thái độ trách nhiệm học tập, rèn luyện đúng đắn, xác định xu hướng nghề nghiệp rõ ràng. Hơn nữa, kết quả, chất lượng học tập, rèn luyện của sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng sẽ liên quan trực tiếp đến việc sắp xếp, bố trí sử dụng, cân nhắc đề bạt đội ngũ đó khi tốt nghiệp ra trường. Do vậy, mỗi sinh viên đều có động lực mạnh mẽ, trực tiếp thôi thúc họ học để làm việc, trở thành người có ích. Mặt khác, sinh viên các trường đại học, cao đẳng được sinh ra, lớn lên trong thời kỳ đấ 7
- thuận lợi để học tập, lĩnh hội tri thức, tiếp thu những kiến thức pháp luật ở trường học cũng như qua các kênh thông tin, truyền thông để tiếp cận những vấn đề mới. Khả năng nhận thức, ý thức tự lập, tự chủ cao hơn các thế hệ trước. Đó là điều kiện thuận lợi cho việc bồi dưỡng GDPL, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các trường đại học, cao đẳng. Hai là, sinh viên các trường đại học, cao đẳng là một nhóm xã hội dân cư có tính phức hợp rất cao, hàm chứa trong đó nhiều sự đa dạng về độ tuổi, giới tính, tâm linh và các mô hình ứng xử và lựa chọn xã hội .... Bởi lẽ nó hàm chứa trong đó những cá thể ở độ tuổi trưởng thành có nguồn gốc xuất thân từ nhiều vùng miền, dân tộc, khác nhau, thuộc mọi giai tầng trong xã hội dưới sự tác động của nhiều định hướng ý thức hệ, tư tưởng, truyền thống, mô hình ứng xử và với nhiều loại thói quen, tập tục khác nhau. Vì vậy, trong nghiên cứu về giáo dục pháp luật đối với sinh viên cần phải đặc biệt lưu ý đến tính phức hợp và tính đa dạng cao của nhóm xã hội - dân cư này, đồng thời phải luôn luôn đặt nhóm đó trong mối liên hệ với các nhóm xã hội - dân cư, hoặc những cộng đồng dân cư khác nhau để xem xét, tham chiếu. Thứ ba, tính trẻ, năng động, ưa thử nghiệm và dễ phạm sai lầm và xung đột với thế hệ đi trước cũng là đặc điểm chung của sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở mọi thời đại, mọi quốc gia - dân tộc. Cái chung, cái thống nhất căn bản nhất của “sinh viên” chính là ở tuổi trẻ, ở độ tuổi “thanh niên”. Trong cuộc đời của mỗi con người thì tuổi sinh viên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Xét từ góc độ tâm - sinh lý thì đây là giai đoạn con người chuyển biến từ một đứa trẻ thành một người trưởng thành với sự hoàn thiện cơ thể về mặt sinh học và những chuyển biến về tâm - sinh lý, tình cảm rất điển hình của “tuổi dậy thì”. Xét từ góc độ “con người - xã hội” thì tuổi thanh niên chính là giai đọan mỗi con người chuẩn bị hành trang cho toàn bộ cuộc đời mình: học vấn, nghề nghiệp, thử nghiệm và lựa chọn văn hóa, kinh nghiệm, lối sống trên cở sở định hình dần hệ giá trị của riêng mình, trở thành công dân thực thụ với đầy đủ những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định. Tuy nhiên, vì họ là thế hệ của những người trẻ tuổi, là sản phẩm đích thực của thời đại mà họ đang sống chứ không phải thuần túy chỉ là sản phẩm đào tạo, bồi dưỡng của thế hệ đi trước. Vì vậy họ là 8
- lớp người vô cùng năng động, luôn luôn chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị hành trang cho tương lai của bản thân mình và của quốc gia - dân tộc. Bên cạnh những gì họ bị ảnh hưởng do tiếp nhận những sự trao truyền, giáo dục của thế hệ đi trước thì họ luôn luôn có lựa chọn của riêng mình và thế hệ mình. Ngoài ảnh hưởng của thế hệ “cha chú” trong cộng đồng gia đình hay quốc gia - dân tộc, trong thời đại toàn cầu hóa, họ còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa, tri thức, kinh nghiệm, giá trị và lựa chọn của các cộng đồng và cá nhân khác trên thế giới. Xuất phát từ lý do này, sinh viên các trường đại học, cao đẳng thường có xu hướng thử nghiệm nhiều khả năng, nhiều lựa chọn, ngay cả khi họ còn chưa được chuẩn bị đủ tốt cho những thử nghiệm đó, vì đối với họ, dù có phạm sai lầm vẫn có thời cơ làm lại, thử nghiệm lại. Hơn nữa, phần đông sinh viên thường có xu hướng kiểm chứng lại những lựa chọn, chế định và quan niệm của thế hệ đi trước, thậm chí cố tình phủ nhận, làm khác, coi đó như một phương thức để khẳng định tư cách “người lớn” của mình. Đó là nguyên nhân thường dẫn đến những “lệch chuẩn” trong suy nghĩ, nhận thức và hành động của sinh viên. Bốn là, sinh viên được học tập, rèn luyện trong môi trường chính quy, mẫu mực, hoạt động trong hệ thống tổ chức hết sức chặt chẽ. Các trường đại học không chỉ là nơi đào tạo, bồi dưỡng thanh niên mà còn là những đơn vị mẫu mực, tiêu biểu về quản lý, rèn luyện kỷ luật, xây dựng nếp sống chính quy. Trong những năm gần đây, các trường đại học luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng hệ thống giảng đường hiện đại; đội ngũ cán bộ giảng viên được đào tạo cơ bản, trình độ mọi mặt được nâng trường đại học, cao đẳng càng có điều kiện thuận lợi để bồi dưỡng GDPL, rèn luyện ý thức chấp hành pháp luật cho học viên. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng 1.1.2.1. Khái niệm Theo từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng năm 1997) thì “Phổ biến là làm cho đông đảo mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp 9
- hay thông qua hình thức nào đó” [35, tr.3] hoặc làm cho mọi người đều biết đến, còn “Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội” [35, tr3]. So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là các phương thức giáo dục cụ thể. Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả đã khá thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên, nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành. Theo cách hiểu chung nhất về giáo dục pháp luật có hai nghĩa: - Theo nghĩa hẹp: Giáo dục pháp luật là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng. - Theo nghĩa rộng: Giáo dục pháp luật là một khâu của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định thông qua các hình thức giáo dục, thuyết phục, nêu gương... nhằm mục đích hình thành ở đối tượng tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phương tiện, phương pháp đặc thù. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đồng ý với khái niệm chung nhất: “ ”. 10
- Từ phân tích trên có thể hiểu giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể GDPL, tác động một cách có hệ thống và thường xuyên, tinh thần, nội dung pháp luật nhằm mục đích giúp cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành. GDPL với ý nghĩa là một dạng giáo dục đặc thù, có vị trí độc lập tương đối, được hiểu là hoạt động cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, thái độ đúng đắn với pháp luật một cách có định hướng, có tình cảm, có chủ định lên mỗi thành viên của xã hội, nhằm hình thành một cách bền vững ý thức pháp luật luật và những thói quen tích cực trong mọi hành vi xử thế của công dân trong đời sống xã hội. 1.1.2.2. Đặc điểm Một là, giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trước hết là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể. Chính vì thế, việc giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng luôn có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng cá nhân sinh viên trong xã hội. Hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng phải 11
- luôn thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhận thức và hành động của mỗi người dân nói chung và thế hệ thanh niên và sinh viên các trường đại học, cao đẳng nói riêng. Và các quy định pháp luật chính là sự cụ thể hóa quan điểm chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam mỗi thời kỳ. Chính vì thế, khi giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng cũng chính là một hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng. Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân (Chỉ thị số 32 - CT/TW) đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Thứ hai, giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng có mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây dựng, thực hiện pháp luật. Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật thì dù công tác xây dựng pháp luật có làm tốt đến mấy cũng không đạt được hiệu quả thực thi pháp luật. Giáo dục pháp luật là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Nói cách khác, quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật. Thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào - tuân thủ, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng (vận dụng) pháp luật hay áp dụng pháp luật. Pháp luật của Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng, bản chất pháp luật của Nhà nước ta là tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Tuy nhiên, dù những quy định pháp luật có tốt đẹp nhưng không được nhân dân biết đến thì vẫn không đi vào cuộc sống. Chính vì vậy giáo dục pháp luật chính là phương tiện truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến với thanh niên nói chung sinh viên các trường đại học, cao đẳng nói riêng, giúp cho sinh viên các 12
- trường hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đó chính là phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Từ đó giúp cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng có những nhận thức đúng đắn để tránh vi phạm pháp luật. Đặc biệt, với sinh viên các trường đại học, cao đẳng - lứa tuổi còn chưa có sự nhận thức chín chắn, hành động đôi khi còn theo cảm tính, nông nổi có thể dễ lôi kéo vào con đường phạm pháp. Ba là, quá trình giáo dục được tiến hành trong một trật tự nghiêm túc, đây là điều kiện tiên quyết trong giáo dục của nhà trường, có tác động mạnh mẽ đến việc hình thành ở sinh viên ý thức kỷ luật, tính tổ chức và tinh thần đoàn kết cao. Đó là những yếu tố rất gần gũi với mục tiêu GDPL, tạo ra những khả năng lớn cho việc vận dụng, áp dụng những hình thức giáo dục mang tính tổng hợp, có hiệu quả giáo dục cao. Bốn là, giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng đòi hỏi phải sự dụng các phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật phù hợp với trình độ, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc điểm về nhận thức, lối sống, văn hóa của sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Bởi lẽ, về nguyên tắc, chủ thể giáo dục pháp luật phải căn cứ vào mục đích, nội dung chương trình và đặc biệt là đặc điểm đối tượng tiếp nhận để lựa chọn và sử dụng phương pháp, hình thức giáo dục pháp luật sao cho phù hợp. Điều đó cũng có nghĩa là “trang bị cái mà đối tượng của giáo dục cần chứ không phải là trang bị cái mà nhà giáo dục pháp luật có”. Với đối tượng giáo dục pháp luật là sinh viên các trường đại học, cao đẳng - là những người chủ tương lai của đất nước, những người sống trong môi trường quy củ, năng động, sáng tạo dễ dàng tiếp thu sự tiến bộ của khoa học công nghệ, có lối sống tác phong công nghiệp vì vậy, cần đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện họ trở thành những con người phát triển toàn diện, có kiến thức pháp luật và trách nhiệm công dân cao. Bên cạnh những phương pháp giáo dục pháp luật truyền thống cần tăng cường áp dụng các phương pháp hiện đại, có sử dụng công nghệ để tác động nhanh vào nhận thức của sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Sinh viên các trường đại học, cao đẳng đa số là những người có khả năng tiếp thu nhanh các văn bản pháp luật vì vậy chủ thể giáo dục pháp luật cần có nhiều hình thức để phù hợp với từng loại đối tượng. 13
- Năm là, nội dung giáo dục pháp luật trong các trường đại học, cao đẳng là truyền đạt những kiến thức pháp luật và các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là những kiến thức pháp luật về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho sinh viên. 1.1.3. Mục đích của giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao đẳng Việc xác định mục đích cụ thể của giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật đối với sinh viên nói riêng phải đảm bảo phản ánh được các nhu cầu cụ thể của xã hội, phù hợp các điều kiện khách quan, chủ quan trong từng thời kỳ để cho mục đích đó có thể trở thành hiện thực. Đồng thời, bản thân mục đích này không thể là sự xác định chủ quan “duy ý chí” mà phải phản ánh được trong nó hiện thực tiến hành công tác giáo dục pháp luật, phải có quan hệ trực tiếp với công tác này. Từ đó, việc xác định đúng đắn mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật đối với sinh viên sẽ giúp ích cho việc xác định nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trường đại học, cao đẳng nói riêng. Vì vậy, căn cứ vào các đòi hỏi khi xác định mục đích giáo dục pháp luật, nhiều nhà nghiên cứu thống nhất các mục đích cơ bản sau đây: Thứ nhất, hình thành và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Thông qua việc tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật, sinh viên được trang bị những tri thức cơ bản về pháp luật như giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh của pháp luật, các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống. Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm pháp luật, là nền tảng giúp sinh viên biết cách hành động phù hợp với các chuẩn mực đặt ra. Trên cơ sở kiến thức pháp luật được trang bị, từng bước mở rộng và làm sâu sắc tri thức pháp luật, giúp thanh niên am hiểu hơn về pháp luật và biết cách đánh giá một cách đúng đắn các hành vi pháp lý. Tri thức pháp luật góp phần định hướng cho lòng tin đúng đắn vào các giá trị của pháp luật, tạo cơ sở hình thành hành vi hợp pháp ở mỗi cá nhân. Tri thức pháp luật giúp sinh viên điều khiển, kiềm chế hành vi của mình trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã nhận thức được. 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 300 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 225 | 44
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “Một cửa”, “Một cửa liên thông” tại Ủy ban nhân dân cấp Phường tại quận Nam Từ Liêm
28 p | 233 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 97 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 15 | 5
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng
28 p | 104 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn