intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý ngân sách nhà nước tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:105

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề án "Quản lý ngân sách nhà nước tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình" nhằm làm rõ những lý luận cơ bản về NSNN, đánh giá đúng thực trạng tình hình quản lý NSNN trên địa bàn thành phố Thái Bình, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý NSNN tại thành phố Thái Bình; góp phần phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Quản lý ngân sách nhà nước tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------- TRẦN ANH CHUNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG Hà Nội – 2025
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------------------- TRẦN ANH CHUNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 8340410 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS. LÊ ĐÌNH HẢI Hà Nội – 2025
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào của người khác. Việc sử dụng kết quả, trích dẫn tài liệu của người khác đảm bảo theo đúng các quy định. Các nội dung trích dẫn và tham khảo các tài liệu, sách báo, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Tác giả luận văn Trần Anh Chung
  4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ, động viên của gia đình, đồng nghiệp, quý thầy cô trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. Các thầy cô giáo đã trực tiếp truyền thụ, trang bị cho tôi những kiến thức cơ bản và những định hướng trong học tập, tạo tiền đề tốt để tôi học tập và nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lê Đình Hải đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. Tôi xin cảm ơn lãnh đạo, cán bộ, công chức Phòng Tài chính - Kế hoạch UBND thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình lấy số liệu và thông tin về công tác quản lý thu - chi ngân sách của thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn tới tất cả mọi người đã quan tâm, giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện cho tôi trong học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn !
  5. MỤC LỤC
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Ký hiệu Nguyên nghĩa 1 HĐND Hội đồng nhân dân 2 KBNN Kho bạc nhà nước 3 KT - XH Kinh tế - Xã hội 4 KTTT Kinh tế thị trường 5 NSNN Ngân sách nhà nước 6 QLNN Quản lý nhà nước 7 UBND Ủy ban nhân dân 8 XDCB Xây dựng cơ bản
  7. DANH MỤC BẢNG
  8. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quản lý thu, chi ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Quản lý thu NSNN là công cụ quản lý của Nhà nước để kiểm soát, điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế, là công cụ động viên, huy động các nguồn lực tài chính cần thiết nhằm tạo lập quỹ tiền tệ tập trung của ngân sách nhà nước, góp phần tạo môi trường bình đẳng, công bằng giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong quá trình sản xuất kinh doanh. Quản lý chi NSNN góp phần cung ứng kịp thời, đầy đủ tài chính cho hoạt động của Nhà nước và nhu cầu của xã hội; góp phần để quá trình chi NSNN đáp ứng được các yêu cầu chi hợp lý, tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản chi NSNN. Trong hệ thống NSNN ở Việt Nam hiện nay, NSNN cấp huyện được hình thành, gắn liền và là công cụ điều hành của chính quyền hành chính cấp huyện. NSNN cấp huyện là một bộ phận cấu thành ngân sách nhà nước, là công cụ để chính quyền cấp huyện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương. Thành phố Thái Bình là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh Thái Bình. Những năm qua, thành phố Thái Bình phát triển mạnh mẽ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tạo sức hút người dân đến sinh sống và làm việc. Đặc biệt với sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của Ban Chấp hành đảng bộ thành phố, thành phố Thái Bình đã huy động và khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế. Công tác quản lý ngân sách đã có nhiều đổi mới và đạt được tiến bộ đáng kể; công tác lập dự toán NSNN thành phố đã đáp ứng được các yêu cầu cơ bản, bám sát kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương; công tác thu chi, công tác quyết toán và kiểm toán, thanh tra, kiểm tra các khoản chi luôn được thực hiện tốt... Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng công tác quản lý NSNN tại thành phố Thái Bình vẫn còn một số hạn chế như: Lập dự toán ngân sách hàng năm nhìn chung còn chậm,
  9. trong đó dự toán thu, chi ngân sách chưa sát với tình hình thu chi thực tế; việc khai thác nguồn thu trên địa bàn còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương; còn xảy ra tình trạng thất thu; chi ngân sách cũng còn nhiều bất cập... Vì vậy, tăng cường công tác quản lý NSNN tại thành phố Thái Bình là một nhiệm vụ cần thiết của chính quyền thành phố, nhằm hoàn thiện và từng bước nâng cao hiệu quả công tác quản lý NSNN thông qua hiệu quả sử dụng vốn, tiền, tài sản của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn nghiên cứu: “Quản lý ngân sách nhà nước tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình” để thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế là thực sự cần thiết và cấp bách. 2. Câu hỏi nghiên cứu UBND thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình cần có những giải pháp nào để hoàn thiện công tác quản lý NSNN của thành phố trong thời gian tới? 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những lý luận cơ bản về NSNN, đánh giá đúng thực trạng tình hình quản lý NSNN trên địa bàn thành phố Thái Bình, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý NSNN tại thành phố Thái Bình; góp phần phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý NSNN. - Phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý NSNN trên địa bàn thành phố Thái Bình. - Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý NSNN trên địa bàn thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. - Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý NSNN trên địa bàn thành phố Thái Bình.
  10. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực trạng công tác thu, chi NSNN tại thành phố Thái Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Nghiên cứu công tác quản lý NSNN tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu công tác quản lý NSNN tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình trong thời gian 3 năm 2021 - 2023. - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu công tác quản lý NSNN thành phố Thái Bình thông qua các nội dung theo góc độ chuyên môn chủ yếu, gồm: Lập dự toán; Chấp hành dự toán; Quyết toán; Kiểm tra, giám sát quản lý NSNN thành phố Thái Bình. 5. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý ngân sách nhà nước cấp huyện Chương 2. Phương pháp nghiên cứu Chương 3. Thực trạng công tác quản lý ngân sách nhà nước tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình Chương 4. Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân sách nhà nước tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình
  11. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CẤP HUYỆN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài NSNN luôn gắn với bản chất của nhà nước và quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Thực chất, NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trên cơ sở luật định. NSNN là khâu chủ đạo, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ máy quyền lực nhà nước. Vấn đề nghiên cứu quản lý NSNN đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý NSNN ở cấp độ khác nhau; khi Luật NSNN được ban hành năm 1996 và được sửa đổi năm 2002, cùng với việc nền kinh tế nước ta phát triển mạnh theo hướng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bộ máy hành chính công ngày càng phải thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ để thể hiện vai trò của nhà nước trong quản lý và đưa nền kinh tế, xã hội của đất nước phát triển. Ngày 25/6/2015 Luật số 83/2015/QH13 của Quốc hội ban hành đề cập đến việc phân cấp nhiệm vụ chi, tỷ lệ % thu… Vấn đề thu - chi ngân sách được quan tâm nhiều hơn và đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý NSNN như: * Một số nghiên cứu chỉ ra hạn chế trong công tác quản lý NSNN cấp huyện như sau: Tác giả Trần Vân Trang (2017), nghiên cứu “Quản lý chi ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”. Tuy nhiên, quản lý chi NSNN trên địa bàn huyện vẫn tồn tại những mặt hạn chế trong xây dựng, lập, duyệt, phân bổ, thực hiện dự toán chưa sát thực tế nên hàng năm phải bổ sung kinh phí, gây lãng phí NSNN, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát còn buông lỏng.
  12. Tiếp đến tác giả Lâm Mạnh Cường (2019), nghiên cứu “Quản lý thu ngân sách trên địa bàn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên”. Tác giả cho thấy hoạt động quản lý thu NSNN trên địa bàn huyện Văn Lâm thời gian qua còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế đó là: Tại nhiều địa phương thu ngân sách xã vẫn còn hiện tượng thất thu, bỏ sót nguồn thu, vẫn còn tình trạng che dấu nguồn thu; việc rà soát các hộ kinh doanh chưa tiến hành đồng bộ tại các địa phương, hiệu quả chưa đạt mong đợi. Các khâu trong quy trình thu còn nhiều hạn chế, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý thu ngân sách xã chưa cao, đôi khi vẫn mang tính hình thức, còn tình trạng nể nang; kết quả thanh tra, kiểm tra quản lý thu ngân sách xã chưa gắn với chế tài xử lý, chưa sử dụng để tham mưu kịp thời cho lãnh đạo ra quyết định quản lý, điều hành; hoạt động thanh tra, kiểm tra đôi khi vẫn còn tình trạng chồng chéo, trùng lắp giữa các đơn vị có chức năng thanh tra. Lương Thị Thành Nam và cộng sự (2019), “Nghiên cứu quản lý ngân sách trên địa bàn huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An”. Tác giả cho thấy hạn chế trong công tác lập dự toán NSNN: Chất lượng của công tác lập dự toán chưa cao, số liệu dự toán một số nội dung thu, chi do các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn huyện ước số thực hiện năm trước và tăng thêm một tỷ lệ nhất định để lập dự toán cho năm kế hoạch trong thời kỳ ổn định ngân sách. Công tác chấp hành dự toán NSNN: Việc quản lý, khai thác nguồn thu trên địa bàn huyện Nghi Lộc, nhất là các khoản thu nhỏ như: Thuế môn bài, thuế sử dụng đất, thuế bảo vệ môi trường, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu, thu sự nghiệp… Công tác thanh tra, kiểm tra NSNN: Công tác thanh tra, kiểm tra chưa có sự phối hợp chặt chẽ, xử lý sai phạm chưa triệt để, có những sai phạm chưa khắc phục qua nhiều năm. Nguyễn Văn Thông và cộng sự (2020), “Quản lý chi ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên” cho rằng hạn chế trong quản lý chi của huyện là: Quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan trong công tác quản lý chi chưa được thể hiện rõ. Còn nhiều cơ quan, đơn vị cùng tham gia quản lý, kiểm soát thanh toán chi NSNN. Công tác lập dự toán chi NSNN hàng năm chưa thật sự sát với thực tế, vẫn còn tình trạng mức dự toán chi ngân sách thấp hơn rất nhiều so với
  13. quyết toán chi hàng năm. Chất lượng lập dự toán của nhiều đơn vị sử dụng NSNN còn thấp, chưa bao quát hết yêu cầu nhiệm vụ chi trong năm kế hoạch; ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư phát triển được lập một cách riêng lẻ, độc lập; lập dự toán sai mẫu biểu, không đúng mục lục NSNN... Việc phân bổ dự toán còn nặng về hình thức, chưa xem xét đúng mức tình hình cụ thể trong kỳ kế hoạch nên việc phân bổ dự toán còn cào bằng, chưa phù hợp. * Một số nghiên cứu chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý NSNN cấp huyện: Đinh Thị Thu Hà (2018), nghiên cứu "Quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước của huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình”. Tác giả cho thấy các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý chi thường xuyên NSNN của huyện Yên Mô bao gồm các yếu tố về cơ chế, chính sách và các quy định của nhà nước về quản lý chi; tổ chức bộ máy quản lý chi thường xuyên NSNN; năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý chi NSNN; công nghệ thông tin quản lý chi thường xuyên NSNN trên địa bàn huyện. Hoàng Thị Thảo, Bùi Văn Hiếu (2021), "Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình", đó là: Hệ thống pháp luật của nhà nước; trình độ phát triển và mức thu nhập của người dân; tổ chức bộ máy quản lý thu NSNN; trình độ quản lý của cán bộ; sự phối hợp của các cơ quan chức năng. * Một số nghiên cứu chỉ ra giải pháp hoàn thiện công tác quản lý NSNN cấp huyện: Đàm Thị Huệ (2019), “Giải pháp nâng cao công tác quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông”. Tác giả đề xuất các giải pháp nâng cao công tác quản lý NSNN đó là: Công khai NSNN trên địa bàn; hoàn thiện quy trình lập và chấp hành NSNN: nội dung dự toán phải đảm bảo với yêu cầu phát triển KT - XH của địa phương, thu phải dự báo sát, chi phải xác định những khoản chi trọng điểm; tăng cường bồi dưỡng nguồn thu cho NSNN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
  14. Lâm Mạnh Cường (2019) chỉ ra các giải pháp hoàn thiện quản lý chi NSNN trên địa bàn huyện Văn Lâm, Hưng Yên là: Hoàn thiện công tác xác định các khoản thu ngân sách xã, hoàn thiện xác định mức thu ngân sách xã, hoàn thiện xây dựng phương pháp thu ngân sách xã, hoàn thiện các khâu trong quy trình thu ngân sách xã, hoàn thiện công tác giám sát thu ngân sách xã trên địa bàn, nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý thu ngân sách trên địa bàn huyện Văn Lâm; đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin quản lý thu ngân sách trên địa bàn huyện Văn Lâm; nâng cao nhận thức của đối tượng nộp ngân sách trên địa bàn huyện Văn Lâm. Đặng Ngọc Tuấn (2022), “Quản lý ngân sách nhà nước tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương”. Tác giả đưa ra các giải pháp: Dự toán ngân sách phải được xây dựng dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và khai thác triệt để tiềm năng, lợi thế của địa phương; tập trung đẩy mạnh chống thất thu, quản lý chặt chẽ, khai thác tốt các nguồn thu hiện có; xây dựng nguồn thu mới, khuyến khích thu hút nguồn thu; cải cách phương thức quản lý thuế; hoàn thiện bộ máy và nâng cao trình độ cán bộ quản lý NSNN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện NSNN. Trần Thị Ánh Tuyền (2022); “Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách nhà nước thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả đưa ra những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý NSNN của thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế; đó là: Dự toán ngân sách phải sát với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; khai thác và xây dựng các nguồn thu; đổi mới phương thức quản lý thuế; nâng cao trình độ cán bộ quản lý NSNN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý NSNN. 1.1.2. Kết quả đạt được và khoảng trống cần nghiên cứu Qua nghiên cứu các công trình; các tác giả đã chỉ ra một số hạn chế trong công tác quản lý NSNN cấp huyện như sau:
  15. Công tác lập dự toán chi NSNN hàng năm chưa thật sự sát với thực tế, vẫn còn tình trạng mức dự toán chi ngân sách thấp hơn rất nhiều so với quyết toán chi hàng năm. Chất lượng lập dự toán của nhiều đơn vị sử dụng NSNN còn thấp, chưa bao quát hết yêu cầu nhiệm vụ chi trong năm kế hoạch; ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư phát triển được lập một cách riêng lẻ, độc lập; số liệu dự toán thu, chi ngân sách chưa sát đúng và phù hợp với số liệu, tình hình thực hiện trên thực tế. Việc quản lý, khai thác nguồn thu trên địa bàn chưa được chú trọng, chưa được huy động vào ngân sách, chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương. Việc phân bổ dự toán còn nặng về hình thức, chưa xem xét đúng mức đặc điểm, tình hình cụ thể trong kỳ kế hoạch nên việc phân bổ dự toán chưa phù hợp với thực tế. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa có sự phối hợp chặt chẽ, xử lý sai phạm chưa triệt để. Bên cạnh đó một số nghiên cứu chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý NSNN cấp huyện: Các yếu tố về cơ chế, chính sách và các quy định của nhà nước về quản lý chi NSNN, tổ chức bộ máy quản lý chi thường xuyên NSNN; năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức trách nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý chi thường xuyên NSNN; công nghệ thông tin quản lý chi thường xuyên NSNN trên địa bàn. Các nghiên cứu chỉ ra giải pháp hoàn thiện công tác quản lý NSNN cấp huyện: Công khai NSNN trên địa bàn; hoàn thiện quy trình lập và chấp hành NSNN: nội dung dự toán phải đảm bảo với yêu cầu phát triển KT - XH của địa phương; thu phải dự báo sát; chi phải xác định những khoản chi trọng điểm; tăng cường bồi dưỡng nguồn thu cho NSNN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý NSNN; áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý NSNN. Mặc dù, các công trình nghiên cứu, chỉ ra những mặt đạt được, hạn chế, nguyên nhân, giải pháp... Tuy nhiên tại UBND thành phố Thái Bình trong những
  16. năm gần đây cũng chưa có luận văn nào nghiên cứu để đưa ra các giải pháp hoàn thiện quản lý NSNN trong thời gian tới trên địa bàn thành phố. Do đó tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý ngân sách nhà nước tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình” là thực sự cần thiết. 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý ngân sách nhà nước cấp huyện 1.2.1. Lý luận chung về ngân sách nhà nước 1.2.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Quỹ này thể hiện lượng tiền huy động từ thu nhập quốc dân để đáp ứng cho các khoản chi tiêu của nhà nước, có hai mặt đó là: mặt tĩnh và mặt động. Mặt tĩnh thể hiện các nguồn tài chính được tập trung vào NSNN mà chúng ta có thể xác định được vào bất kỳ thời điểm nào. Mặt động thể hiện các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị gắn liền với quỹ tiền tệ tập trung vào NSNN và từ NSNN phân bổ các nguồn tài chính cho các ngành, các lĩnh vực, các địa phương của nền kinh tế quốc dân (Phương Thị Hồng Hà, 2006). NSNN là một phạm trù kinh tế tài chính, được coi là một hệ thống quan hệ kinh tế tồn tại khách quan. Hệ thống các quan hệ kinh tế này được đặc trưng bởi quan hệ tiền tệ phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính và bằng các quan hệ kinh tế mà quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước được tạo lập và sử dụng (Phương Thị Hồng Hà, 2006). Như vậy hình thức biểu hiện bên ngoài của NSNN là một loại quỹ tiền tệ của Nhà nước; với các khoản thu và khoản chi của nó thì NSNN còn phản ánh các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối, thể hiện các quan hệ phân phối và các quan hệ lợi ích kinh tế gắn với một chủ thể đặc biệt đó là nhà nước nhằm tạo lập và sử dụng nguồn tài chính quốc gia để giải quyết các nhiệm vụ về kinh tế - xã hội (Bùi Thị Quỳnh Thơ, 2013). 1.2.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước - NSNN vừa là một bảng kế hoạch tài chính vừa là một đạo luật của một quốc gia. NSNN chính là toàn bộ các khoản thu, chi của một quốc gia đã được dự
  17. toán thực hiện trong một năm, việc thiết lập NSNN không chỉ mang tính kỹ thuật nghiệp vụ kinh tế giống như các loại ngân sách thông thường khác mà nó còn mang tính kỹ thuật pháp lý. NSNN được soạn thảo và thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt phải được Quốc hội xem xét, biểu quyết thông qua giống như việc ban hành một đạo luật. Đặc điểm này đã làm cho NSNN khác hẳn với các loại ngân sách thông thường như ngân sách của gia đình, ngân sách của các tổ chức chính trị - xã hội. NSNN đảm bảo giá trị pháp lý và bắt buộc các chủ thể liên quan phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình giống như việc thực hiện, chấp hành một đạo luật. Còn các loại ngân sách khác thì việc thực hiện và chấp hành của các chủ thể có liên quan, chỉ dừng ở mức độ thoả thuận để ràng buộc trách nhiệm của mỗi người. - NSNN là bảng kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, sẽ được Quốc hội biểu quyết thông qua trước khi trao cho Chính phủ thi hành. Đặc điểm này thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách. Trong đó, cơ quan lập pháp thường có vai trò áp đảo hơn, cơ quan hành pháp chỉ là cơ quan thừa hành thực hiện bảng kế hoạch tài chính mà Quốc hội đã thông qua, nhưng đồng thời phải chịu sự giám sát của Quốc hội trong khi thực thi nhiệm vụ NSNN nhằm hạn chế sự lạm quyền của cơ quan hành pháp, bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động tài chính nhà nước. Điều này bộc lộ rõ nét đặc trưng riêng của NSNN mà ở các loại hình ngân sách khác không có. NSNN được thiết lập và thi hành có sự tham gia, giám sát của nhân dân theo phương cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua vai trò của Quốc hội, có sự tham gia của cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp và có sự phân chia nhiệm vụ rõ ràng giữa hai cơ quan này. Trong khi đó, các loại hình ngân sách khác thì Nhà nước để cho chính chủ thể đó tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra. Một số cơ quan hành pháp nhà nước chỉ tham gia kiểm tra, giám sát trong những trường hợp cần thiết, mà không tạo nên mối tương đồng giữa cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp. - NSNN được thiết lập và thực thi nhằm phục vụ hoạt động của bộ máy nhà
  18. nước, đảm bảo cho nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình vì lợi ích chung của toàn xã hội. Bộ máy nhà nước muốn hoạt động được cần có một số tiền rất lớn để chi tiêu và số tiền đó được trích ra từ NSNN. Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình nhằm đảm bảo sự phát triển của toàn xã hội, phục vụ lợi ích của toàn dân, không phân biệt người giàu nghèo hay đẳng cấp, địa vị xã hội, hay cá nhân, tổ chức nào để đảm bảo cho sự phát triển của đất nước. - Hoạt động thu chi NSNN luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của nhà nước và việc thực hiện các chức năng của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. Hoạt động NSNN là hoạt động phân phối lại các nguồn tài chính, nó thể hiện ở hai lĩnh vực thu và chi của nhà nước. NSNN luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công cộng. - NSNN cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét khác biệt của NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau đó mới được chi dùng cho những mục đích đã định. Hoạt động thu chi NSNN được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. 1.2.1.3. Chức năng của ngân sách nhà nước Trong sự vận động và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, với những diễn biến kinh tế, vai trò của nhà nước được thay đổi, thì chức năng của NSNN cũng cần được nhìn nhận lại cho phù hợp với tình hình mới. - Cùng với các công cụ khác của Nhà nước, NSNN là một công cụ ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chống lạm phát và giảm thất nghiệp. - Chức năng phân bổ nguồn lực trong xã hội: Để tạo lập và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, thông qua các biện pháp thu, chi và quản lý NSNN, nhà nước thực hiện phân bổ nguồn lực vào những lĩnh vực, địa bàn then chốt, có nhiều rủi ro, cần khuyến khích hoặc hạn chế phát triển; đồng thời có thể thu hút, lôi kéo sự tham gia phân bổ nguồn lực của các thành phần kinh tế và khu vực tư nhân. - Chức năng phân phối lại thu nhập trong xã hội: Nhà nước thực hiện quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập dưới hình thức tham gia trực tiếp hoặc
  19. gián tiếp nhằm hạn chế bớt sự phân hoá xã hội, sự bất bình đẳng về thu nhập đảm bảo sự công bằng hợp lý, làm cho nguồn thu nhập của xã hội được sử dụng một cách kịp thời, hiệu quả. Thông qua công cụ thuế và công cụ chi tiêu, Nhà nước sẽ thực hiện được các mục tiêu trên. - Chức năng điều chỉnh kinh tế: Chính sách NSNN là một bộ phận không thể tách rời của chính sách kinh tế - xã hội. Khi nền kinh tế suy thoái người ta thường khuyến cáo dùng chính sách tài khoá kích cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng chi tiêu công, từ đó làm tăng khối lượng sản xuất xã hội. Khi nền kinh tế phát triển bình thường, trong điều kiện mở cửa thì chính sách tài khoá kích thích sẽ tạo nên phản ứng dây chuyền: chính sách tài khoá kích thích nới lỏng với mục đích tăng tổng cầu, mức lãi suất trong nước tăng, giá đồng nội tệ tăng, thuần xuất khẩu giảm, tổng cầu giảm. Như vậy, trước mắt chính sách tài khoá có thể kích thích tổng cầu có tác động đến tăng trưởng kinh tế, nhưng về lâu dài lại kìm hãm chính quá trình tăng trưởng. Đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách tài chính nói chung và chính sách tài khoá nói riêng phải tính đến việc sử dụng công cụ NSNN một cách thích hợp trong quá trình điều chỉnh nền kinh tế. Bốn chức năng nói trên có mối quan hệ rất gắn bó, phản ảnh được bản chất hoạt động của NSNN trong quá trình tạo lập, khai thác, động viên, phân bổ, tổ chức huy động các nguồn vốn cũng như tham gia kiểm soát, điều chỉnh kinh tế vĩ mô. 1.2.1.4. Vai trò của ngân sách nhà nước NSNN được xem là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế và đóng vai trò không thể thiếu đối với nước ta. NSNN thể hiện vai trò ở một số nội dung cơ bản sau: - Kích thích tăng trưởng kinh tế + NSNN cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng và đầu tư cho các ngành kinh tế trọng điểm mũi nhọn. + NSNN hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp trong trường hợp cần thiết đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu mới hợp lí hơn.
  20. + NSNN còn có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp để giúp cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. + Nhờ NSNN có thể tranh thủ các nguồn vay trong và ngoài nước để tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế nhằm thỏa mãn cho nhu cầu đầu tư phát triển. - Điều tiết thị trường, giá cả và chống lạm phát + Để đảm bảo lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, nhà nước sử dụng ngân sách để can thiệp vào thị trường thông qua các khoản chi của NSNN dưới hình thức tài trợ vốn, trợ giá và sử dụng các quỹ dự trữ nhà nước về hàng hóa và dự trữ tài chính. Trong quá trình điều chỉnh thị trường, NSNN còn tác động đến hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn và trên cơ sở đó thực hiện giảm lạm phát, kiểm soát lạm phát. + Để chống lạm phát nhà nước áp dụng các biện pháp: giải quyết cân đối NSNN, khai thác các nguồn vốn vay trong và ngoài nước dưới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ, thu hút viện trợ nước ngoài, tham gia trên thị trường vốn với tư cách là người mua và bán chứng khoán. - Điều tiết thu nhập dân cư để góp phần thực hiện công bằng xã hội; với sự phân hóa kinh tế xã hội hiện nay, nhà nước cần phải có chính sách phân phối lại thu nhập hợp lý nhằm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về thu nhập trong dân cư. NSNN là một công cụ tài chính hữu hiệu được nhà nước sử dụng để điều tiết thu nhập của dân cư trên phạm vi toàn xã hội ở cả hai mặt thu và chi bằng việc áp dụng thuế trực thu, thuế gián thu, chi phúc lợi công cộng, chi trợ cấp với bộ phận dân cư nằm trong diện thực hiện chính sách xã hội của nhà nước. 1.2.1.5. Hệ thống ngân sách nhà nước a) Hệ thống ngân sách nhà nước Hệ thống NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách. Ở nước ta, tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế - xã
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
182=>2