intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý tài nguyên rừng: Nghiên cứu thực trạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:145

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị, các bộ phận sử dụng và dạng sống của những loài thực vật được ghi nhận làm thuốc ở khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý tài nguyên rừng: Nghiên cứu thực trạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP TRỊNH XUÂN CÔNG NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG NGUỒN TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG MÃ SỐ: 8440301 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐỖ THỊ XUYẾN TS. NGUYỄN QUỐC BÌNH Hà Nội, 2018
  2. i LỜI CAM ĐOAN Để đảm bảo tính trung thực của luận văn tốt nghiệp, tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp “Nghiên cứu thực trạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai ” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn của TS. Đỗ Thị Xuyến, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên và TS. Nguyễn Quốc Bình, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam. Các kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trƣớc đây. Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2018 Học viên Trịnh Xuân Công
  3. ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đƣợc bản luận văn này, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các thầy, cô thuộc bộ môn Khoa học Thực vật, Khoa Sinh học, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên; Phòng Sinh học, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam; Khoa Sau đại học, Trƣờng Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ quí báu đó. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Đỗ Thị Xuyến, TS. Nguyễn Quốc Bình, ngƣời đã dìu dắt tôi những bƣớc đi đầu tiên trong con đƣờng nghiên cứu khoa học, cảm ơn sự giúp đỡ của Ban giám đốc Khu BTTN Bát Xát, lãnh đạo, cán bộ các xã Sàng Ma Sáo, Dền Sáng và Y Tý, huyện Bát Xát đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Nhân dịp này, cho phép tôi bày tỏ lời cảm ơn tới Ban giám hiệu nhà trƣờng, Khoa Sau đại học, các phòng ban, các thầy cô trong khoa Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng và môi trƣờng, trƣờng Đại học Lâm nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ về mặt thời gian để tôi thực hiện tốt đề tài này. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, ủng hộ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhƣng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp của các thầy cô, các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp để bản luận văn đƣợc hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2018 Học viên Trịnh Xuân Công
  4. iii MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ii MỤC LỤC ................................................................................................................ iii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... v DANH MỤC CÁC BẢNG ....................................................................................... vi DANH MỤC CÁC HÌNH .......................................................................................vii DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ............................................................................... viii ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................ 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................ 3 1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nƣớc trên thế giới .......3 1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam ................................8 1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tình Lào cai [36] ............................................................................................13 1.4. Tổng quan về khu vực nghiên cứu - Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai ..................................................................................................................14 1.4.1. Đặc điểm tự nhiên [36] .........................................................................14 1.4.2. Điều kiện kinh tế, xã hội [36] .................................................................17 Chƣơng 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................................................................... 21 2.1. Mục tiêu của đề tài .........................................................................................21 2.1.1. Mục tiêu chung .......................................................................................21 2.1.2. Mục tiêu cụ thể .......................................................................................21 2.2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên ........................................................................21 2.2.1. Đối tượng ................................................................................................21 2.2.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................21 2.3. Nội dung nghiên cứu......................................................................................21 2.3.1. Thành phần loài và đa dạng loài ............................................................21 2.3.2. Tình hình khai thác và sử dụng cây thuốc tại Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai .............................................................................................................22 2.3.3. Vấn đề sử dụng cây thuốc .......................................................................22 2.3.4. Các nguyên nhân, tác động gây suy giảm và đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc tại Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai .....................................................................................................22 2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...............................................................................22 2.4.1. Điều tra thực địa theo tuyến ...................................................................22
  5. iv 2.4.2. Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA) .23 2.4.3. Phương pháp kế thừa và phương pháp chuyên gia ................................24 2.4.4. Xử lý số liệu ............................................................................................24 Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................. 29 3.1. Thành phần loài và xây dựng danh lục các loài cây thuốc tại khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai ...................................................................................................29 3.2. Đánh giá về đa dạng các loài cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai ..........................................................................................................29 3.2.1. Đa dạng về các bậc phân loại của các loài cây thuốc ...........................29 3.2.2. Đa dạng về dạng cây của các loài cây thuốc .........................................35 3.2.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống tại khu vực nghiên cứu. ...37 3.2.4. Các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ .......................................39 3.3. Vấn đề sử dụng cây thuốc ở khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai 43 3.3.1. Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận......................................43 3.3.2. Sự đa dạng về số lượng các bộ phận của từng loài được sử dụng.........46 3.3.3. Các nhóm bệnh được chữa trị bởi các loài cây thuốc ở Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai ......................................................................47 3.3.4. Một số bài thuốc truyền thống của đồng bào dân tộc ở Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai ......................................................................48 3.4. Đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa cho cộng đồng dân cƣ địa phƣơng ........................................................................63 3.4.1 Tình hình khai thác, sử dụng và thị trường nguồn dược liệu và các bài thuốc dân gian ..................................................................................................63 3.4.2. Mối nguy cơ đối với tài nguyên tại khu vực nghiên cứu: .......................65 3.4.3 Các giải pháp nhằm bảo tồn tài nguyên cây thuốc và bài thuốc dân gian. ..........................................................................................................................66 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 71 PHỤ LỤC
  6. v DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BQL: Ban quản lý BTTN: Bảo tồn thiên nhiên ĐDSH: Đa dạng sinh học HST: Hệ sinh thái SCN: Sau công nguyên TCN: Trƣớc công nguyên TNTN: Tài nguyên thiên nhiên VQG: Vƣờn quốc gia WHO: World Health Oganization
  7. vi DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu) .................................... 25 Bảng 3.1. Sự phân bố các taxon trong các ngành của các loài cây thuốc đƣợc đồng bào ở Khu BTTN Bát Xát sử dụng ........................................................................... 30 Bảng 3.2. So sánh hệ cây thuốc ở Khu BTTN Bát Xát, huyện Bát Xát ................... 31 Bảng 3.3. Sự phân bố các taxon trong ngành Hạt kín ............................................... 32 Bảng 3.4. Sự phân bố số lƣợng các loài cây thuốc trong các họ của các ngành thực vật .............................................................................................................................. 33 Bảng 3.5. Thống kê các chi có nhiều loài cây thuốc nhất ......................................... 35 Bảng 3.6. Dạng thân của các loài cây thuốc đƣợc đồng bào ở hai Khu BTTN Bát Xát sử dụng ............................................................................................................... 35 Bảng 3.7. Thống kê các loài cây thuốc theo môi trƣờng sống .................................. 37 Bảng 3.8. Sự đa dạng trong các bộ phận đƣợc sử dụng làm thuốc ........................... 43 Bảng 3.9. Sự đa dạng về các nhóm chữa trị bệnh bằng cây thuốc ............................ 47 Bảng 3.10. Tổng hợp các bài thuốc thu thập đƣợc trong quá trình nghiên cứu ........ 49 Bảng 3.11. Thống kê thị trƣờng và tình trạng một số loại thảo dƣợc hiện có tại Khu BTTN Bát Xát (thời điểm điều tra tháng 5 năm 2018) ............................................. 64
  8. vii DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1.1. Bản đồ hiện trạng rừng Khu BTTN Bát Xát, tỉnh Lào Cai ....................... 20 Hình 2.1. Sơ đồ các tuyến điều tra cây thuốc ............................................................ 28
  9. viii DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1: Các taxon của các ngành đƣợc đồng bào ở Khu BTTN Bát Xát sử dụng làm thuốc .......................................................................................................... 30 Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ các nhóm dạng sống của các loài cây thuốc ở Khu BTTN Bát Xát ............................................................................................................................. 36 Biểu đồ 3.3. Số lƣợng của các loài cây thuốc phân bố theo môi trƣờng sống ......... 38 Biểu đồ 3.4. Tỷ trọng sự phân bố số lƣợng các bộ phận sử dụng làm thuốc ............ 44
  10. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng bị suy giảm một cách nhanh chóng làm mất đi môi trƣờng sống của nhiều loài động thực vật,... mặt khác, có rất nhiều loài cây còn chƣa đƣợc biết tên, chƣa phân tích đƣợc thành phần hoá học, chƣa biết đƣợc công dụng của chúng. Đây là một trong những vấn đề còn chứa đựng nhiều bí ẩn. Việt Nam với diện tích hơn 330.000 km2, trong đó, đồi núi chiếm 4/5, khối núi cao nhất là Hoàng Liên Sơn, có đỉnh Fansipan cao tới 3143 m đƣợc coi là nóc là của Đông Dƣơng. Với đặc điểm về điều kiện tự nhiên và khí hậu đã tạo ra sự đa dạng cao về sinh học ở Việt Nam trong đó có tài nguyên thực vật làm thuốc. Từ xa xƣa, ông cha ta đã biết sử dụng nguồn dƣợc liệu quý báu từ tự nhiên làm thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Từ việc lựa chọn các loài cây thuốc, phƣơng pháp pha chế, phƣơng pháp sử dụng, các bệnh đƣợc chữa,... đều là những kinh nghiệm lâu đời và đƣợc ghi chép cẩn thận, lƣu truyền qua nhiều thế hệ. Đây là những kinh nghiệm quý báu mà mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có. Ngày nay, các phƣơng pháp chữa bệnh bằng các loại thảo dƣợc đang đƣợc tập trung nghiên cứu và phát triển. Cho đến năm 2012, nƣớc ta đƣợc ghi nhận có tới gần 4700 loài thực vật đƣợc sử dụng làm thuốc (Võ Văn Chi, 2012) [8], đây chắc hẳn chƣa phải là con số đầy đủ nếu nhƣ không muốn nói là còn ít so với những con số thực tế bởi vì kho tàng kinh nghiệm của các dân tộc là rất lớn, trong khi công tác điều tra, nghiên cứu, thử nghiệm, bảo tồn nguồn tài nguyên quí giá này của chúng ta vẫn còn có nhiều hạn chế. Ngày 02/10/2017, UBND tỉnh Lào Cai đã ban hành Quyết định số 4240/QĐ- UBND về việc thành lập Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát. Bát Xát là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai với phần lớn dân số là các đồng bào dân tộc ít ngƣời có cuộc sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng, trong đó có các loài cây thuốc. Thuộc khu bảo tồn, có 3 dân tộc thiểu số là H’Mông, Dao, Hà Nhì sinh sống, đây cũng là những dân tộc có truyền thống và nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng các
  11. 2 loài cây thuốc phục vụ cho chữa bệnh. Tuy nhiên, việc khai thác cây thuốc của đồng bào dan tộc nơi đây thƣờng là khai thác không định hƣớng, điều này sẽ gây ra những ảnh hƣởng tiêu cực đối với nguồn tài nguyên này cũng nhƣ tới công tác bảo vệ phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên của Khu BTTN Bát Xát nói riêng và của cả hụyện Bát Xát nói chung. Mặt khác, kinh nghiệm sử dụng các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc nơi đây hiện nay chủ yếu chỉ có ở ngƣời lớn tuổi, thƣờng họ chỉ truyền lại cho con cái khi họ sắp qua đời, do đó những kinh nghiệm dân gian này đang ngày càng bị mai một. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu thực trạng nguồn tài nguyên cây thuốc tại khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát, tỉnh Lào Cai” nhằm mục đích làm cơ sở để sử dụng hợp lý tài nguyên thực vật, góp phần vào công cuộc bảo tồn các loài thực vật và tri thức bản địa của Việt Nam cũng nhƣ trong khu vực.
  12. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nƣớc trên thế giới Trải qua nhiều thế kỷ, cây thuốc giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe và hạnh phúc của các cộng đồng ngƣời trên khắp thế giới. Các kinh nghiệm dân gian về sử dụng cây thuốc chữa bệnh đƣợc nghiên cứu ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của từng quốc gia. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu cây thuốc của các nƣớc đƣợc sử dụng rộng rãi và có giá trị thực tiễn lớn. Nói đến chữa bệnh bằng cây cỏ, ngƣời ta thƣờng nghĩ ngay tới Trung Quốc, đất nƣớc có nền Đông Y lâu đời. Theo truyền thuyết của vua Thần Nông tức Viêm Đế (3320-3080 trƣớc công nguyên - TCN) thì Thần Nông đã nếm hàng trăm loại cây cỏ, phân loại dƣợc tính của thảo mộc và soạn ra cuốn sách “Thần Nông bản thảo”. Cuốn sách đã thống kê đƣợc 365 vị thuốc có giá trị [ghi theo 45]. Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hƣơng, Tử đinh hƣơng để chế hƣơng nang để phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc gối (hƣơng chẩm) để điều trị chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời nhà Hán (năm 168 trƣớc Công nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phƣơng” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc trong tập “Bản thảo cƣơng mục”... [ghi theo 43]. Cho đến nay, Trung Quốc đã cho ra đời khá nhiều công trình về sử dụng các loài cây cỏ để chữa bệnh. Không chỉ có ở Trung Quốc, nhiều nƣớc khác cũng có những kinh nghiệm chữa bệnh lâu đời của họ. Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền đƣợc hình thành cách đây hơn 3000 năm. Chủ trƣơng của ngƣời Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas đƣợc viết vào năm 1.500 TCN và cuốn Charaka samhita đƣợc các thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas, trình bày cụ thể 350 loài thảo dƣợc. Trong số đó, có cây cần ami (Ammi visnaga) là loài thảo mộc có nguồn gốc từ Trung Đông, gần đây đƣợc chứng minh là có hiệu
  13. 4 quả trong điều trị bệnh hen suyễn, cây rau má (Centella asiatica) từ lâu đƣợc sử dụng để chữa bệnh phong, Đậu ba chẽ (Desmodium triangulare) sao vàng, sắc đặc để chữa kiết lị và tiêu chảy. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo dƣợc nhƣ tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử nghiệm độc tính, và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con ngƣời. Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng cây thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu dƣợc của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật. Từ thời cổ xƣa, các chiến binh La Mã đã biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe barbadensis) để rửa vết thƣơng, vết loét làm cho chúng chóng lành bệnh mà ngày nay khoa học đã chứng minh là dịch cây có khả năng làm liền sẹo thông qua sự kích thích tổ chức hạt và tăng nhanh quá trình biểu mô hóa. Ngƣời cổ Hy Lạp đã sử dụng rau Mùi tây (Coriandrum officinale) để đắp vết thƣơng cho mau lành. [ghi theo 45] Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu đƣợc các thầy tu sƣu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách “A Physical Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The English Physician”. Đây là cuốn dƣợc điển có giá trị và là một trong những cuốn sách hƣớng dẫn đầu tiên dành cho nhiều đối tƣợng sử dụng, ngƣời không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn đƣợc tham khảo và trích dẫn rộng rãi. [ghi theo 43] Galen (131-200 SCN), một thầy thuốc của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, có ảnh hƣởng sâu sắc đến sự phát triển của các vị thuốc bào chế từ thảo mộc. Galen đƣợc Hippocratrs chỉ dẫn và đã đặt các giả thuyết chữa bệnh của mình trên cơ sở khoa học thuyết bốn thể dịch (gồm bốn chất lỏng chính hay thể dịch tồn tại trong cơ thể con ngƣời nhƣ: máu, dịch mật, u sầu và đàm). Những ý tƣởng của ông có ảnh hƣởng to lớn đến việc chữa bệnh trong 1400 năm sau. Tại Ấn Độ và Trung Quốc, các phƣơng pháp trị bệnh tinh tế có phần tƣơng tự với học thuyết bốn thể dịch cũng đã phát triển và tồn tại cho tới ngày nay. [ghi theo 43]
  14. 5 Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của hàng triệu ngƣời. Tỷ lệ ngƣời làm nghề thuốc cổ truyền và các bác sĩ đƣợc đào tạo ở các trƣờng Đại học có liên quan tới toàn bộ dân số của các nƣớc châu Phi. Ƣớc tính số lƣợng thầy lang ở Tanzanmia có khoảng 30.000 – 40.000 ngƣời, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng 600 ngƣời. Tƣơng tự ở Malawi có khoảng gần 20.000 ngƣời làm nghề thuốc cổ truyền nhƣng số lƣợng bác sĩ rất ít. Nền y học cổ truyền ở các quốc gia Châu Phi có ảnh hƣởng lớn đến sức khỏe cộng đồng. Từ lâu, ngƣời Haiiti thƣờng dùng cây Cỏ lào (Eupatorium odoratum) để làm thuốc chữa những vết thƣơng bị nhiễm khuẩn, cầm máu, áp xe, nhức răng, vết loét lâu ngày không liền sẹo. Ở Pêru, ngƣời ta dùng hạt của cây Sen cạn (Tropaeolum majus L.) để trị phổi và đƣờng tiết niệu. Ở Philippin, ngƣời ta sử dụng cây Bồ cu vẽ (Breynia fructicosa) lấy vỏ sắc làm thuốc cầm máu hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét làm chúng chóng khỏi. Ở Malaixia, cây Húng chanh (Coleus amboinicus) dùng lá sắc cho phụ nữ sau khi sinh đẻ uống hoặc giã nhỏ, vắt nƣớc cột cho trẻ em uống trị sổ mũi, đau họng, ho gà. Ở Cămpuchia, Malaixia ngƣời ta dùng Hƣơng nhu tía (Ocimum sanctum), trong đó rễ trị đau bụng, sốt rét; nƣớc lá tƣơi có tác dụng long đờm hoặc giã nát đắp trị bệnh ngoài da, khớp. Trong chƣơng trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực Đông Nam Á, Perry đã ghi nhận những cây thuốc trong Y học cổ truyền và các loài cây này đã đƣợc các nhà khoa học kiểm chứng, trong đó có 146 loài có tính kháng khuẩn [ghi theo 45]. Hay gần đây, tập thể các nhà khoa học đã cho ra đời cuốn sách Tài nguyên các loài cây thuốc ở Đông Nam Á “Plant Resources of South-East Asia, Medicinal and poisonous Plant (2001)” với gần 1000 loài cây [ghi theo 43]. Cùng với phƣơng thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các nhà khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có
  15. 6 mặt phổ biến trong thực vật nhƣ phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid, flavonoid, saponin… Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã đƣợc giải mã về cấu trúc, những hợp chất này đƣợc chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc đƣợc giải mã, ngƣời ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall (1950) đã phân lập đƣợc chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất này có tác dụng với vi khuẩn lao ở ngƣời và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta), ngƣời ta đã chiết xuất đƣợc berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập đƣợc một hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhƣng lại có tác dụng kháng khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+ và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp đƣợc chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thƣ, đƣợc chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin đƣợc chiết xuất từ cây Dƣơng địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin đƣợc chiết xuất từ cây Sừng dê (Strophanthus spp.) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác dụng chữa bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp. Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì đến năm 1985, có trên 20.000 loài thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp đƣợc sử dụng trực tiếp làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc (trong tổng số 250.000 loài đã biết). Trong đó, vùng nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 loài, vùng nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500 loài thực vật có hoa đƣợc dùng làm thuốc. Mức độ sử dụng thuốc thảo dƣợc ngày càng cao [ghi theo 48]. Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phƣơng pháp y học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ. Trung Quốc là nƣớc đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển nên trong số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000 loài) là đƣợc sử dụng theo
  16. 7 kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đât nƣớc này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu đƣợc điều trị tại chỗ bằng thảo dƣợc. Tỷ lệ dân số tin tƣởng vào hiệu quả sử dụng thảo dƣợc và các biện pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở Châu Âu, Bắc Mỹ, và một số nƣớc khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phƣơng thuốc có nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla. [ghi theo 45] Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con ngƣời trong việc chăm sóc sức khỏe ngày một tăng, nhƣng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm. Nhiều loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động trực tiếp và gián tiếp của con ngƣời. Theo tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ quan này lƣu giữ thông tin có tới 30.000 loài đƣợc coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau. Trong đó có nhiều loài là cây thuốc quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng hạn nhƣ ở Bangladesh, một số cây thuốc quý nhƣ Tylophora indicia để chữa hen, Zannia indicia (thuốc tẩy xổ)…trƣớc đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi. Loài Ba gạc (Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị trƣờng Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên tục nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy, một số bang ở Ấn Độ đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này [ghi theo 48]. Vào những năm 1960, Trung Quốc đã thiết lập đƣợc một hệ thống gồm “các bác sĩ chân đất” nhằm phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của hàng triệu ngƣời dân các vùng nông thôn. Chính nhờ vậy, mà nền Y học Cổ Truyền Trung Quốc đƣợc củng cố và phát triển mạnh với nhiều phƣơng thuốc chữa bệnh đƣợc ghi chép trong nhiều tác phẩm. Trong cuốn sách “Cây thuốc Trung Quốc” xuất bản năm 1985 đã liệt kê một loạt các cây cỏ chữa bệnh nhƣ: cây gấc (Momordica cochinchinensis) có rễ chữa nhọt độc, viêm tuyến hạch, hạt chữa trị sƣng tấy đau khớp, sốt rét, vết
  17. 8 thƣơng tụ máu; cải soong (Nasturtium officinale) giải nhiệt, chữa lở mồm, chảy máu chân răng, bƣớu cổ. Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lƣợng của các loài cây thuốc trƣớc hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dƣợc liệu và do môi trƣờng sống của chúng bị hủy diệt bởi các hoạt động của con ngƣời. Đặc biệt, ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao của thế giới nhƣng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu của tổ chức Nông Lƣơng (FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940 – 1980), diện tích của các loại rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ƣớc tính khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy. Trong thế kỷ 21, với mục đích phục vụ sức khỏe con ngƣời, sự phát triển của xã hội, chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông Y với Tây Y, giữa Y học hiện đại và Y học cổ truyền của các dân tộc. Chính những kinh nghiệm của các dân tộc chính là chìa khóa giúp chúng ta khám phá ra nhiều loại thuốc mới cho tƣơng lai. Chính vì điều đó mà việc bảo tồn, khai thác và phát triển các loài cây thuốc cần đƣợc chú ý quan tâm. [ghi theo 45] 1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam Cũng nhƣ các dân tộc khác, nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu đời, nhiều phƣơng thuốc bào chế từ cây thuốc đƣợc áp dụng chữa bệnh trong dân gian. Những kinh nghiệm này đã đƣợc ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và lƣu truyền rộng rãi trong nhân dân. Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm, Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú. Ƣớc tính, nƣớc ta có khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch, 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn 2.000 loài tảo. Có khoảng gần 4.000 loài thực vật bậc cao dùng làm thuốc [48]. Ngoài sự phong phú về thành phần chủng loại, nguồn dƣợc liệu Việt Nam còn có giá trị to lớn ở chỗ chúng đƣợc sử dụng rộng rãi trong cộng đòng để chữa nhiều chứng bệnh khác nhau. Cây thuốc đƣợc sử dụng dƣới hình thức độc vị hay phối hợp với nhau tạo nên các bài thuốc cổ phƣơng, còn tồn tại và thịnh hành đến ngày nay. Ngoài ra hàng trăm cây thuốc đã đƣợc khoa học Y dƣợc hiện đại chứng minh về giá trị chữa bệnh của chúng. Nhiều loại thuốc đƣợc chiết xuất từ dƣợc liệu Việt Nam
  18. 9 nhƣ rutin, D strophantin, berberin, palmatin, artemisinin... đã đƣợc sử dụng rộng rãi trong nƣớc và xuất khẩu. Xu hƣớng đi sâu nghiên cứu, xác minh các kinh nghiệm của y học cổ truyền và tìm kiếm các hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học cao để làm thuốc từ dƣợc liệu ngày càng đƣợc thế giới quan tâm. Ngƣợc thời gian, ngay từ thời Hồng Bàng và các vua Hùng Vƣơng (năm 240- 258 trƣớc Công nguyên) qua các văn tự hán nôm còn sót lại, tổ tiên ta đã biết dùng cây cỏ làm gia vị, kích thiết sự ngon miệng và chữa bệnh. Theo Long Úy chép lại, vào đầu thế kỷ thứ 2 trƣớc Công nguyên, có hàng trăm vị thuốc từ đất Giao Chỉ nhƣ Ý dĩ (Coix lachryma-jobi), Hoắc hƣơng (Pogostemon cablin), hay việc tìm ra bột đao trong than cây Báng, quả Cọ, Móc có chất bổ ăn để chống đói; dùng Gừng ăn với chim, cá, ba ba cho đỡ tanh và dễ tiêu hoá, từ đó đã bắt nguồn tục dùng Gừng, Hành, Tỏi,… làm gia vị trong bữa ăn hàng ngày để phòng bệnh. [ghi theo 39]. Vào thế kỷ XVI, danh y Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) là ngƣời có công phát triển nền y dƣợc học Việt Nam tới đỉnh cao. Cuốn sách thuốc đầu tiên của ông đƣợc nhiều ngƣời biết đến là cuốn “Nam dƣợc thần hiệu” với 11 quyển, nói tới công dụng của 496 vị thuốc Nam. Tác phẩm tiếp theo cũng gây đƣợc tiếng vang đó là “Hồng nghĩa giác tứ y thƣ” với hai bài Hán Nôm, trong đó có tóm tắt công dụng của 130 loài cây thuốc cùng cách chữa trị 37 chứng sốt khác nhau. Hai cuốn sách này đƣợc xem là những cuốn sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam [ghi theo 49]. Đến thế kỷ 18, Hải Thƣợng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết về các loài thực vật, các đặc tính chữa bệnh [ghi theo 49]. Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam chịu nhiều ảnh hƣởng của dƣợc học phƣơng Tây. Các phƣơng thức chữa bệnh mới đƣợc mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc đẩy quá trình nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây thuốc nói riêng. Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cƣơng Đông Dƣơng” của Lecomte (chủ biên) xuất bản cuối thể kỷ 18 đầu thể kỷ 19 đã mô tả và phân loại hơn 7.000 loài thực vật. Bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở Đông Dƣơng” của C. Crévost và A. Pétélot
  19. 10 năm 1935 đã thống kê đƣợc 1.340 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc đƣợc dùng trong y học của Đông Dƣơng [ghi theo 50]. Tuy nhiên, cuốn sách này chƣa hoàn thiện về mô tả, phân bố, thành phần hóa học và dƣợc lý của các loại thảo mộc. Trong thời gian 1962-1965, Đỗ Tất Lợi đã tổng hợp các công trình khoa học đã công bố và các kết quả nghiên cứu của các nhân để biên soạn bộ sách “Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gốm 6 tập. Năm 1995, tác giả bổ sung và hoàn thiện công trình nêu trên, trong đó giới thiệu hơn 800 loài động vật và thực vật làm thuốc, trong đó nhiều loài thực vật đã đƣợc mô tả về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng. Đây là bộ sách có giá trị lớn về mặt khoa học, kết hợp giữa khoa học dân gian với khoa học hiện đại [32]. Cùng thời gian này, nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu về thành phần loài và công dụng của các cây thuốc ở nƣớc ta. Các công trình nghiên cứu lần lƣợt đƣợc công bố phục vụ cho việc sử dụng và phát triển cây thuốc nhƣ : + Vũ Văn Chuyên (1966) cho công bố tập “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc” (cuốn sách này đƣợc tái bản lần thứ hai vào năm 1976) [12]. + Phạm Hoàng Hộ (1991-1993) đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” đã giới thiệu đƣợc công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [22]. Theo số liệu điều tra của Viện Dƣợc liệu (2001), nƣớc ta có 3.800 loài cây thuốc. Dự đoán số loài cây thuốc của Việt Nam nếu đƣợc nghiên cứu đầy đủ sẽ có thể lên tới 6.000 loài. Nhƣ vậy, tiềm năng cây thuốc của nƣớc ta là rất dồi dào [48]. Võ Văn Chi (1997) trong cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, đã mô tả đƣợc 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 loài thuộc 1.050 chi, đƣợc xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của Takhtajan. Tác giả đã trình bày về cách nhận biết, các bộ phận đƣợc sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa học, tính vị và tác dụng, công dụng của các loài thực vật, cốn sách này mới đây đƣợc tái bản có bổ sung (năm 2012) với số lƣợng loài cây thuốc lên tới 4700 loài [7, 8]. Đến năm 1999-2000, Võ Văn Chi và Trần Hợp tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” (2 tập) mô tả khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có mạch với các đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố và công dụng [10].
  20. 11 Nguyen Van Duong (1993), đã xuất bản cuốn “Medicinal plants of Vietnam, Cambodia and Laos”, trong đó có 879 loài cây thuốc đƣợc mô tả [52]. Trần Đình Lý (1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây có ích”. Trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 chứa tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số các nhóm thực vật này, rất nhiều loài có công dụng làm thuốc. [ghi theo 45]... Bên cạnh đó, nhiều cuốn sách có giá trị trong nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam nhƣ Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ sách “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” [2] [44]. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các thông tin về tên khoa học, tên thƣờng gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh thái và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu hệ thực vật nói chung và tra cứu thành phần loài cây thuốc nói riêng. Trong nghiên cứu cây thuốc, không thể không kể đến nhiều bộ công trình có giá trị của Viện Dƣợc liệu (Bộ Y tế) là: + Đỗ Huy Bích và Bùi Xuân Chƣơng (1980) với “Sổ tay cây thuốc Việt Nam” đã giới thiệu 159 loài cây thuốc. + Tập thể các tác giả Viện Dƣợc Liệu (1993) cho ra đời cuốn “Tài nguyên Cây thuốc Việt nam” với khoảng 300 loài cây thuốc đang đƣợc khai thác và sử dụng ở các mức độ khác nhau trong toàn quốc [46]; đến năm 1994 xuất bản cuốn “Dƣợc điển Việt Nam, 2 tập”; năm 2001 với “Selected medicinal plants in Vietnam”; năm 2004 với “Cây thuốc và động vật là thuốc ở Việt Nam, 2 tập” [ghi theo 46, 47, 48]. Trong những năm qua, nhà nƣớc Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu tƣ cho công tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ truyền, phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Các ngành Y tế, Lâm nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều tra cơ bản, đặc biệt là chƣơng trình điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện Dƣợc liệu – Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm vi toàn quốc. Theo điều tra, cho đến năm 2004 ở nƣớc ta có khoảng 3.948 loài cây thuốc đƣợc ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật bậc cao và bậc thấp, bao
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2