Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ
lượt xem 86
download
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ
- NGUY?N TH? LAN H??NG LỜI CẢM ƠN QU?N L? HO?T ??NG T? H?C Trong suốt quá trình học tập tại trường Đại học Giáo dục C?A SINH VI?N KHOA NG?N NG? V? V?N HO? NGA ĐHQGHN và triển khai đề tài “Quản lý hoạt động tự học của sinh viên TR??NG ??I H?C NGO?I NG? ??I H?C QU?C GIA H? N?I khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ Đại học ??P ?NG Y?U C?U ??O T?O THEO H?C CH? T?N CH? Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ” tác giả luôn được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình và đầy trách nhiệm của của các thầy cô trong trường Đại học Giáo dục ĐHQGHN, các thầy cô trường Chuy?n ng?nh: Qu?n l? gi?o d?c Đại học NgoM? s?: ại ngữ ĐHQGHN, nh 601405ững người đã hết sức nhiệt tình giúp đỡ tác giả hoàn thành nhiệm vụ. Tác giả xin được dành những dòng chữ đầu tiên của luận văn này để bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã quan tâm, LU?N V?N TH?C S? QU?N L? GI?O D?C giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt là PGS.TS Đặng Quốc Bảo, người thầy đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình làm đề tài nghiên cứu này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do khả n ăng nghiên cứu của tác Ng??i h??ng d?n khoa h?c: PGS.TS ??NG QU?C B?O giả có hạn, kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học còn ít do đó luận văn không tránh khỏ i thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để luận văn H? N?I 2009 ngày càng hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 12 năm 2009 Tác giả luận văn H? N?i 2009 Nguyễn Thị Lan Hương 1
- 2
- DANH MỤC VIẾT TẮT Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH Cố vấn học tập CVHT Đại học Quốc gia Hà Nội ĐHQGHN Học sinh sinh viên HSSV Học sinh HS Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga Khoa NN&VH Nga Ký túc xá KTX Sinh viên SV Trung học phổ thông THPT Trường Đại học Ngoại ngữ Trường ĐHNN Xã hội chủ nghĩa XHCN 3
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2 5. Giả thuyết khoa học 3 6. Phạm vi đề tài nghiên cứu 3 7. Phương pháp nghiên cứu 3 8. Cấu trúc luận văn 3 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 5 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 5 1.1.1. Những quan điểm về tự học 5 1.1.2. Những quan điểm về việc dạy và học theo tín chỉ 7 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 9 1.2.1. Sinh viên 9 1.2.2. Quản lý, các chức năng quản lý 10 1.2.3. Dạy Học 14 1.2.4. Tự học 16 1.3. Dạy học theo tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự học 17 1.3.1. Học chế tín chỉ 17 1.3.2. Dạy học theo học chế tín chỉ 20 1.3.3. Dạy học theo học chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự 23 học 1.4. Quản lý tự học theo học chế tín chỉ 28 1.4.1. Vị trí, vai trò của công tác quản lý sinh viên trong các trường đại 28 học 1.4.2. Quản lý tự học – Các nội dung quản lý tự học 28 1.4.3. Các biện pháp quản lý tự học 32 Tiểu kết chương 1 33 Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC 34 4
- CỦA SINH VIÊN KHOA NN&VH NGA TRƯỜNG ĐHNN ĐHQGHN 2.1. Khái quát về trường ĐHNNĐHQGHN 34 2.1.1.Quá trình thành lập trường ĐHNNĐHQGHN 34 2.1.2. Mục tiêu chiến lược phát triển của Trường 34 2.1.3. Quy mô và chất lượng đào tạo của trường 36 2.1.4. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ 38 2.1.5. Đặc điểm của sinh viên 40 2.2. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa NN&VH 43 Nga trường ĐHNNĐHQGHN trước yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ 2.2.1. Đặc điểm của sinh viên và đặc điểm đào tạo của khoa NN&VH 43 Nga 2.2.2. Đội ngũ cán bộ và giảng viên khoa NN&VH Nga 46 2.2.3. Cơ sở vật chất của khoa NN&VH Nga 48 2.2.4. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa NN&VH 49 Nga 2.3. Thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh 54 viên khoa NN&VH Nga 2.3.1. Thực trạng về công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận 54 thức về vai trò tự học 2.3.2. Thực trạng về hoạt động giảng dạy của giảng viên trong 56 Khoa 2.3.3. Thực trạng hoạt động của đội ngũ cố vấn học tập 61 2.4. Đánh giá chung về thực trạng … 63 2.4.1. Những điểm mạnh 63 2.4.2. Những điểm yếu 63 Tiểu kết chương 2 65 Chương 3. NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC 66 CỦA SINH VIÊN KHOA NN&VH NGA TRƯỜNG ĐHNNĐHQGHN ĐÁP ỨNG YẾU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ 5
- 3.1. Nguyên tắc xác định các biện pháp 66 3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa 66 3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống 66 3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn 67 3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính chất lượng 67 3.2. Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa 67 NN&VH Nga trường ĐHNNĐHQGHN… 3.2.1. Biện pháp 1. Thay đổi nhận thức của giảng viên và sinh viên 67 trước yêu cầu dạy và học theo học chế tín chỉ lấy tự học làm cốt, tăng cường trao đổi, thảo luận và có chỉ đạo chặt chẽ 3.2.2. Biện pháp 2. Xây dựng hệ thống cố vấn học tập có chất 71 lượng hướng dẫn sinh viên tự học có hiệu quả 3.2.3. Biện pháp 3. Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên 75 thúc đẩy giảng viên cải tiến phương pháp giảng dạy giúp sinh viên tự học tốt 3.2.4. Biện pháp 4. Hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phù 79 hợp với yêu cầu đào tạo theo tín chỉ tạo điều kiện cho sinh viên tự học 3.2.5. Biện pháp 5. Phối kết hợp đồng bộ giữa các đơn vị chức 81 năng hướng tới hoạt động tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ 3.3. Mối liên quan của các biện pháp 84 3.4. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp 86 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 90 1. Kết luận 90 2. Khuyến nghị 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 PHỤ LỤC 6
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Nhân loại đang bước vào thế kỷ 21 với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ. Kinh tế tri thức đang ngày càng mở rộng, với quá trình toàn cầu hoá có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, từng cộng đồng, từng gia đình và cá nhân. Việt Nam chúng ta cũng đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, văn minh hiện đại và hội nhập quốc tế. Điều đó đặt ra nhiệm vụ cho ngành giáo dục đào tạo là phải “…đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê và ý chí vươn lên”. Tự học là một yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi công dân nói chung, thế hệ trẻ, sinh viên nói riêng. Tự học đã trở thành vấn đề cấp thiết đối với giáo dục và đào tạo nước ta. Hoạt động tự học có ý nghĩa quyết định biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Để hoạt động tự học của sinh viên đạt được những thành quả như mong đợi thì đổi mới công tác quản lý giáo dục được xem như giải pháp quan trọng. Chuyển đổi phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ tạo sự thay đổi lớn về phong cách, thói quen dạy học của cả thầy và trò. Đối với hình thức đào tạo này thì khối lượng giờ dạy trên lớp sẽ giảm đi, mà giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên sẽ tăng lên. Vì vậy việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định hiệu quả 7
- chất lượng đào tạo. Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga nói riêng và trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung, trong các hội thảo về nâng cao chất lượng học tập của sinh viên, hội nghị nghiên cứu khoa học cũng đã nhiều năm đề cập đến vấn đề tự học của sinh viên … và làm thế nào để kích thích sinh viên ngoại ngữ tích cực hơn nhằm nâng cao kết quả học tập. Đồng thời cũng đã có một số giải pháp như: đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, tính sáng tạo, đặc biệt là công tác quản lý, tổ chức của trường đối với hoạt động tự học song các biện pháp đó chưa được chú ý và quan tâm đúng mức nên kết quả vẫn chưa được như mong muốn. Do vậy, ngoài việc đổi mới phương pháp dạy học thì việc cải tiến một số biện pháp trong công tác quản lý để nâng cao hoạt động tự học cho sinh viên của trường là một vấn đề cấp thiết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội đang chuyển đổi sang đào tạo theo học chế tín chỉ thì vấn đề tự học càng trở nên là vấn đề đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy tôi đã chọn hướng nghiên cứu với tên đề tài: “Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ ĐHQGHN đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. 8
- 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự học của sinh viên các trường đại học 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ ĐHQGHN 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động tự học của sinh viên. Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. 5. Giả thuyết khoa học Nếu tìm được biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội phù hợp, đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ thì chất lượng hoạt động học tập của sinh viên sẽ được nâng cao, đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường trong giai đoạn hiện nay. 6. Phạm vi đề tài nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga Trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội từ năm học 20062007 đến nay. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập, nghiên cứu, phân tích xử lý tài liệu. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: 9
- Phương pháp quan sát Phương pháp điều tra bảng hỏi Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Phương pháp chuyên gia. 7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ: Sử dụng công cụ thống kê để xử lý số liệu. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn trình bày trong 3 chương Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài. Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội theo học chế tín chỉ. Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. 10
- Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Những quan điểm về tự học: Trong lịch sử phát triển giáo dục, tự học là vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ lâu cả về lý luận và thực tiễn, nhằm phát huy vai trò của người học và nâng cao chất lượng của hoạt động tự học. Song từng giai đoạn lịch sử nhất định, ở mỗi quốc gia tự học được nghiên cứu đề cập dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Khổng Tử (551479 trước công nguyên), nhà tư tưởng nổi tiếng và nhà sư phạm vĩ đại của Trung Quốc, về phương pháp giáo dục ông đã đề cao việc tự học, tự luyện, tu nhân, trú trọng phát huy mặt tích cực, sáng tạo, năng lực nội sinh. Đề cập đến việc học tập, Khổng Tử xác định “Học nhi thời tập chí”, việc học tập theo ông phải gắn liền với thực hành để thông suốt những điều đã học. Ông đề cập và nhấn mạnh mối quan hệ tác động giữa việc học tập và tư duy trong học tập, ông cho đó là hai yếu tố ràng buộc không thể thiếu của một vấn đề: “Học nhi bất tư vong, tư nhi bất học tất đãi”. Ông cho rằng học mà không nghĩ thì mờ tối, nghĩ mà không học thì khó nhọc, mất công. Do vậy, với ông việc học tập và tự học là cần thiết và gắn bó mật thiết với nhau. Socrat (469309 trước công nguyên) đã từng nêu khẩu hiệu “Anh hãy tự biết lấy anh” qua đó, mong muốn học trò phát hiện ra “chân lý” bằng cách đặt câu hỏi để dần dần tìm ra kết luận. Raja Roy Singh, nhà giáo dục Ấn Độ trong tác phẩm “Giáo dục cho thế kỷ XXI, những triển vọng của Châu Á Thái Bình Dương” đã đưa ra quan điểm về quá trình “Nhận biết dạy học”, và ông chủ trương rằng người học phải là người tham gia tích cực vào quá trình “Nhận biết dạy 11
- học”. Theo ông “Sự học tập do người học chủ đạo” Một trong những đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội học tập là tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “việc học không bao giờ là muộn” (Ngạn ngữ), hay “Bác học không có nghĩa là ngừng học” (Đácuyn). Quan niệm tự học và học tập suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa khoá mở cửa đi vào thế kỉ 21 thế giới của nền kinh tế tri thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm gương sáng ngời về ý chí quyết tâm trong tự học, tự rèn luyện. Người luôn cho rằng học tập giúp con người tiến bộ, nâng cao phẩm chất, mở rộng hiểu biết, làm thay đổi hiệu quả lao động. Người đã động viên toàn dân: “Phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập là nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành cho được do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập” Khi bàn về vấn đề tự học, giáo sư Tạ Quang Bửu cũng đã viết “Tự học là khởi nguồn của phong cách tự đào tạo đồng thời là cái nôi nuôi dưỡng sự sáng tạo. Ai giỏi tự học ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, người đó sẽ tiến xa hơn”. Tự học tự đào tạo là một vấn đề được nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thức VIII và Trung ương II (khoá VIII) đề cập đến rất đậm nét: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của học sinh” (NQ ĐH VIII), “bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, phát triển mạnh phong trào tự học tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân…” Trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nhất là khi nước ta chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), đã đặt ra những yêu cầu mới cho giáo dục và đào tạo. Đòi hỏi GDĐT phải tự đổi mới. Một trong những nội dung đổi 12
- mới giáo dục được đề cập nhiều hơn cả là đổi mới phương pháp dạy học, nhất là phương pháp học tập tự học . Trong khoa học, đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về vấn đề tự học như: “Quá trình dạy tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, giáo sư Vũ Văn Tảo; “Luận bàn về kinh nghiệm tự học” của giáo s ư Nguyễn Cảnh Toàn, “Tự học chìa khoá vàng của giáo dục” của giáo sư Phan Trọng Luận, và nhiều công trình nghiên cứu về tự học của các giáo sư, tiến sĩ, các nhà nghiên cứu giáo dục như: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức…với mục đích nâng cao hiệu quả tự học của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. 1.1.2. Những quan điểm dạy và học theo tín chỉ: Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh viên có thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại học phải nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc sống, vào năm 1982 Viện Đại học Harvard đã quyết định thay thế hệ thống chương trình đào tạo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống chương trình mềm dẻo cấu thành bởi các môđun mà mỗi sinh viên có thể lựa chọn một cách rộng rãi. Có thể xem đó là điểm mốc khai sinh học chế tín chỉ. Đến đầu thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ được áp dụng rộng rãi hầu như trong mọi trường đại học Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước lần lượt áp dụng hệ thống tín chỉ trong toàn bộ hoặc một bộ phận của tr ường đại học của mình: các nước Bắc Mỹ, Nhật Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Ấn Độ… Tại Trung Quốc từ cuối thập kỷ 80 đến nay hệ thống tín chỉ cũng lần lượt được áp dụng ở nhiều trường đại học. Vào năm 1999, 29 Bộ trưởng đặc trách giáo dục đại học ở các nước 13
- trong Liên minh Châu Âu đã ký Tuyên ngônBoglona nhằm hình thành Không gian Giáo dục đại học Châu Âu thống nhất vào năm 2010, một trong các nội dung quan trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế tín chỉ trong toàn hệ thống giáo dục đại học để tạo thuận lợi cho việc cơ động hoá, liên thông hoạt động học tập của sinh viên trong khu vực Châu Âu và trên thế giới. Trước năm 1975, một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại Miền Nam Việt Nam đã áp dụng tín chỉ: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Thủ Đức… Trong quá trình “Đổi mới” ở nước ta từ cuối 1986 chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị tr ường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, GDĐH ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng đại học tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới GDĐH, trong đó có chủ trương triển khai trong các trường đại học quy trình đào tạo 2 giai đoạn và môđun hoá kiến thức. Theo chủ trương đó, học chế “học phần” đã ra đời và triển khai trong toàn bộ hệ thống các tr ường đại học và cao đẳng nước ta từ năm 1988 đến nay. Học chế học phần được xây dựng trên tinh thần tích luỹ dần kiến thức theo các môđun (môn học) trong quá trình học tập, tức là theo ý tưởng học chế tín chỉ xuất phát từ Mỹ. Tuy nhiên, về một số phương diện, học chế học phần chưa thật sự mềm dẻo như học chế tín chỉ của Mỹ, do đó nó được gọi là “sự kết hợp niên chế với tín chỉ”, tuy nhiên những khó khăn về đời sống xã hội nói chung và trong các trường đại học nói riêng lúc đó chưa cho phép đặt vấn đề thực hiện học chế môđun hoá triệt để. Vào năm 1993, khi những khó khăn chung của đất nước và của các trường đại học có phần dịu bớt, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tiến 14
- thêm một bước, thực hiện học chế học phần triệt để hơn, theo mô hình học chế tín chỉ của Mỹ. Trường Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh là nơi đầu tiên áp dụng học chế tín chỉ từ năm 1993, rồi các trường Đại học Đà Lạt, Đại học Cần Thơ, Đại học Thuỷ Sản Nha Trang… và một số trường đại học khác áp dụng từ năm 1994 và các năm sau đó. Trường Đại học Ngoại ngữ ĐHQGHN bắt đầu chuyển đổi sang đào tạo theo học chế tín chỉ từ năm học 20062007. Mặc dù trong các hội thảo về nâng cao chất lượng học tập của sinh viên, hội nghị nghiên cứu khoa học cũng đã đề cập nhiều đến vấn đề tự học của sinh viên nhưng nghiên cứu về hoạt động tự học theo học chế tín chỉ thì vẫn còn mới lạ, nhất là đối với sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga, nhiều sinh viên ngay từ khi đăng ký dự thi vào khoa đó không phải vì học giỏi ngôn ngữ đó, cũng không phải vì niềm say mê mà chủ yếu là giải pháp tình thế dẫn đến kết quả học tập của các em không được cao. Chính vì vậy, là một cán bộ quản lý sinh viên của khoa, tác giả đi sâu vào việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ ĐHQGHN góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên khoa NN&VH Nga nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục của Nhà trường trong xu hướng đào tạo theo học chế tín chỉ. 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1. Sinh viên: Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “student” có nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó được dùng tương đương với từ “student” trong tiếng Anh, “Etudiant” trong tiếng Pháp và “Cmgenm” trong tiếng Nga để chỉ những 15
- người đang theo học ở bậc đại học, được phân biệt với học sinh đang học ở phổ thông. Theo X.L.Rubinsen quan niệm: “sinh viên” là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng để chuẩn bị cho hoạt động lao động và sản xuất vật chất cho xã hội. Nhóm sinh viên rất cơ động được tổ chức theo một mục đích xã hội nhất định nhằm chuẩn bị thực hiện vai trò xã hội với trình độ nghề nghiệp cao trong lĩnh vực xã hội, sinh viên là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ tri thức được đào tạo thành người lao động có tay nghề cao tham gia hoạt động tích cực. Quy chế công tác HSSV trong các trường đạo tạo của Bộ Giáo dục và đào tạo thì “sinh viên” là người đang học hệ Đại học và Cao đẳng. Như thế, nếu không xét về hình thức gọi tên thì sự ra đời của thuật ngữ “sinh viên” đã gắn liền với lịch sử ra đời của trường đại học (hơn 700 năm đối với SV thế giới và gần 300 năm đối với sinh viên Việt nam). Theo cách phổ biến hiện nay trong xã hội thì khái niệm “sinh viên” được Nhà nước thể chế hoá, pháp lý hoá thuật ngữ này bằng luật định. Trong Luật giáo dục đã thống nhất cách gọi đối với sinh viên như sau: Sinh viên là người đang học tại các trường cao đẳng, trường đại học [3,tr.73]. Như vậy, tất cả những người đang học ở bậc cao đẳng và đại học đều được gọi là sinh viên. Ngày nay, “học, học nữa, học mãi” (Lênin) là khẩu hiệu của toàn xã hội và học tập là công việc suốt đời. Các trường cao đẳng và đại học mở rộng cửa cho tất cả những ai có nguyện vọng và điều kiện không phân biệt lứa tuổi, giới tính, giàu nghèo… đều có thể học bằng nhiều con đường, hình thức khác nhau: chuyên tu, tại chức, văn bằng 2… Do đó, với khái 16
- niệm SV như trên thì ngoại diên của nó rất rộng. Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài này chỉ nghiên cứu với đối tượng là sinh viên hệ chính quy thì có thể thu hẹp nội hàm của khái niệm này như sau: Đó là những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông Họ đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh đại học và đỗ vào trường Họ thuộc nhóm thanh niên nam, nữ từ 17 đến 25 tuổi Họ chưa có nghề nghiệp, việc làm xác định do đó còn lệ thuộc gia đình về kinh tế Họ là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên xuất thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn để bước vào một nhóm xã hội mới là tầng lớp tri thức trẻ. 1.2.2. Quản lý, các chức năng quản lý 1.2.2.1. Quản lý: Thuật ngữ “quản lý” (từ Hán Việt) gồm hai quá trình tích nhau. Quá trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”. Quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống (tổ chức) vào thế “phát triển”. Nếu chỉ “quản” thì tổ chức dễ trì trệ, nếu chỉ “lý” thì tổ chức phát triển không bền vững. Do đó trong “quản” phải có “lý” và ngược lại để làm cho hệ thống ở trạng thái cân bằng động, vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong môi trường tương tác giữa các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài tổ chức [9, tr.1]. Quản lý là sự điều khiển một hệ thống hoạt động xã hội ở tầm vĩ mô cũng như vi mô vì vậy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, ở mỗi cách tiếp cận có những định nghĩa khác nhau. 17
- K.Marx đã từng nói đến sự cần thiết của quản lý: “Bất kỳ một lao động xã hội nào được tiến hành trên một quy mô tương đối lớn cũng đều cần có sự quản lý, nó xác lập mối quan hệ hài hoà giữa các công việc riêng rẽ và thực tiễn những chức năng chung nhất xuất phát từ sự vận động của toàn cơ cấu sản xuất khác với vận động của từng bộ phận độc lập trong nền sản xuất ấy. Một nghệ sĩ vĩ cầm tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng” [4, tr.480]. Còn theo H.Koontz “ Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của tổ chức. Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi tr ường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [12, tr.33]. F.W.Taylor (18561915), người được coi là cha đẻ của thuyết quản lý khoa học đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lý là: “Mọi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ”. Theo ông: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và cái đó làm thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”. Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm cho tổ chức vận hành và đạt mục đích của tổ chức” [19, tr.1]. Tác giả Nguyễn Minh Đạo cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra 18
- môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”[20, tr.7]. Tóm lại, hoạt động quản lý luôn tồn tại hai thành tố đó là chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý có thể là cá nhân hay một nhóm người có chức năng quản lý, điều khiển tổ chức để tổ chức vận hành và đạt được mục tiêu. Khách thể quản lý là những người chịu sự tác động chỉ đạo của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung. 1.2.2.2. Chức năng quản lý: Chức năng của quản lý là tập hợp các nhiệm vụ mà chủ thể quản lý phải thực hiện để đạt mục đích, mục tiêu quản lý đề ra. Có nhiều cách phân chia về chức năng quản lý nhưng cơ bản thống nhất ở bốn chức năng cơ bản: Chức năng lập kế hoạch: Lập kế hoạch là quá trình ấn định những nhiệm vụ, những mục tiêu và phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đó. Lập kế hoạch là phương pháp tiếp cận hợp lý để đạt những mục tiêu định trước, là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý vì nó gắn liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai. Kế hoạch là văn bản trong đó xác định mục tiêu, mục đích của một tổ chức và những con đường, các biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Chức năng kế hoạch hoá có 3 nội dung cơ bản là: + Xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức; + Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu này. + Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu, xác định các hoạt động ưu tiên. Chức năng tổ chức: 19
- Tổ chức thực hiện kế hoạch là quá trình sắp xếp và phân phối các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, là sự sắp đặt một cách khoa học cho con người, công việc một cách hợp lý, là sự phối hợp các tác động bộ phận tạo nên một tác động tích hợp mà hiệu quả của nó lớn hơn nhiều so với tổng số các hiệu quả của các tác động thành phần. Công tác tổ chức bao gồm: + Xác định cấu trúc bộ máy + Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo cấu trúc bộ máy. + Xác lập cơ chế phối hợp giữa các bộ phận, các thành viên trong tổ chức Chức năng chỉ đạo: Chỉ đạo là quá trình điều khiển, điều hành, tác động, huy động và giúp đỡ con người, tổ chức trong hệ thống thực hiện nhiệm vụ. Chỉ đạo là quá trình tác động, liên kết các thành viên trong tổ chức, tập hợp, động viên họ hoàn thành những công việc nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Nội dung của chức năng chỉ đạo bao gồm: + Chỉ huy, ra lệnh. + Động viên, khen thưởng + Theo dõi, giám sát + Uốn nắn, sửa chữa, chỉnh lý Chức năng kiểm tra: Để hoàn thành chức năng lãnh đạo, người lãnh đạo hệ thống cần thiết và phải thực hiện chức năng kiểm tra của quản lý. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Kiểm tra theo lý thuyết hệ thống chính là thiết lập mối quan hệ 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 301 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 230 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 127 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 100 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 19 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 15 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn