Luận văn Thạc sĩ Quản lý khoa học và công nghệ: Xây dựng chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao trong điều kiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam
lượt xem 7
download
Mục tiêu nghiên cứu: Hình thành chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam trong điều kiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Mời các
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý khoa học và công nghệ: Xây dựng chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao trong điều kiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _________________________________ ĐỖ THỊ LÂM THANH XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH THU HÚT NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CHẤT LƢỢNG CAO TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Hà Nội, 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _________________________________ ĐỖ THỊ LÂM THANH XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH THU HÚT NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CHẤT LƢỢNG CAO TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM TẠI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Mã số: 60.34.04.12 Hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐÀO THANH TRƢỜNG GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN THƢ KÝ HỘI ĐỒNG CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG TS. Đào Thanh Trƣờng TS. Nguyễn Mạnh Dũng PGS.TS. Phạm Huy Tiến Hà Nội, 2015
- MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN …………………………………………………………….. 3 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ……………………………………… 4 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ……………………………………….. 5 PHẦN MỞ ĐẦU ……………………………………………………….…. 6 1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………. 6 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ……………………………………... 8 3. Mục tiêu nghiên cứu …………………………………………………... 20 4. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………. 20 5. Mẫu khảo sát …………………………………………………………... 20 6. Câu hỏi nghiên cứu ……………………………………………………. 20 7. Giả thuyết nghiên cứu …………………………………………………. 20 8. Phƣơng pháp nghiên cứu ……………………………………………… 21 9. Kết cấu của Luận văn …………………………………………………. 22 CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT NHÂN LỰC KH&CN CHẤT LƢỢNG CAO ……………………………………………….. 23 1.1. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận ………………………………… 23 1.2. Một số hƣớng tiếp cận nghiên cứu lý thuyết của đề tài ………….... 24 1.2.1. Quản lý nhân lực và yếu tố con người …………………………. 28 1.2.2. Thuyết X và thuyết Y của Douglass Mr.Gregor ………………... 29 1.2.3. Quan điểm chiết trung ………………………………………….. 31 1.3. Các hệ khái niệm công cụ …………………………………………… 38 1.3.1. Chính sách ……………………………………………………… 38 1.3.2. Nhân lực ………………………………………………………... 39 1.3.3. Nhân lực khoa học và công nghệ ………………………………. 40 1.3.4. Thu hút nhân lực KH&CN ……………………………………... 43 1.3.5. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm ……………………………………. 48 * Kết luận Chƣơng I ……………………………………………………... 50 CHƢƠNG II. HIỆN TRẠNG CHÍNH SÁCH THU HÚT NHÂN LỰC KH&CN CHẤT LƢỢNG CAO TẠI VIỆN HÀN LÂM KH&CN VIỆT NAM …………………………………………………………... 51 2.1. Tổng quan về Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam …………………. 51 2.1.1. Về chức năng, nhiệm vụ ………………………………………... 51 2.1.2. Về cơ cấu tổ chức……………………………………………….. 53 1
- 2.1.3. Vài nét về nhân lực KH&CN tại Viện Hàn lâm KH&CN VN ….. 58 2.2. Hiện trạng chính sách thu hút nhân lực KH&CN chất lƣợng cao ở Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam ……………………………………… 60 2.2.1. Các văn bản và tài liệu có liên quan …………………………… 60 2.2.2. Hiện trạng hoạt động KH&CN tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam …………………………………………………………………… 64 2.2.3. Những tồn tại của chính sách thu hút nhân lực KH&CN tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt nam …………………………………………… 73 2.3. Đánh giá, phân tích chính sách thu hút nhân lực KH&CN chất lƣợng cao tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam …………………... 74 * Kết luận Chƣơng II ……………………………………………………. 78 CHƢƠNG III. CHÍNH SÁCH THU HÚT NGUỒN NHÂN LỰC KH&CN CHẤT LƢỢNG CAO TẠI VIỆN HÀN LÂM KH&CN VIỆT NAM …………………………………………………………... 79 3.1. Cơ sở pháp lý để xây dựng chính sách ……………………...……… 79 3.2. Xây dựng chính sách thu hút nhân lực KH&CN chất lƣợng cao tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam …………………………………… 82 3.2.1. Triết lý của chính sách …………………………………………. 82 3.2.2. Mục tiêu của chính sách ………………………………………... 82 3.2.3. Kịch bản hoạt động của chính sách ……………………………. 82 3.3. Điều kiện cần và đủ để thực hiện chính sách thu hút nhân lực KH&CN chất lƣợng cao tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam ………. 90 3.3.1. Điều kiện cần …………………………………………………… 90 3.3.2. Điều kiện đủ ……………………………………………………. 92 * Kết luận Chƣơng III …………………………………………………… 93 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ …………………………………………… 94 Kết luận ………………………………………………………………. 94 Kiến nghị ……………………………………………………………... 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………….. 97 2
- LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn TS.Đào Thanh Trường, Chủ nhiệm Khoa Khoa học quản lý, Thầy đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin cảm ơn các thầy cô trong Khoa Khoa học quản lý, khoa Quản lý Khoa học và Công nghệ và các thầy cô trong Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành chương trình học cao học và luận văn này! Tôi xin cảm ơn PGS.TS.Phạm Huy Tiến, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã chia sẻ kinh nghiệm, gợi ý đề tài luận văn và đóng góp cho tôi nhiều ý kiến giúp tôi hoàn thành luận văn! Nhân dịp này tôi cũng xin cảm ơn các bạn đồng nghiệp hiện đang công tác tại viện Công nghệ môi trường, các Viện nghiên cứu chuyên ngành và các Ban chức năng thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã động viên, giúp đỡ tôi trong khóa học cũng như trong quá trình hoàn thiện luận văn! Trong quá trình thực hiện luận văn do hạn chế về thời gian và năng lực của bản thân cho nên luận văn này chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Tôi mong nhận được sự thông cảm và chia sẻ . Tác giả luận văn Đỗ Thị Lâm Thanh 3
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT KÝ HIỆU Ý NGHĨA KH&CN Khoa học và Công nghệ NCCB Nghiên cứu cơ bản DĐXH Di động xã hội NCKH Nghiên cứu khoa học R&D Nghiên cứu và triển khai Tổ chức hợp tác & phát triển kinh tế (Oganiation OECD for Economic Co-operation and Development). TKCN Triển khai công nghệ Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên UNESCO Hiệp Quốc (United Nations Educational, Scientific and Cuntural Organisation). NCV Nghiên cứu viên NCVC Nghiên cứu viên chính 4
- DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Trang Bảng 1.1. Thuyết X và thuyết Y của Douglass Mc Gregor 31 Hình 1.1. Những bậc phát triển của quản lý nhân lực 32 Hình 1.2. Mô hình quản lý nhân lực của Martin Hilb 34 Hình 1.3. Mô hình liên kết 35 Hình 1.4. Hình khối quản trị nhân sự 37 Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức của Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam 56 Hình 2.2. Sơ đồ tổ chức của các đơn vị nghiên cứu chuyên ngành 57 thuộc Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam Bảng 2.1. Nhân lực phân theo trình độ tại Viện Hàn lâm KH&CN VN 58 Hình 2.3. Phân bố lực lượng cán bộ KHCN của Viện Hàn lâm 58 Hình 2.4. Phân bố lực lượng cán bộ KH&CN chất lượng cao, giai 66 đoạn 2010-2014 Bảng 2.2. Số lượng NCS và học viên cao học, giai đoạn 2010-2014 66 Hình 2.5. Số lượng NCS và học viên cao học, giai đoạn 2010-2014 67 Bảng 2.3. Tổng hợp số lượng cán bộ nghiên cứu trẻ của các đơn vị 67 trực thuộc Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam năm 2014 Bảng 2.4. Tổng hợp số lượng và kinh phí thực hiện đề tài độc lập 70 trẻ cấp Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam Bảng 2.5. Tổng hợp số lượng các công trình công bố khoa học, 72 sáng chế, giải pháp hữu ích, giai đoạn 2010-2014 5
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu Trong mọi thời đại nguồn lực con người luôn luôn được coi là nguồn tài nguyên quý giá. Từ đầu thế kỷ 15,Tiến sĩ Thân Nhân Trung đã tổng kết thành một triết lý “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” và ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, nhân lực khoa học và công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định không chỉ đối với việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế-xã hội trung và dài hạn mà còn trực tiếp góp phần thay đổi lực lượng sản xuất ngay trong từng cơ sở. Trên bình diện quốc gia, nguồn “vốn nhân lực“ (Human capital) đóng vai trò quyết định thắng lợi trong sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, việc thiếu đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (KH&CN) giỏi, chất lượng cao còn trở thành lực cản đối với tiến trình đi tới những mục tiêu tăng trưởng kinh tế và bền vững. Nhận thức rõ tầm quan trọng của khoa học và công nghệ và cùng với việc tiếp tục khẳng định KH&CN là quốc sách hàng đầu, Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 6 khóa XI đã nhận định “Nhân lực KH&CN là tài sản vô giá của đất nước; tri thức KHCN là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế tri thức”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 đã đề ra mục tiêu: “Hình thành đồng bộ đội ngũ cán bộ KH&CN có trình độ cao, tâm huyết, trung thực, tận tụy. Phát triển các tổ chức, tập thể KH&CN mạnh, các nhà khoa học đầu ngành. Số cán bộ KH&CN nghiên cứu đạt mức 11 người/1 vạn dân; tăng nhanh số lượng các công trình công bố quốc tế và số lượng các sáng chế được bảo hộ trong nước và ở nước ngoài”. Để đạt được mục tiêu trên, giải pháp đầu tiên cần: “Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ KHCN; tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để đội ngũ cán bộ KHCN phát triển tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình” 6
- Lý thuyết và thực tiễn phát triển ở tất cả các quốc gia trên thế giới cho thấy, nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tích lũy vốn vật chất. Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế trong giai đoạn sau này sẽ chủ yếu dựa trên cải tiến công nghệ và phát triển vốn con người hay nhân lực, đặc biệt là nhân lực cho phát triển KH&CN. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, khi mà sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, nguồn nhân lực đóng vai trò ngày càng quan trọng. Việt Nam đứng trước đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên lao động giá rẻ và nhờ cậy vào tài nguyên, môi trường, sáng tạo sang lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con người nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, mặc dù các Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật luôn đề cao vai trò của nhân tài trong khoa học nhưng trên thực tế hầu như chưa có chính sách nào cụ thể để thực sự trọng dụng, sử dụng và tôn vinh cán bộ khoa học. Đã đến lúc phải thay đổi tư duy về sử dụng, chính sách đãi ngộ và trọng dụng cán bộ KH&CN, phải coi đây là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết kịp thời để giải quyết tình trạng “chảy chất xám” đang gia tăng trong các tổ chức khoa học và công nghệ. Mặt khác, chính sách tiền lương cho người làm khoa học và công nghệ chưa thỏa đáng. Có thể nói người làm công tác khoa học và công nghệ ở Việt Nam đang hưởng một chế độ tiền lương thấp nhất trong hệ thống thang bảng lương của công chức, viên chức nhà nước. Điều này là nguyên nhân quan trọng làm cho hiện tượng “chảy chất xám” trong các tổ chức KH&CN gia tăng. Không nằm ngoài xu thế hiện nay, tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, việc xây dựng chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao cũng đang là vấn đề cấp thiết. Hàng năm số lượng cán bộ KH&CN đầu ngành, có trình độ chuyên môn cao đang ít dần và ngày càng suy giảm do hết tuổi lao động và sức khỏe không đảm bảo, đặc biệt thiếu cán bộ 7
- KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao. Trong khi đó, hàng năm số lượng cán bộ trẻ có trình độ cao tốt nghiệp loại giỏi ở trong và ngoài nước về làm việc tại Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam thì rất ít do họ không được tạo động lực và đủ niềm say mê với hoạt động nghiên cứu khoa học, không đủ điều kiện để phấn đấu theo đuổi và gắn bó với sự nghiệp khoa học lâu dài. Vậy câu hỏi: làm thế nào để xây dựng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN mới, lĩnh vực KH&CN tiên tiến, lĩnh vực KH&CN ưu tiên và xây dựng được những tổ chức KH&CN đạt trình độ quốc tế, thì việc xây dựng chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao trong điều kiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam là hết sức cần thiết. Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi cách trả lương cào bằng như hiện nay sang trả lương theo nhu cầu công việc, trả lương theo nhiệm vụ để tạo động lực và tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để các nhà KH&CN phát triển tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với đúng giá trị lao động sáng tạo của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Hiện nay, các quốc gia đều có sự nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong khoa học và công nghệ (KH&CN). Được coi là nguồn lực then chốt nhất trong các nguồn lực, nguồn nhân lực KH&CN sẽ tạo ra sự đổi mới mang tính cách mạng, thúc đẩy truyền bá tri thức về KH&CN, là động lực cho áp dụng tiến bộ vào sản xuất dựa trên nền tảng công nghệ cao. Bên cạnh đó, toàn cầu hoá là quá trình hội nhập của các quốc gia trên thế giới thông qua thương mại, các dòng vốn, việc phổ biến thông tin, di chuyển nhân lực, liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp và các tổ chức. Sự di chuyển của nhân lực, hàng hoá, dịch vụ và các ý tưởng đã vượt ra khỏi biên giới các quốc gia trên một quy mô lớn. Tác động của KH&CN và cách thức mà KH&CN đóng góp vào kinh tế của các quốc gia hiện nay cũng như trong tương lai là vấn đề cần được ghi nhận. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng cùng với sự chuyển hướng đến xây dựng một kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, nhu cầu về nguồn nhân lực KH&CN cũng ngày càng gia tăng. Ở tất cả các quốc gia, KH&CN nói chung, nhân lực KH&CN 8
- nói riêng, đặc biệt là chính sách của Chính phủ trong lĩnh vực này là một nội dung không thể thiếu trong các nghiên cứu, phân tích và đánh giá ở các cấp độ khác nhau của các chuyên gia, các tổ chức và cá nhân. Con người là nhân tố trung tâm của sự phát triển, đồng thời nằm trong mối tương tác với các nhân tố khác thuộc đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của một quốc gia, chính sách nhân lực KH&CN phải có những thay đổi để đáp ứng yêu cầu của các bước phát triển mới. Với xu thế phát triển dựa vào sự tiến bộ về KH&CN, lấy công nghệ làm động lực tăng trưởng, nhân lực KH&CN lại càng đóng vai trò quan trọng hơn nữa. Các phân tích về nguồn nhân lực sẽ giúp cải thiện các đề xuất và ban hành chính sách của Chính phủ, đồng thời là tiền đề và nhân tố quan trọng cho các quá trình phát triển tiềm lực KH&CN và quá trình đổi mới của quốc gia. Thực tế rất phong phú, đa dạng, có thể nói, có những kinh nghiệm hay của quốc gia này nhưng không thể lặp lại nguyên dạng cho một quốc gia khác, vì điều kiện kinh tế-xã hội, văn hoá khác nhau. Tuy nhiên bài học thành công hay thất bại cũng như cách giải quyết vấn đề lại rất bổ ích cho chúng ta về phương pháp luận cũng như cách tư duy trong việc nghiên cứu và đề xuất chính sách. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả trình bày những nghiên cứu về chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ của các nước Trung Quốc, Thái Lan và Singapore; đây là những kinh nghiệm có thể tham khảo trong việc hoạch định và thực thi một số chính sách thu hút nhân lực KH&CN trong tổ chức khoa học và công nghệ ở nước ta. Chính sách thu hút nhân lực KH&CN của Trung Quốc Thiết lập hệ thống thi tuyển vị trí làm việc Vị trí làm việc của cán bộ KH&CN được xác định bởi cấu trúc hợp lý và tỷ lệ thích hợp của đội ngũ cán bộ trong nhiệm sở với các loại hình cán bộ có trình độ cao cấp, trung cấp và sơ cấp. Số vị trí làm việc cũng như yêu cầu về trách nhiệm, trình độ, nhiệm kỳ…được xác định trước. Mỗi cán bộ KH&CN muốn chiếm được một chỗ cần phải là người chiến thắng trong kỳ thi tuyển. Để cho khách quan, lãnh đạo hành chính quyết định một hội đồng tuyển chọn, công 9
- bố trước các yêu cầu, chức trách, trình độ đòi hỏi, nhiệm kỳ và mức lương thích hợp. Hình thức thi tuyển hoặc thử thách cũng được áp dụng trong đánh giá cán bộ KH&CN. Kết quả của nó liên quan trực tiếp đến việc tăng lương, thưởng, phạt, kết thúc hoặc kéo dài hợp đồng…Hệ thống quản lý mới này được áp dụng ở Trung Quốc từ năm 1984 dưới dạng thử nghiệm. Với kết quả và kinh nghiệm thu được, họ ngày càng mở rộng hình thức này, áp dụng cho rất nhiều lĩnh vực trong đó có hệ thống nghiên cứu khoa học. Hình thức quản lý mới đang phát huy cao độ vai trò, trách nhịêm và khả năng cuả đội ngũ cán bộ nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển của KH&CN, quá trình tăng trưởng kinh tế và công cuộc hiện đại hóa đất nước. Chính sách tiền lương Chính phủ Trung Quốc qui định hệ số chênh lệch giữa lương khởi điểm của cử nhân trong cơ quan NC-TK và lương tối thiểu trong nền kinh tế là 2,7. Hệ số này không cao, ở mức trung bình khá so với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, trong thực tế có sự khuyến khích đáng lưu ý: Khuyến khích tăng thu nhập, tiền thưởng bằng hoạt động KH&CN. Cho phép các nhà khoa học và kỹ sư được dành một phần thời gian làm việc chính ngạch để tham gia các hoạt động khác có liên quan đến phát triển KH&CN, dự án KHCN. Các cơ quan kinh tế (Nhà nước, không của Nhà nước) được quyền ký kết hợp đồng lao động với mức lương không hạn chế. Đối với người giỏi, mức lương có thể gấp mười lần so với khi làm việc cho Nhà nước. Đây là cơ chế linh hoạt về tuyển dụng, tiền lương thu hút nhân lực vào dự án. Chính sách cho phép các nhà khoa học được dùng một phần thời gian làm việc chính ngạch để tham gia các hoạt động khác có liên quan đến phảt triển KH&CN và được nhận tiền công và tiền thưởng hợp lý. Chính sách này tạo nên một bức tranh sinh động và linh hoạt trong sử dụng nhân lực KH&CN, góp phần khai thác hiệu quả và triệt để tiềm năng chất xám vì mục tiêu phát triển. 10
- “Cơ chế mềm” lưu chuyển nhân tài1. Đầu những năm 1980, ở Trung Quốc xuất hiện mô hình “kỹ sư ngày thứ bảy”. Khi đó các chuyên gia kỹ thuật của một số Viện nghiên cứu và doanh nghiệp Nhà nước ở Thượng Hải được đơn vị cho phép nghỉ trước ngày nghỉ chủ nhật đến những doanh nghiệp Hương Trấn ở tỉnh Triết Giang làm cố vấn. Về sau họ gọi những chuyên gia này là những “kỹ sư ngày thứ bảy”. Mô hình này đã mở ra hướng lưu động nhân tài theo “cơ chế mềm” sau này. Theo đó, các chuyên gia không cần thiết chuyển hộ khẩu thường trú, không thay đổi công việc đang làm nhưng vẫn có thể làm việc ở đơn vị mới theo thỏa thuận nhất định. Phương thức này đến nay không phải mới, nhưng nó trở nên phổ biến theo cơ chế thị trường thì phải vượt qua những trở ngại không nhỏ, ví dụ: một số địa phương muốn có nhiều tiến sĩ hộ khẩu ở địa phương mình thì mới gọi là giàu nhân tài, hoặc một số đơn vị khi sở hữu nhân tài rồi thì không muốn “buông tha” từng giờ từng phút. Đó là cách suy nghĩ làm lãng phí nhân tài, làm cho nhân tài bị kẹt cứng vào một chỗ, không lưu động được. Thành phố Thượng Hải ban hành biện pháp thu hút nhân tài vào lĩnh vực dân doanh, trong đó quy định: không phân biệt quốc tịch, văn bằng, địa vị xã hội, miễn là có biệt tài đáp ứng được yêu cầu của thành phố thì đều được hưởng đãi ngộ theo quy định. Nhiều địa phương Trung Quốc hiện nay nêu lên phương châm sử dụng nhân tài “bất cầu sở hữu, đản cầu sử dụng” (không yêu cầu sở hữu chuyên gia, chỉ yêu cầu sử dụng chuyên gia). Ơ Thành phố Ninh Ba, tỉnh Triết Giang, các xí nghiệp dân doanh đã mời hơn chục “bộ óc ngoại” từ Thương Hải. Các bộ óc này đang làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài, mỗi tuần đến Ninh Ba vài lần, bình thường thì qua điện thoại, mail để “chỉ huy từ xa”. Qua phương thức này, các xí nghiệp dân doanh nói trên đã xây dựng được chế độ xí nghiệp đa tộc, mở rộng vốn đầu tư kinh doanh. Hiện tỉnh Triết Giang đã thu hút được 42 Viện sĩ của Viện Khoa học Trung Quốc đến làm việc theo “cơ chế mềm” để giải quyết những công trình lớn 1 Nguyễn Thành Tuệ, Tổng hợp từ Nhân dân nhật báo, THX, báo Thanh niên Trung Quốc, Nhật báo Nam Phương, Tuổi trẻ, thứ sáu 02-01-2004 11
- của tỉnh. Tỉnh Hà Bắc đề ra “công trình thu hút chất xám” và thường xuyên có quan hệ với 193 Viện sĩ thông qua Hội Liên hiệp Hữu nghị để giải quyết những việc cần thiết cho tỉnh. Viện Khoa học Trung Quốc thông qua “hệ thống bình xét chuyên gia ở nước ngoài” đã thường xuyên thu hút trên 100 nhà khoa học cao cấp ở nước ngoài làm tư vấn hoặc đối tác. Dựa trên cơ sở hình thành “Quỹ các học giả kiệt xuất ở nươc ngoài” nhằm phối hợp nghiên cứu những công trình khoa học mang tầm cỡ quốc tế, tạo điều kiện để chuyển từ chất xám sang thu hút nhân tài sau này. Thành phố Quảng Châu đã thành lập “Trung tâm thuê nhân tài”, đã có 1025 đơn vị thuê bằng nhiều hình thức. Thành phố Thẩm Quyến bằng phương thức mềm “không chuyển hộ khẩu, đôi bên thương lượng, đi ở tự do” đã thu hút được 37 vạn cán bộ khoa học kỹ thuật và kinh tế làm việc theo dự án. Chính sách kiều dân đối với các nhà khoa học Nhà nước Trung quốc áp dụng nhiều biện pháp thu hút kiều dân là các nhà khoa học và công nghệ (trình độ càng cao càng tốt) là kiều dân gốc Hoa trở về đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, Trung Quốc không chủ trương cho họ trở về định cư ở trong nước. Tuổi nghỉ hưu và vấn đề đề bạt Tuổi nghỉ hưu tinh thần chung theo Luật Lao động. Cán bộ lãnh đạo ở các viện nghiên cứu khoa học của Nhà nước đa phần nằm trong dải 36 đến 55 tuổi. Các giáo sư lớn tuổi thường giữ vai trò cố vấn hoặc hướng dẫn khoa học (supervisor). Chính sách thu hút nhân lực KH&CN của Thái Lan Chính sách tiền lương Tiền lương ở mức khởi điểm của nhân lực KH&CN trong các cơ quan nghiên cứu–phát triển ở Thái Lan ở mức gấp 3 lần lương tối thiểu. Tuy nhiên, tốc độ tăng lương của họ nhanh, nhất là khi chuyển đổi trình độ và đặc biệt là sau khi được xét phong PGS hoặc GS. 12
- Về cơ cấu tiền lương và thưởng, nhân lực KH&CN trong các cơ quan nghiên cứu phát triển được hưởng như đối với các chuyên viên nhà nước. Khu vực tư nhân thường cao hơn cỡ 20% (hình thức thu hút thông qua cách trả lương cao hơn). Dự án về hưu muộn: Đây là cơ hội để thu hút nhân lực KH&CN. Bộ các trường đại học đã bắt đầu một dự án mới, gọi là dự án về hưu muộn đối với các giáo sư và cán bộ giảng dạy các trường đại học ở một số chuyên ngành môn. Họ được tiếp tục công việc của mình sau khi đã về hưu ở độ tuổi 60. Mục đích của dự án là tận lượng để làm sâu sắc thêm nguồn nhân lực, để họ hỗ trợ cho sự phát triển của đất nước. Chính sách kiều dân đối với các nhà khoa học Chính sách nhà nước đối với các kiều dân Thái Lan đang sinh sống ở nước ngoài được thực hiện như sau: - Khảo sát và có kế hoạch động viên các nhà khoa học và các nhà công nghệ hàng đầu người Thái ở nước ngoài, khuyến khích họ đáp ứng các nhu cầu ở trong nước dưới các hình thức: cố vấn về KH&CN, theo dõi và cung cấp thông tin về KH&CN ở các nước phát triển, xác định phương pháp chuyển giao công nghệ thích hợp nhất, tìm kiếm các cơ hội hợp tác về công nghệ với các đối tác ở nước ngoài, về nước làm việc; - Khuyến khích sử dụng các chuyên gia nước ngoài trong các hoạt động giảng dạy, dẫn dắt công tác R&D...Sự khuyến khích thể hiện dưới các dạng giảm thuế thu nhập cá nhân, tăng tiền thưởng, tạo lập môi trường làm việc tốt cho các hoạt động KH&CN. Chính sách thu hút nhân lực KH&CN của Singapore Chính sách thu hút lao động KH&CN Singapore cho rằng nguồn tài nguyên giàu có nhất của đất nước là con người mà hạt nhân là những người có trình độ cao. Chính phủ Singapore thực sự quan tâm đến đội ngũ các nhà khoa học, kỹ sư làm việc trong khu vực NC-TK, kể cả những người làm nhiệm vụ hỗ trợ kỹ thuật cho họ. Hàng năm có khoảng 13
- 10% số người tốt nghiệp các ngành khoa học, kỹ thuật được bổ sung vào các đơn vị NC-TK trong các trường đại học. Chính sách tiền lương Chính sách tiền lương nói chung ở Singapore là rất cao, đứng thứ 2 Châu Á, chỉ sau Nhật bản. Bội số lương khởi điểm lớn hơn 3 lần lương tối thiểu, song chỉ sau khoảng 10 năm công tác (nghiên cứu viên chính), lương của họ đã đạt tới 6500 USD, PGS 9000 USD và khi trở thành GS: 12000 USD. Hội đồng lương quốc gia, từ năm 1981, đã đề xuất những quy định mới về mức tăng lương. Theo đó, mức tăng lương bình quân là 20% cho từng giai đoạn, 3 năm 1 lần. Mục đích của việc làm này là nhằm thay đổi giá trị công lao động, kích thích các cơ quan tuyển chọn, thu hút người có trình độ cao, chuyên gia giỏi. Chính sách đào tạo Singapore là quốc đảo đa dân tộc, có trình độ học vấn rất cao. Riêng về ngoại ngữ, Chính phủ coi trọng tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ, ngoài ra còn khuyến khích học thêm ngoại ngữ thứ 3. Chính phủ Singapore thực sự quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ các nhà khoa học và kỹ sư làm việc trong các khu vực nghiên cứu-triển khai. Ngân sách được sử dụng cho việc trang bị các thiết bị nghiên cứu hiện đạỉ ở các cơ quan nghiên cứu triển khai nói chung trong đó có các cơ quan nghiên cứu triển khai của các trường đại học. Nhiều học bổng được cấp cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, bao gồm cả tham quan, khảo sát, tham dự các hội nghị khoa học ở các quốc gia và quốc tế. Chính sách cấp các giải thưởng cho các nhà khoa học có cống hiến. Cục KH&CN quốc gia Singapore quan tâm tới các biện pháp khuyến khích các nhà KH&CN nói chung, khu vực các cơ quan nghiên cứu triển khai nói riêng để ghi công những người có cống hiến to lớn với 3 hình thức: - Giải thưởng khoa học quốc gia (NTA) dành cho những cá nhân và tập thể có đóng góp trong nghiên cứu cơ bản thuộc các lĩnh vực của KH&KT. 14
- - Giải thưởng công nghệ quốc gia (NTA) để ghi nhận các hoạt động nổi tiếng trong lĩnh vực NC-TK ứng dụng, - Huy chương KH&CN quốc gia ghi nhận những đóng góp to lớn của người có công đối với sự tăng trưởng và phát triển của đất nước Singapore thông qua các hoạt động quản lý và thúc đẩy phát triển các hoạt động nghiên cứu phát triển. Chính sách cho phép các nhà khoa học được làm việc theo chế độ kiêm nhiệm Chính sách này không phải là đặc thù ở Singapore. Tuy nhiên, việc các nhà khoa học trong các cơ quan nghiên cứu–phát triển và các nhà công nghệ nổi tiếng tham gia giảng dạy ở các trường đại học là công việc hết sức thường tình. Ngược lại hầu như 100% các thầy giáo ở các trường đại học tham gia nghiên cứu khoa học. Nhìn chung các nhóm chính sách phát triển nguồn nhân lực KH&CN tập trung vào các chính sách thu hút, đào tạo, sử dụng, đãi ngộ đối với nhân lực KH&CN. Theo Sami Mahroum2, thành công của một quốc gia trong việc đáp ứng các nhu cầu về nguồn lực KH&CN phụ thuộc vào 3 khả năng then chốt sau: - Phát triển tài năng: đó là khả năng giáo dục và đào tạo để cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng đủ để đáp ứng thị trường lao động trong nước. Chỉ đào tạo trong nước là không đủ, nguồn nhân lực này phải được đào tạo để hoàn thiện kỹ năng của mình ở nước ngoài. - Triển khai nguồn nhân lực: đó là khả năng sử dụng nguồn lao động này, đồng thời thông qua đó có thể nhận biết nhứng sự thiếu hụt nào đó trong khâu đào tạo. - Tạo ra các tài năng: đó là khả năng thu hút cả nhân tài trong nước và quốc tế như các giáo sư, các nhà nghiên cứu, nhà quản lý R&D ở tất cả các cấp độ sinh viên, những nhà nghiên cứu và các giáo sư đầu ngành. 2 Sami Mahroum(2007) Assessing human resources for science and technology: The 3Ds framework, Oxford University Press, Volume 34, Number 7, August 2007 , pp. 489-499(11) 15
- Di chuyển quốc tế của cán bộ KH&CN là một đặc trưng không thể thiếu của quá trình toàn cầu hoá. Trên thực tế, toàn cầu hoá KH&CN được cụ thể bằng việc gia tăng sự hợp tác quốc tế giữa các nhà khoa học và các liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp, trong đó các nhà khoa học đã rút ngắn qúa trình đổi mới công nghệ với chi phí thấp, di chuyển cán bộ KH&CN cũng là một kênh trao đổi, phổ biến tri thức và công nghệ. Không thể phủ nhận rằng bản thân các nước này, bên cạnh việc có được nguồn chất xám giàu có từ nước ngoài, cũng đang làm mất đi nguồn chất xám của chính quốc gia mình. Điều này đang chứng tỏ một thực tế rằng vai trò quan trọng của nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao đã tạo ra thị trường cạnh tranh khốc liệt cho các quốc gia trong cuộc chiến về nhân lực, trụ cột của tất cả các nền kinh tế phát triển. Nước nào có lợi thế và sở hữu nguồn nhân lực KH&CN cao sẽ trở thành nước dẫn đầu xu thế và đi trước so với các quốc gia khác. Kinh nghiệm trong nƣớc Từ kinh nghiệm phát triển cán bộ KH&CN của các nước và khu vực trên thế giới cho chúng ta thấy đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong phát triển KT-XH của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ. Từ kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng những nước có chính sách phát triển đúng đắn, cán bộ KH&CN sẽ tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN, từ đó dẫn đến sự phát triển của KT-XH. Trong quá trình toàn cầu hoá, chính sách sử dụng cán bộ KH&CN của Việt Nam sẽ gặp phải nhiều thách thức. Các khía cạnh của chính sách sử dụng cán bộ KH&CN cần phải có những quy định cụ thể như làm thế nào để sử dụng hiệu quả, trọng dụng và phát huy tài năng cán bộ KH&CN. Trong đó chính sách sử dụng cán bộ có trình độ, có kỹ năng đang làm việc trong các tổ chức nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp sẽ là những vấn đề cần làm ngay. Ngoài ra, chính sách thu hút cán bộ nghiên cứu, nhà khoa học là Việt kiều về làm việc trong nước cũng như chính sách thu hút cán bộ nghiên cứu, nhà khoa học là người nước ngoài cũng là những vấn đề cần thiết trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của Việt Nam. Cùng với đó, cũng cần thấy rằng việc tranh thủ 16
- các nguồn lực bên ngoài có lợi cho sự phát triển KH&CN của Việt Nam nói chung và nguồn nhân lực KH&CN nói riêng là hết sức cần thiết. Trong đó có thể kể đến vai trò của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức trong lĩnh vực KH&CN. Ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề phát triển cán bộ KH&CN, trong đó các vấn đề liên quan đến chính sách sử dụng cán bộ KH&CN luôn luôn là vấn đề quan trọng trong các nghiên cứu. Đề án “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực KH-CN đến năm 2020” (1998), cũng đã đưa ra khuyến nghị về việc “Nhà nước không sử dụng biện pháp hành chính, nhưng thực thi chính sách tăng cường quản lý và điều hành, sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, khuyến khích tinh thần và vật chất để giải quyết bài toán di chuyển (trong nước, quốc tế) nhân lực KH&CN, phá bỏ hang rào ranh giới giữa các tổ chức KH&CN với sản xuất và xã hội, tăng cường giao lưu quốc tế (song phương, đa phương) đối với nhân lực KH&CN”. Tuy nhiên, khuyến nghị của Đề án đã chưa được hiện thực hóa trong quá trình hoạch định chính sách KH&CN (đặc biệt chính sách liên quan đến nhân lực KH&CN). Năm 1999, đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Một số vấn đề về sử dụng nhân lực KH&CN ở Việt Nam” do Trần Chí Đức chủ trì đã phân tích, đánh giá hệ thống các văn bản chính sách về sử dụng nhân lực KH&CN và đưa ra một số khuyến nghị về việc bổ sung và hoàn thiện chính sách: cần có hệ thống thống kê về hiện trạng, phân bổ và sử dụng nhân lực KH&CN; có chiến lược đào tạo và sử dụng nhân lực KH&CN gắn với yêu cầu và chức năng của hệ thống công nghệ; có cơ chế đánh giá và sàng lọc đội ngũ cán bộ KH&CN; có các thiết chế tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động KH&CN; có chính sách đãi ngộ cán bộ KH&CN hợp lý hơn; có các chính sách thu hút tri thức Việt kiều cũng như các nhà khoa học nước ngoài để đóng góp vào sự phát triển KH&CN của Việt Nam. Trên cơ sở các phân tích, đánh giá hệ thống văn bản của Nhà nước về sử dụng nhân lực KH&CN, đề tài đã tiến hành nghiên cứu cụ thể hai khía cạnh quan trọng trong chế độ lao động của cán bộ KH&CN, đó là: chế độ kiêm nhiệm và chế độ hợp 17
- đồng lao động trong hoạt động KH&CN ở Việt Nam. Qua nghiên cứu hai chế độ lao động của cán bộ KH&CN, đề tài đã đề xuất những nội dung và nguyên tắc cơ bản nhằm hoàn thiện hai chính sách nêu trên. Nhìn chung, các đề xuất của đề tài một phần đã được cụ thể hoá bằng các văn bản pháp quy như Nghị định về thống kê khoa học hay chính sách thu hút tri thức Việt kiều đóng góp vào sự phát triển đất nước đang được Bộ Ngoại giao tiến hành soạn thảo,…Tuy nhiên, một số đề xuất của đề tài chưa được hiện thực hoá trong cuộc sống. Với những thay đổi của đất nước sau gần 10 năm, những kiến nghị như trên cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện nhằm đáp ứng những đòi hỏi và thách thức trong quá trình hội nhập toàn cầu hiện nay. Năm 2000, đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Luận cứ khoa học cho việc đổi mới chính sách sử dụng nhân lực KH&CN trong cơ quan nghiên cứu và triển khai” do tác giả Nguyễn Thị Anh Thu chủ trì đã đưa ra một số khuyến nghị về chính sách sử dụng nhân lực KH&CN. Trong đó, các khuyến nghị tập trung chủ yếu vào việc: giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cơ quan NC&TK, đổi mới chế độ tiền lương; xây dựng chế độ bảo hiểm trợ cấp hay thất nghiệp cho lao động KH&CN trong cơ quan NC&TK; dành kinh phí để mời chuyên gia nước ngoài làm việc trong cơ quan NC&TK theo thời gian; đào tạo cán bộ đủ năng lực để độc lập thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu; thưởng xứng đáng cho các công trình nghiên cứu được áp dụng mang lại hiệu quả kinh tế, có các giải thưởng phong phú và phù hợp với từng loại hình nghiên cứu/lĩnh vực nghiên cứu. Tất cả những khuyến nghị trên đều là những điều cần tiếp tục nghiên cứu trong hoàn cảnh hiện nay, đặc biệt, các khuyến nghị thứ 4 và thứ 6 là những khuyến nghị đáng được nghiên cứu nghiêm túc trong thời gian tới. Năm 2004, đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhân lực KH&CN trong các tổ chức NC&PT” do Hoàng Xuân Long chủ trì đã tập trung đi sâu vào phân tích đổi mới quản lý nhân lực theo hướng phù hợp với đặc thù của hoạt động nghiên cứu khoa học. Đề tài làm rõ lý luận và căn cứ thực tiễn của việc đổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhân lực KH&CN trên cơ sở phân biệt đặc thù của quản lý nhân lực KH&CN trong các tổ 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 301 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 230 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 127 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 100 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 19 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn