intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:118

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 hiện nay" được hoàn thành với mục tiêu nhằm làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn quản lí hoạt động GDPL; trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp quản lí hoạt động GDPL ở Trường TCQY1 hiện nay; góp phần nâng cao chất lượng GDPL và thực hiện mục tiêu GD - ĐT ở Trường TCQY1 hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 hiện nay

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHẠM NHẬT QUANG QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP QUÂN Y 1 HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÍ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2013
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHẠM NHẬT QUANG QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP QUÂN Y 1 HIỆN NAY Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số: 60 14 01 14 Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN VĂN TỴ HÀ NỘI - 2013
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP QUÂN Y 1 12 1.1. Các khái niệm công cụ 12 1.2. Nội dung quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 24 1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 33 1.4. Những vấn đề thực tiễn quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 hiện nay 40 Chương 2 YÊU CẦU, BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP QUÂN Y 1 HIỆN NAY 59 2.1. Yêu cầu quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 hiện nay 59 2.2. Biện pháp quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 hiện nay 64 2.3. Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp 82 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 PHỤ LỤC 97
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT Giáo dục - đào tạo GD - ĐT Giáo dục và đào tạo GD & ĐT Giáo dục pháp luật GDPL Quân đội nhân dân QĐND Trung cấp Quân y 1 TCQY1 Xã hội chủ nghĩa XHCN
  5. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Vì vậy, cùng với việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần phải đẩy mạnh GDPL cho mọi đối tượng trong xã hội nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng. Đây là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết, mang tính khách quan và hoàn toàn phù hợp với mục tiêu giáo dục “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [31, tr.12]. Ngày 26 tháng 6 năm 2012, Quốc hội khoá XIII ban hành Luật phổ biến, GDPL. Luật này quy định quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân; nội dung, hình thức phổ biến, GDPL; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, GDPL. Về trách nhiệm phổ biến, GDPL trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân, Luật Phổ biến, GDPL quy định: “Căn cứ vào nội dung, hình thức GDPL ở từng cấp học và trình độ đào tạo, các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân có trách nhiệm tổ chức thực hiện GDPL, bố trí giáo viên dạy môn giáo dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật. Phối hợp với gia đình và xã hội thực hiện mục tiêu GDPL trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân” [48, tr.31].
  6. 4 Trong những năm qua quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Quân uỷ Trung ương, sự chỉ đạo hướng dẫn của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, hoạt động GDPL trong QĐND Việt Nam nói chung và Trường TCQY1 nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhờ đó đã góp phần nâng cao ý thức pháp luật và năng lực thực hành pháp luật của cán bộ, chiến sỹ, học viên, công nhân viên quốc phòng và lao động hợp đồng của Nhà trường. Tuy nhiên, hoạt động GDPL của Nhà trường cũng đã và đang bộc lộ không ít hạn chế, bất cập. Tỷ lệ học viên vi phạm pháp luật, kỷ luật giảm không đáng kể. Không ít học viên do thiếu hiểu biết pháp luật nên bị kẻ xấu lợi dụng khi tham gia các quan hệ xã hội và dẫn đến vi phạm pháp luật, kỷ luật, gây ảnh hưởng xấu tới truyền thống, kết quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Nhà trường; làm phai nhạt bản chất quân nhân cách mạng, giảm sút lòng tin của nhân dân trên địa bàn đóng quân đối với đơn vị. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ quản lí hoạt động GDPL còn chưa đáp ứng yêu cầu của việc nâng cao chất lượng GDPL cho học viên. Hiện nay, hoạt động GDPL ở Trường TCQY1 tuy có nhiều thuận lợi song cũng không ít khó khăn, thách thức từ sự tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường; các thế lực thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, phá hoại pháp luật của Nhà nước, tìm mọi thủ đoạn tuyên tuyền quan điểm, pháp luật tư sản vào cán bộ, đảng viên, nhân dân, chiến sỹ Quân đội ta. Yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực y tế phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; triển khai mô hình kết hợp quân - dân y trong chăm sóc sức khoẻ, đồng thời làm công tác vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại các địa bàn đóng quân đòi hỏi mỗi quân nhân, nhân viên chuyên môn kỹ thuật về y, dược do Nhà trường đào tạo phải có phẩm chất chính trị, y đức của người thày thuốc tốt, có năng lực chuyên môn giỏi, luôn nắm vững pháp
  7. 5 luật của Nhà nước, Điều lệ Công tác Quân y để thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Vì vậy, một trong những yêu cầu bức thiết đối với Trường TCQY1 hiện nay là tăng cường quản lí hoạt động GDPL để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục GDPL cho học viên trong quá trình đào tạo ở Nhà trường. Xuất phát từ lý do cơ bản trên đây, chúng tôi chọn vấn đề “Quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xuất phát từ vai trò của pháp luật đối với sự phát triển xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến GDPL cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Phổ biến, GDPL được coi là một trong những việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí Nhà nước, quản lí xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Thông qua phổ biến, GDPL, các quy phạm, các chuẩn mực pháp luật từ những quy định "khô khan" trên các văn bản pháp luật đã thấm dần vào nhận thức và được thể hiện qua hành vi xử sự của mỗi công dân trong đời sống xã hội. Phổ biến, GDPL là kênh dẫn pháp luật đến với xã hội, với đời sống hàng ngày của mỗi công dân, tạo nên môi trường sống cho pháp luật. Trong môi trường này, pháp luật từng bước được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu quản lí xã hội. Phổ biến, GDPL là cơ sở bước đầu để hình thành niềm tin pháp luật, hình thành cảm xúc pháp luật và thói quen hành vi pháp luật ở mỗi cá nhân con người - đây chính là các yếu tố cơ bản của quá trình hình thành ý thức pháp luật, ý thức công dân. Với quan niệm phổ biến, GDPL, đặc biệt là GDPL cho học sinh, sinh viên trong các nhà trường là giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục ý thức công dân, ý thức làm người, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng, khẳng định vai trò chiến lược của công tác GDPL trong nhà trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện phổ
  8. 6 biến, GDPL trong nhà trường và triển khai các nghiên cứu về GDPL và quản lí GDPL. Quán triệt thực hiện nghị quyết của Đảng, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, theo từng giai đoạn phát triển của đất nước, có nhiều cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu về vấn đề GDPL và quản lí GDPL. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu: Nguyễn Đình Lộc (1977): “Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam”, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học. Trong Luận án này, tác giả đã nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về ý thức pháp luật và GDPL ở Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay, dưới ánh sáng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, nhiều nhà khoa học và cơ quan, tổ chức đã quan tâm nghiên cứu về vấn đề phổ biến, GDPL. Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai: “Bàn về giáo dục pháp luật”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; GS.TSKH Đào Trí Úc (chủ biên): "Xây dựng ý thức và lối sống tuân theo pháp luật”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp:“Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về phổ biến, GDPL trong công cuộc đổi mới”, Đề tài khoa học cấp Bộ; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:“Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, 2000; Bộ Tư pháp:“Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng chương trình quốc gia về phổ biến, GDPL trong giai đoạn tới”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, 2004; Đinh Xuân Thảo: “GDPL trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay”, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 1996; Vũ Bích Ngọc: “GDPL trong QĐND Việt Nam - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội, 2011; Phạm Thị Ngọc Minh: “Giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội, 2012 và một số luận văn khác nghiên cứu vấn đề GDPL cho học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên...
  9. 7 Trong Quân đội, xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, hoạt động GDPL thường xuyên có sự quan tâm của các cấp uỷ, chỉ huy cũng như những nhà khoa học. Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu dưới đây: Tổng cục Chính trị (2000): "Đổi mới công tác phổ biến, GDPL trong QĐND Việt Nam hiện nay". Công trình này đã đi sâu làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, mục đích, nhiệm vụ của phổ biến, GDPL; phân tích các thành tố GDPL và đặc điểm, vai trò của GDPL; đánh giá thực trạng công tác GDPL trong Quân đội, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, GDPL trong Quân đội hiện nay. Vũ Văn Thường: "Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay", Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quân sự (2005). Phùng Đức Hùng: "Biện pháp quản lí quá trình giáo dục kỷ luật cho học viên Trường Quân sự Quân khu 2", Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành quản lí giáo dục. Các tác giả đã luận giải cơ sở lí luận, thực tiễn của ý thức pháp luật, quản lí giáo dục kỷ luật; đề xuất các biện pháp quản lí quá trình giáo dục kỷ luật cho học viên. Cùng với các đề tài, luận văn và luận án, còn có rất nhiều bài viết của các tác giả về GDPL được đăng tải trên các tạp chí khoa học. Lê Thanh Sơn: "Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn học pháp luật trong các nhà trường Quân đội", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 6/2004; Nguyễn Thành Cung:"Toàn quân đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, GDPL trong tình hình mới", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 5/2012... Nhìn tổng quát, các công trình, đề tài, luận văn, bài viết đã được công bố đều dựa trên nền tảng lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, khoa học giáo dục và quản lí
  10. 8 giáo dục để luận giải những vấn đề cơ bản của lí luận và thực tiễn về phổ biến, GDPL ở nước ta cũng như trong Quân đội giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên do mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, đối tượng nghiên cứu của mỗi công trình khác nhau, vấn đề quản lí hoạt động GDPL được các đề tài xác định như là một giải pháp của phổ biến, GDPL. Trong Quân đội có một số công trình nghiên cứu về quản lí hoạt động GDPL, song mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu quản lí GDPL cho các đối tượng quân nhân nói chung hoặc từng nhà trường và các cơ sở giáo dục thuộc một số đơn vị và địa bàn trong toàn quân, đó là những tài liệu có giá trị lí luận và thực tiễn đối với việc nghiên cứu phổ biến, GDPL ở nước ta và trong Quân đội ta hiện nay. Ở góc độ khoa học quản lí giáo dục, cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống vấn đề “Quản lí hoạt động giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 hiện nay” với tính chất là một đề tài độc lập. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn quản lí hoạt động GDPL; trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp quản lí hoạt động GDPL ở Trường TCQY1 hiện nay; góp phần nâng cao chất lượng GDPL và thực hiện mục tiêu GD - ĐT ở Trường TCQY1 hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận quản lí hoạt động GDPL ở Trường TCQY1. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lí hoạt động GDPL; chỉ rõ nguyên nhân hạn chế, bất cập trong quản lí hoạt động GDPL ở Trường TCQY1. Xác định yêu cầu và đề xuất những biện pháp quản lí hoạt động GDPL ở Trường TCQY1 hiện nay. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Khách thể nghiên cứu: Quản lí hoạt động GD - ĐT ở Trường TCQY1. * Đối tượng nghiên cứu: Quản lí hoạt động GDPL ở Trường TCQY1.
  11. 9 * Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình quản lí hoạt động GDPL cho đối tượng học viên đào tạo trình độ trung cấp của Trường TCQY1. Các số liệu điều tra, khảo sát được tính từ năm học 2008 - 2009 đến năm học 2012 - 2013. 5. Giả thuyết khoa học Chất lượng GDPL ở Trường TCQY1 phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quản lí hoạt động GDPL là một yếu tố quan trọng. Nếu trong quá trình GDPL Nhà trường thực hiện tốt các biện pháp như: Nâng cao nhận thức, xác định rõ trách nhiệm cho các lực lượng trong Nhà trường về quản lí hoạt động GDPL; chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch GDPL; phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong GDPL; tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả quản lí hoạt động GDPL và xây dựng môi trường giáo dục đúng quy định thì chất lượng GDPL ở Nhà trường sẽ được nâng lên. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GD - ĐT và quản lí GD - ĐT. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn dựa trên các quan điểm: Hệ thống - cấu trúc; lịch sử - lôgic và quan điểm thực tiễn để phân tích, đánh giá, xem xét các vấn đề có liên quan. * Phương pháp nghiên cứu Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các tài liệu liên quan như các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn bản quy phạm pháp luật, giáo trình, sách chuyên khảo, tài liệu lí luận về giáo dục,
  12. 10 quản lí giáo dục, GDPL; các công trình khoa học liên quan đến đề tài như: luận văn, luận án, báo cáo khoa học, kỷ yếu hội thảo khoa học... Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp quan sát: Quan sát quản lí hoạt động GDPL của cán bộ quản lí, giáo viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; phương pháp, tác phong, cử chỉ, thái độ, lời nói và việc làm của học viên trong học tập, sinh hoạt và giao tiếp với đồng đội, đồng nghiệp, thầy giáo, cô giáo, cán bộ, nhân viên, học viên, chiến sĩ trong đơn vị và một số đối tượng khác ngoài Nhà trường để rút ra những kết luận có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Phương pháp toạ đàm: Trao đổi với học viên, cán bộ quản lí, giáo viên và một số cá nhân khác ngoài Nhà trường về quản lí hoạt động GDPL để rút ra những nhận định, kết luận có cơ sở khoa học về mức độ nhận thức, thái độ, hành vi pháp luật của học viên phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Phương pháp điều tra: Điều tra xã hội học đối với học viên, cán bộ quản lí, giáo viên và các lực lượng liên quan đến quản lí hoạt động GDPL làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động GDPL phù hợp với học viên đào tạo trình độ trung cấp ở Trường TCQY1 hiện nay. Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của một số nhà khoa học, cán bộ quản lí, giáo viên, báo cáo viên pháp luật về một số vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài. Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu các nghị quyết, kế hoạch, thông báo kết quả, báo cáo sơ kết, tổng kết thời gian gần đây có nội dung liên quan đến quản lí hoạt động GDPL để tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút những kinh nghiệm của hoạt động quản lí GDPL. Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng toán thống kê để tổng hợp kết quả điều tra và xử lý số liệu.
  13. 11 7. Ý nghĩa, giá trị của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lí luận và thực tiễn quản lí GDPL, cung cấp thêm những luận cứ khoa học để Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các chủ thể quản lí Trường TCQY1 và cấp ủy, chỉ huy, cơ quan, đơn vị các cấp nghiên cứu, vận dụng xác định chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng quản lí hoạt động GDPL; đồng thời, Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo phục vụ tập huấn nghiệp vụ GDPL và quản lí hoạt động GDPL trong nhà trường Quân đội. 8. Cấu trúc của luận văn Luận văn bao gồm: phần mở đầu, 2 chương 7 tiết; kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  14. 12 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở TRƯỜNG TRUNG CẤP QUÂN Y 1 1.1. Các khái niệm công cụ 1.1.1. Giáo dục pháp luật Hiện nay, còn nhiều định nghĩa khác nhau về GDPL, song tựu chung lại GDPL được quan niệm ở hai góc độ, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, GDPL được quan niệm là quá trình hình thành ý thức pháp luật và hành vi pháp lý của các thành viên trong xã hội, quá trình đó chịu sự tác động của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Điều kiện khách quan như: chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội, môi trường sống... là yếu tố giữ vai trò ảnh hưởng, tác động tự phát theo chiều hướng tích cực hoặc ngược lại. Nhân tố chủ quan như: sự tác động có chủ định theo chiều hướng xác định của chủ thể giáo dục; ý thức tự giác trong tiếp thu nội dung giáo dục và quá trình tự giáo dục của đối tượng giáo dục... luôn giữ vai trò quyết định. Theo nghĩa hẹp, GDPL là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên của chủ thể giáo dục đến đối tượng giáo dục, nhằm trang bị cho đối tượng giáo dục một trình độ tri thức pháp lý nhất định, bồi dưỡng tình cảm pháp luật và rèn luyện thói quen hành vi pháp luật: “GDPL là hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân tuyên truyền, phổ biến các tri thức pháp luật, các bộ luật, các văn bản pháp luật của Nhà nước, xây dựng ý thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, thói quen, hành vi chấp hành pháp luật cho nhân dân và các lực lượng vũ trang nhằm làm cho mỗi người nắm vững và biết phát huy quyền làm chủ của mình trong chấp hành luật pháp, giám sát hoạt động của Quốc hội, Chính phủ,
  15. 13 hệ thống chính quyền các cấp, các cơ quan thi hành pháp luật từ Trung ương đến cơ sở bao gồm cả lập pháp, hành pháp, tư pháp.” [69, tr.271] Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi tiếp cận GDPL theo nghĩa hẹp. Theo đó, GDPL được hiểu như sau: Giáo dục pháp luật là một quá trình có mục đích, có tổ chức; là sự phối hợp, phụ thuộc lẫn nhau giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục nhằm nâng cao nhận thức pháp luật; xây dựng niềm tin về pháp luật và rèn luyện thói quen hành vi pháp luật cho đối tượng giáo dục. Hoạt động GDPL là hoạt động có mục đích bao hàm những tác động mang tính chất tự giác của chủ thể GDPL lên đối tượng là các cá nhân, tổ chức cần được GDPL với các nội dung, nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Tính có mục đích trong hoạt động của chủ thể GDPL mang tính khách quan, thể hiện những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội về pháp luật, được chủ thể GDPL chuyển tải và biến nó thành nhu cầu, động cơ bên trong của đối tượng GDPL. Quá trình GDPL chỉ đạt được hiệu quả khi đối tượng GDPL thực sự tự giác biến những yêu cầu pháp luật khách quan thành nhu cầu nội tại của bản thân. Quá trình GDPL luôn luôn là hoạt động có tổ chức, có kế hoạch, tuân theo nội dung và chương trình nhất định, dựa trên các phương pháp giáo dục khoa học, hiện đại và các hình thức giáo dục phù hợp nhằm hiện thực hóa tối ưu mục đích GDPL đã định. Suy cho cùng, quá trình GDPL phải đạt được hiệu quả đặt ra. Hiệu quả của hoạt động GDPL phải được nhìn nhận, đánh giá qua những mục tiêu đạt được từ quá trình này. Dưới góc độ nhận thức, mục tiêu cần đạt được đó là sự tiếp thu, tích lũy những thông tin, tri thức về pháp luật. Dưới góc độ thái độ, tình cảm, mục tiêu cần đạt được là làm hình thành ở đối tượng được giáo dục sự tôn trọng pháp luật; sự phê phán, lên án các hành vi phạm pháp, phạm tội; sự công phẫn trước các tội ác dã man; niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Dưới góc độ hành vi, mục tiêu
  16. 14 cần đạt được là kỹ năng vận dụng tri thức, hiểu biết pháp luật để giải quyết công việc chuyên môn, các tình huống cụ thể trong giao tiếp; hành vi pháp luật tích cực, lối sống theo pháp luật... của đối tượng giáo dục. 1.1.2. Giáo dục pháp luật ở Trường Trung cấp Quân y 1 Cũng như các nhà trường và đơn vị trong Quân đội, hoạt động GDPL ở Trường TCQY1 là một bộ phận trong toàn bộ hoạt động GD - ĐT của Nhà trường, với mục tiêu nhằm nâng cao nhận thức về pháp luật, xây dựng niềm tin pháp luật, rèn luyện thói quen hành vi pháp luật cho đối tượng giáo dục của Nhà trường. Đối tượng GDPL ở Trường TCQY1 bao gồm đầy đủ các đối tượng như đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Chương trình phổ biến, GDPL từ năm 2003 đến năm 2007 và từ năm 2008 đến năm 2012 theo Quyết định số 13/2003/QĐ - TTg ngày 17/01/2003 và Quyết định số 37/2008/QĐ - TTg ngày 12/3/2008, gồm: cán bộ, giáo viên, nhân viên, chiến sỹ và các đối tượng học viên. Tuy nhiên, theo phạm vi nghiên cứu của đề tài, khái niệm hoạt động GDPL ở Trường TCQY1 chỉ đề cập đến GDPL cho đối tượng là học viên đào tạo trình độ trung cấp thuộc các chuyên ngành khác nhau của Nhà trường. Từ cách tiếp cận trong phạm vi này có thể hiểu GDPL ở Trường TCQY1 như sau: Giáo dục pháp luật ở Trường TCQY1 là một quá trình có mục đích, có tổ chức; là sự phối hợp, phụ thuộc lẫn nhau giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục (học viên) nhằm nâng cao nhận thức pháp luật; xây dựng niềm tin về pháp luật và rèn luyện thói quen hành vi pháp luật cho học viên. Mục tiêu đào tạo của Trường TCQY1 hiện nay là: Đào tạo những quân nhân, công nhân quốc phòng có đủ thời hạn phục vụ tại ngũ, tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, văn hoá và sức khoẻ theo quy định thành những y tá tuyến đại đội, y sĩ, dược tá tuyến tiểu đoàn, dược sĩ, điều dưỡng viên, kỹ thuật viên tuyến trung đoàn và tương đương trở lên có trình độ sơ cấp hoặc trung cấp về
  17. 15 y, dược; có đủ phẩm chất, năng lực hoàn thành chức trách, nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bộ đội, cứu chữa thương bệnh binh theo tuyến và tham gia khám chữa bệnh cho nhân dân theo mô hình kết hợp quân - dân y. Đào tạo những thanh niên có đủ tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, văn hoá và sức khoẻ theo quy định thành y tá, y sĩ, dược tá, dược sĩ, điều dưỡng viên, kỹ thuật viên y học có trình độ sơ cấp hoặc trung cấp về y, dược; có đủ phẩm chất, năng lực hoàn thành nhiệm vụ của nhân viên y tế tuyến cơ sở, góp phần cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Như vậy, học viên của Trường TCQY1 sau tốt nghiệp công tác ở trong cũng như ngoài Quân đội đều chủ yếu là tuyến cơ sở. Do đặc thù của hoạt động nghề nghiệp, các quân nhân và nhân viên y tế tuyến cơ sở vừa thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, kỹ thuật vừa là hạt nhân chính trị ở cơ sở trong tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, đồng thời tham gia giáo dục chiến sĩ trẻ và đồng bào khu vực đóng quân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của đơn vị, địa phương; phòng ngừa và đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật tại nơi công tác, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, địa bàn an toàn. Vì vậy, GDPL là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục để thực hiện mục tiêu GD - ĐT của Nhà trường. Mục đích của GDPL cho học viên ở Trường TCQY1 là nâng cao nhận thức về pháp luật, xây dựng niềm tin về pháp luật và rèn luyện thói quen hành vi pháp luật cho đội ngũ học viên đang học tập tại Nhà trường. Nâng cao nhận thức pháp luật là mục đích chủ yếu của GDPL cho học viên ở Trường TCQY1. Thông qua GDPL, học viên được mở rộng những tri thức phổ thông, lí luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật; một số kiến thức về pháp luật thực định liên quan đến đời sống, học tập, công tác hiện tại và sau này.
  18. 16 Cùng với nâng cao nhận thức pháp luật, GDPL cho học viên ở Trường TCQY1 nhằm hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp luật cho học viên. Niềm tin vào pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi và củng cố thêm nhận thức về pháp luật. Niềm tin đúng đắn, vững chắc vào pháp luật là cơ sở để hình thành động cơ của hành vi hợp pháp. Có lòng tin vào tính công bằng của pháp luật, học viên sẽ có hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện. GDPL ở Trường TCQY1 là điều kiện cần thiết để hình thành, bồi dưỡng cho học viên có được tình cảm công bằng trong pháp luật, giúp họ biết cách đánh giá các quy phạm pháp luật, quy phạm nội bộ, biết cách xác định, đánh giá các tiêu chuẩn về tính công bằng của pháp luật để tự đánh giá hành vi của mình, biết quan hệ với người khác, với chính mình bằng và thông qua các quy phạm pháp luật, quy phạm nội bộ. Rèn luyện thói quen hành vi pháp luật là mục đích chủ yếu của GDPL cho học viên. Kết quả cuối cùng của GDPL phải được thể hiện ở hành vi xử sự đúng hoặc phù hợp với pháp luật của đối tượng giáo dục. Giáo dục tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin pháp luật là tiền đề để hình thành động cơ, rèn luyện thói quen hành động đúng pháp luật cho học viên. Hành động đúng pháp luật của học viên thường biểu hiện qua các việc làm như: Luôn tuân thủ pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân đội và đơn vị; biết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, vận dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi bị xâm phạm… Như vậy, GDPL có mục đích về nhận thức, mục đích về cảm xúc và mục đích về hành vi. Những mục đích này tuy có vị trí vai trò riêng song đều nằm trong một chỉnh thể thống nhất, tác động qua lại với nhau và biểu hiện cho kết quả GDPL, từ nhận thức pháp luật học viên biết tôn trọng, tự giác chấp hành pháp luật và có thói quen hành động đúng pháp luật.
  19. 17 Chủ thể GDPL ở Trường TCQY1 gồm: Các giáo viên giảng dạy môn học Giáo dục Pháp luật và môn học Pháp luật, báo cáo viên pháp luật và tuyên truyền viên pháp luật (chuyên trách). Đội ngũ cán bộ quản lí các cấp; thành viên hội đồng phối hợp phổ biến, GDPL, hội đồng quân nhân, các tổ chức quần chúng và cá nhân cán bộ, giáo viên, học viên am hiểu về pháp luật (không chuyên trách). Ngoài ra, có các chủ thể khác ở ngoài Nhà trường như: Gia đình học viên, các tổ chức, cá nhân khác tại nơi thường trú, tạm trú của học viên và khi học viên đi thực tập, thực tế tại đơn vị quân đội, cơ sở y tế... Các chủ thể trên tuy có chức năng, nhiệm vụ và vị trí, vai trò khác nhau song đều có mối liên hệ mật thiết với nhau trong quá trình GDPL cho học viên ở Trường TCQY1. Nội dung GDPL cho học viên ở Trường TCQY1 thực hiện theo quy định của Luật Phổ biến, GDPL năm 2012: "... được xây dựng phù hợp với từng cấp học và trình độ đào tạo, phù hợp với mục tiêu giáo dục, ngành nghề đào tạo, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, phổ thông, cơ bản, thiết thực và có hệ thống. Nội dung GDPL trong chương trình giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học (chương trình chính khoá) trang bị kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, kiến thức pháp luật liên quan đến ngành, nghề đào tạo" [48, tr.24]. Trong chương trình chính khoá, nội dung GDPL cho học viên ở Nhà trường được quy định cụ thể trong môn học Giáo dục Pháp luật do Tổng cục Chính trị ban hành và môn học Pháp luật do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, bao gồm một số vấn đề cơ bản về Nhà nước; một số vấn đề cơ bản về pháp luật; thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý; ý thức pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; một số nội dung cơ bản của Luật Nhà nước, Hiến pháp 1992, Luật Hành chính, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Lao động; một số vấn đề về tố tụng hành chính, dân sự, hình sự; một số nội dung cơ bản về pháp luật hôn nhân và gia đình, về giáo dục, y tế...
  20. 18 Trong chương trình ngoại khoá, nội dung GDPL cho học viên ở Nhà trường được thực hiện theo kế hoạch, hướng dẫn của cơ quan quản lí cấp trên (GDPL theo chuyên đề) như các bộ luật, các luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, điều lệnh, điều lệ, quy chế, quy định của Nhà nước, Chính Phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo..; ngoài ra, lồng ghép trong các hoạt động của từng cơ quan, đơn vị và của Nhà trường, học viên còn được học tập, quán triệt các văn bản quy phạm nội bộ của Học viện Quân y và Trường TCQY1. Hình thức GDPL ở Trường TCQY1 gồm có các hình thức GDPL trong xã hội được Luật Phổ biến, GDPL năm 2012 quy định (thông qua tám hình thức); đồng thời sử dụng hình thức GDPL đặc thù của cơ sở giáo dục nghề nghiệp: “Giáo dục chính khoá thông qua việc lồng ghép trong... môn học pháp luật, pháp luật đại cương, pháp luật chuyên ngành tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp... Giáo dục ngoại khóa và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” [48, tr.25]. Đối với giáo dục chính khoá, Trường TCQY1 tổ chức lên lớp tập trung các bài học và thảo luận các chuyên đề trong Chương trình môn học Pháp luật theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (học viên hệ dân sự, cử tuyển); môn học Giáo dục Pháp luật theo qui định của Tổng cục Chính trị (học viên hệ quân sự). Đối với giáo dục ngoại khoá và ngoài giờ lên lớp, Trường TCQY1 tổ chức GDPL cho học viên thông qua các hình thức: Tổ chức học tập các chuyên đề theo kế hoạch, hướng dẫn của Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện Quân y; thực hiện "Ngày Pháp luật trong Quân đội"; tổ chức quản lí, khai thác, sử dụng Tủ sách Pháp luật ở đơn vị cơ sở; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật; thông qua truyền thanh nội bộ, internet, pa-nô, áp-phích,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2