intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý tài nguyên và môi trường: Đánh giá đa dạng thực vật Vườn Quốc gia Vũ Quang

Chia sẻ: Tri Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

21
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm 2 mục tiêu: Xác định các loài thực vật bậc cao có mạch và hệ thống hoá tài liệu theo Brummitt, (1992); xác định yếu tố địa lý, phổ dạng sống và xác định giá trị tài nguyên của hệ thực vật ở Vườn Quốc gia Vũ Quang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý tài nguyên và môi trường: Đánh giá đa dạng thực vật Vườn Quốc gia Vũ Quang

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ---------- ĐINH TRẦN TÂN ĐÁNH GIÁ ĐA DẠNG THỰC VẬT VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG, HÀ TĨNH Chuyên ngành: Quản lý tài nguyên & Môi trường Mã số: 60. 62. 68 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI, THÁNG 9 NĂM 2008
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ---------- ĐINH TRẦN TÂN ĐÁNH GIÁ ĐA DẠNG THỰC VẬT VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG, HÀ TĨNH Chuyên ngành: Quản lý tài nguyên & Môi trường Mã số: 60. 62. 68 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Trung Thành HÀ NỘI, THÁNG 9 NĂM 2008
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong xu thế phát triển kinh tế theo hướng bền vững, không chỉ ở trên thế giới mà ở Việt Nam hiện nay đã và đang áp dụng phát triển kinh tế và bảo tồn đa dạng sinh học. Bởi môi trường chúng ta đang sống, thức ăn hàng ngày, những vật dụng và cảnh quan thiên nhiên, v.v. đều có nguồn gốc từ sinh vật. Giá trị của đa dạng sinh vật mang lại cho đời sống con người rất đa dạng và phong phú, ngoài giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp mà chúng ta đã xác định được, nó còn có giá trị khổng lồ mà cả nhân loại hiện nay chưa tìm hiểu và sử dụng hết được. Chính vì thế bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) là việc làm cần thiết, nó mang tính đạo đức của thế hệ hiện tại dành cho thế hệ tương lai tìm hiểu, khai thác sử dụng nguồn ĐDSH cho sự phát triển của nhân loại. Những việc làm cụ thể, được thể hiện qua việc các Quốc gia đã ký Công ước bảo tồn ĐDSH tại Hội nghị thượng đỉnh Rio de Janeiro, 1992 “Công ước về Bảo tồn ĐDSH là cái mốc đánh dấu cam kết của các quốc gia trên thế giới về bảo tồn ĐDSH, bảo đảm sử dụng một cách bền vững nguồn tài nguyên sinh vật và nguồn lợi thu được phải phân chia công bằng” [33] Khai thác và sử dụng tài nguyên sinh vật là việc làm cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Nhưng trong những năm qua do sức ép về dân số tăng nhanh, nhu cầu về lương thực, gỗ, củi… tăng nhiều lần. Đồng thời công nghiệp phát triển đòi hỏi rất nhiều nguyên, nhiên liệu. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông mở rộng đã đẩy nhanh tốc độ khai phá tài nguyên rừng. Chiến tranh, thiên tai, hoả hoạn cũng là nguyên nhân làm giảm diện tích và chất lượng của rừng.
  4. 2 Việt Nam có 3/4 diện tích lãnh thổ là rừng, với dãy Trường Sơn kéo dài từ Bắc đến Nam và hai vùng lưu vực sông lớn là sông Hồng và sông Mêkông. Ngoài ra, còn rất nhiều hệ thống lưu vực sông nhỏ dọc bờ biển, nhiều đỉnh núi cao, điển hình là đỉnh Phan si Phăng cao 3143m, được coi là nóc nhà của Đông Dương. Những yếu tố thuỷ văn, địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu cùng với các yếu tố sinh thái đã tạo nên những thảm thực vật rừng quanh năm tươi tốt, dày đặc, đa dạng và phong phú mang những nét đặc trưng riêng như một thành phần quan trọng của môi trường sinh thái. Việt Nam được đánh giá là một trong những trung tâm của ĐDSH của thế giới, hệ thực vật ước tính khoảng 12.000 loài, thực vật bậc cao có mạch, nhưng hiện chỉ mới thống kê được 9.628 loài (chiếm 80%) thuộc 2.010 chi và 291 họ (Phan Kế Lộc, 1997). Trong đó gần 1.000 loài đặc hữu trong nước, 1.000 loài có khả năng cung cấp gỗ, 352 loài có giá trị thương mại cao, 50 loài có chất lượng gỗ tốt và 42 loài quí hiếm. Có khoảng 76 loài cung cấp hương liệu, 600 loài cung cấp tanin, 160 loài chứa dầu thực vật và nhiều loài cây dược liệu như Sâm Ngọc Linh, Vàng đằng, Hoàng liên, Tam thất, Sa nhân. Về động vật có 273 loài thú, 180 loài bò sát, 773 loài chim, 80 loài Ếch, Nhái và hàng ngàn động vật không sương sống [12]. Việt Nam, hiện được coi là trung tâm ĐDSH còn nhiều bí ẩn nhất của thế giới, qua việc phát hiện 2 trong tổng số 7 loài thú lớn có vú trên thế giới. Đó là Sao la hay Dê sừng dài (Pseudoryx nghetinhensis) và Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis). Nhận thức được vai trò quan trọng của rừng và ĐDSH, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách và hành động nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ngay từ năm 1962 khu rừng cấm Cúc Phương được thành lập, sau này đổi thành Vườn Quốc gia (VQG). Từ đó đến nay hệ thống các khu
  5. 3 rừng đặc dụng đã được hình thành với 128 khu, bao gồm 30 VQG, 48 khu dự trữ thiên nhiên, 12 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, 38 khu văn hoá, lịch sử và môi trường. [9] Vườn Quốc gia Vũ Quang được thành lập theo Quyết định số 102/2002/QĐ- TTg, ngày 30 tháng 7 năm 2002 về việc chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang thành VQG Vũ Quang, diện tích 55.058 ha. Vườn Quốc gia Vũ Quang nằm trong vùng Bắc Trung bộ được coi là 1 trong 200 vùng sinh thái trọng yếu của thế giới, là một mắt xích quan trọng trong chuỗi các khu bảo tồn tạo nên môi trường sống hết sức quan trọng cho hệ động thực vật, vì các khu vực nằm rải đến tận phía Nam và Bắc VQG trong địa phận Việt Nam và đến phía Tây thuộc địa phận nước Lào. VQG Vũ Quang là khu vực đầu nguồn quan trọng của tỉnh Hà Tĩnh, vì ba nhánh sông của con sông lớn nhất tỉnh bắt nguồn từ VQG Vũ Quang. Ngoài giá trị về bảo tồn ĐDSH, VQG Vũ Quang còn có ý nghĩa lịch sử. Trong thời kỳ 1885- 1896, nhà hoạt động chính trị Việt Nam, ông Phan Đình Phùng đặt căn cứ chống Pháp ở nơi này. Đánh giá ĐDSH là thể hiện số lượng các loài và số lượng cá thể từng loài là bao nhiêu trong họ, bộ, ngành; các kiểu gen và hệ sinh thái. Ngoài ý nghĩa về kinh tế xã hội và khoa học, việc đánh giá ĐDSH giúp cho nhà quản lí chọn và ưu tiên bảo tồn những nơi có ĐDSH cao và phong phú. Vì vậy, đề tài chúng tôi đã chọn đề tài:“Đánh giá đa dạng thực vật Vườn Quốc gia Vũ Quang” nhằm mục đích: - Xác định các loài thực vật bậc cao có mạch và hệ thống hoá tài liệu theo Brummitt, (1992); - Xác định yếu tố địa lý, phổ dạng sống và xác định giá trị tài nguyên của hệ thực vật ở Vườn Quốc gia Vũ Quang.
  6. 4 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC THỰC VẬT 1.1. NHẬN THỨC VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC Trái đất ngày càng nóng lên, băng tan, thiên tai lũ lụt xuất hiện với mật độ càng nhiều và trên diện rộng gây ảnh hưởng to lớn đến đời sống của toàn nhân loại. Nguyên nhân do ô nhiễm môi trường, mất rừng, suy thoái đa dạng sinh học, v.v. Nhận thức được vấn đề trên các nhà lãnh đạo trên thế giới đã cùng ngồi bàn về môi trường và đa dạng sinh vật tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil năm 1992, có 50 nước đã ký vào Công ước. Việt Nam chính thức tham gia công ước ngày 16/11/1994, đến nay đã có 170 nước tham gia Công ước. Nhiều tổ chức quốc tế được thành lập, như: Hiệp hội Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (IUCN); Quỹ Quốc tế về bảo vệ thiên nhiên hoang dã (WWF); Quỹ động thực vật thế giới (FFI), v.v. Thuật ngữ ĐDSH mới được biết đến vào đầu thế kỷ 20 và thật sự phát triển mạnh trong thập niên 90 trở lại đây, trong chương trình hành động đa dạng sinh học Việt Nam [12] đưa ra khái niệm về đa dạng sinh học “Là tập hợp tất cả các nguồn sinh vật sống trên hành tinh bao gồm tổng số các loài động và thực vật; tính đa dạng và sự phong phú trong từng loài, tính đa dạng hệ sinh thái của các cộng đồng sinh thái khác nhau hoặc tập hợp các loài khác nhau trên thế giới với các hoàn cảnh khác nhau”. Định nghĩa này đã đề cập được ba vấn đề: Đa dạng loài; đa dạng giữa các loài và đa dạng hệ sinh thái, tuy nhiên định nghĩa còn dài, không rõ ràng, dễ nhầm lẫn. Tại Hội nghị Rio de janeiro (1992) đưa ra định nghĩa về ĐDSH như sau: “Đa dạng sinh học là sự biến đổi giữa các sinh vật ở tất cả mọi nguồn, bao gồm hệ sinh thái trên đất liền, trên biển và các hệ sinh thái thủy vực khác. Sự đa dạng
  7. 5 thể hiện trong từng loài, giữa các loài và các hệ sinh thái”. Định nghĩa này tương đối đầy đủ và rõ ràng. Qua các định nghĩa ta có thể hiểu đa dạng sinh học bao gồm các vấn đề sau: 1. Đa dang di truyền 2. Đa dạng về loài 3. Đa dạng về hệ sinh thái 1.2. TỔNG QUAN VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC 1.2.1. Nghiên cứu về hệ thực vật 1.2.1.1. Ở trên thế giới Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đa dạng nói chung và đa dạng thực vật nói riêng, song ở đây chỉ nêu một số công trình tiêu biểu đó là: Thực vật chí Honkong (1861); thực vật chí Australia (1866); thực vật chí Ấn độ, gồm 7 tập (1872- 1897); thực vật chí Hải Nam (1972-1977); thực vật chí Vân Nam (1977), v.v. Các bộ thực vật chí tuy nghiên cứu ở mỗi Quốc gia hay vùng lãnh thổ khác nhau nhưng việc mô tả, thống kê các loài có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá ĐDSH của khu vực nghiên cứu và trên toàn thế giới. 1.2.1.2. Ở Việt Nam Trong khoảng nửa đầu thế kỷ 20 trở về trước, các công trình nghiên cứu về thực vật đều do các tác giả nước ngoài thực hiện như: Thực vật rừng Nam bộ của Loureiro (1790); Thực vật chí Nam bộ của Pierre (1879). Có ý nghĩa nhất là “Thực vật chí Đông Dương” của Lecomte đã thống kê được hơn 7.000 loài, trong tác phẩm này tác giả đã thu mẫu và định tên, lập khoá mô tả các loài thực
  8. 6 vật có mạch trên toàn lãnh thổ Đông Dương [38]. Năm 1965 trong công trình về Rêu của Pocts đã công bố 556 loài có ở Bắc Việt Nam [34]… Những công trình trên mới chỉ dùng lại ở thống kê số lượng các loài như miền bắc, miền Nam, Việt Nam hoặc toàn vùng Đông Dương, chưa đi sâu nghiên cứu về thảm thực vật. Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, các tác giả Việt Nam đã nghiên cứu và công bố các công trình về hệ thực vật như: Bộ cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng hộ (1970-1972), đã đề cập 5.326 loài thực vật và tái bản năm (1991-1993; 1999- 2000) [10] gồm 3 tập, tác giả đã mô tả được 10.500 loài. Trong tác phẩm “Một số đặc điểm cơ bản của hệ thực vật Việt Nam” do Lê Trần Chấn, chủ biên đã tổng hợp được 10.193 loài, ít hơn 307 loài so với Phạm Hoàng Hộ (1991-1993) điều này được tác giả giải thích “Sở dĩ có sự khác nhau này do một số là thứ, nhưng Phạm Hoàng Hộ vẫn tính là một loài, hoặc có một số trùng tên, còn so với bộ Thực vật chí Đại cương Đông Dương được Thái Văn Trừng thống kê (1978) đã tăng được 3.188 loài”[5]; 7 tập cây gỗ Việt Nam (1970-1988) [31] do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng công bố; Năm 1993, Trần Đình lý và tập thể đã công bố 1900 cây có ích ở Việt Nam [19]; Võ Văn Chi, (1997) đã công bố từ điển cây thuốc Việt Nam [6] Hiện nay, các tác giả có xu hướng đi sâu nghiên cứu hệ thực vật của địa phương, khu bảo tồn, vườn quốc gia hoặc các họ, cụ thể là: Phạm Hoàng Hộ (1985) đã xuất bản “Danh lục thực vật Phú Quốc”; Phùng Ngọc Lan và Cộng sự, đã công bố hệ thực vật Cúc Phương có 1.983 loài, 915 chi, 229 họ [13]; Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thanh Nhàn, trong công trình nghiên cứu đa dạng thực vật núi đá vôi Vườn Quốc gia Pù Mát, công bố 494 loài, 323 chi, 112 họ… hoặc một số họ tiêu biểu đã được nghiên cứu, như: Euphorbiaceae Việt Nam của
  9. 7 Nguyễn Nghĩa Thìn (1999), Annonaceae Việt Nam của Nguyễn Tiến Bân (2000), v.v. Trên cơ sở những công trình phân loại đã công bố chính thức, Nguyễn Nghĩa Thìn, (1997) [24] đã thống kê toàn bộ hệ thực vật Việt Nam hiện biết được là 11.373 loài, thuộc 2.524 chi của 378 họ. Trong đó, số chi đặc hữu chiếm 3% và số loài đặc hữu chiếm 20%. Các loài, chi đặc hữu phân bố tập trung ở vùng núi cao Hoàng Liên Sơn, vùng rừng ẩm Bắc Trung bộ, vùng núi cao Ngọc Linh và Cao nguyên Lâm Viên. Theo dự đoán của các nhà khoa học thực vật Việt Nam có khoảng trên 12.000 loài, vì Việt Nam được coi là vùng còn nhiều tiềm ẩn cả về thực vật và động vật. Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ tạo điều kiện cho các nhà thực vật điều tra bổ sung và phát hiện loài mới, góp phần ngày một hoàn thiện danh lục thực vật Việt Nam và đi sâu nghiên cứu giá trị tiềm tàng của từng loài. 1.2.1.3. Ở Vũ Quang Vũ Quang được công nhận là Khu bảo tồn năm 1986 với tổng diện tích 16.000 ha và trở thành Vườn Quốc gia năm 2002 với diện tích được mở rộng lên 55.058 ha. Từ trước năm 1992 ở đây chưa có cuộc khảo sát nào và cũng chưa có tài liệu chính thức nào công bố về động, thực vật của Vũ Quang. Đến tận tháng 5 năm 1992, đoàn cán bộ của Bộ lâm nghiệp (nay là Bộ NN&PTNT) và Quỹ Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) đã phát hiện ra loài động vật mới là Pseudoryx nghetinhensis (Vũ Văn Dũng và cộng sự). Tháng 2/1993, trong một cuộc khảo sát khác đã phát hiện ra một loài thú mới khác là Megamuntiacus vuquangensis (Đỗ Tước và cộng sự). Việc phát hiện ra hai loài thú mới ở cùng một địa điểm khiến cả thế giới biết đến giá trị không thể sánh
  10. 8 được của nơi này. Kể từ đây các cuộc điều tra về thành phần loài thực vật và sinh cảnh được tiến hành thường xuyên, có quy mô hơn. Tháng 5 năm 1992, đoàn nghiên cứu khoa học đa ngành gồm cán bộ của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ NN&PTNT), FIPI, IEBR, Đại học Vinh và WWF khảo sát các loài Chim, Thú, các loài bò sát, lưỡng cư, bướm và các loài thực vật. Tháng 2-3 năm 1993, thành viên là cán bộ của FIPI, Cục Kiểm lâm và WWF, đã hoàn thành danh mục đầu tiên về các loài thú, chim, bò sát, lưỡng cư, cá, bướm và thực vật. Tháng 1 năm 1999, đoàn của dự án Bảo tồn Thiên nhiên (WWF), điều tra thực vật và xây dựng phòng lưu giữ tiêu bản trong khu Bảo tồn Thiên nhiên. Tổng hợp các nguồn từ điều tra thực địa và tiêu bản thực vật do Nguyễn Thu Hiền (1999) thu thập, được A.Kuznetsov và Vũ Văn Dũng hiệu đính và công bố trong cuốn “Quy hoạch không gian để Bảo tồn Thiên nhiên, Khu Bảo tồn Thiên nhiên Vũ Quang” với tổng số loài là 423 loài thực vật. Năm 2005, dự án đầu tư xây dựng và phát triển VQG Vũ Quang, do Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng Bắc Trung bộ đã công bố 523 loài, tăng 100 loài. Khi nghiên cứu “hệ thực vật bậc cao có mạch tại xã Hương Điền, thuộc VQG Vũ Quang”, do Phan Thị Thuý Hà đã xác định được 349 loài, thuộc 215 chi và 79 họ. Ngoài ra, còn có đoàn khảo sát của viện dược liệu điều tra về thành phần cây thuốc (chưa công bố), do Viện Sinh thái Tài nguyên Sinh vật điều tra họ Cau dừa, v.v. Theo ước tính của các nhà khoa học và so sánh với các khu bảo tồn, VQG ở khu vực lân cận: Khu bảo tồn sinh thái nhân văn vung cao (HEPA) có diện tích 326 ha, nằm giáp ranh giới với vườn thuộc xã Sơn Kim, đã ghi nhận 806 loài, 468 chi, 155 họ; VQG Pù Mát có 2.494 loài thực vật. Với điều kiện địa hình địa
  11. 9 mạo, vị trí địa lý và độ che phủ trên 90%, chúng ta có thể khẳng định hệ thực vật của VQG Vũ Quang không chỉ dừng lại ở con số 423 loài hay 523 loài, mà con số này phải lớn hơn rất nhiều.5 Sở dĩ số loài thực vật được công bố này rất ít so với tiềm năng của VQG, số liệu được tổng hợp từ các nhóm điều tra khác nhau và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, thời lượng khảo sát ít, chủ yếu thu thập các cây gỗ và loài có giá trị. Chưa quan tâm đến các loài thực vật ngoại tầng… Trong bản luận văn này, cũng xin đóng góp một phần nhỏ bé vào đánh giá ĐDSH của VQG Vũ Quang. Tuy nhiên, do thời gian còn hạn chế nên cũng chỉ dừng lại ở việc tổng hợp các công trình nghiên cứu trước, loại bỏ các loài cây trồng, chỉ ghi nhận những loài có trong tự nhiên, chỉnh lí các loài, chi, họ theo hệ thống phân loại của Brummitt (1992) và có điều tra bổ sung thêm một số loài mới. 1.2.2. Nghiên cứu về yếu tố địa lý thực vật Mỗi một loài thực vật đều có nguồn phát sinh khác nhau và trong hệ thực vật có các loài giống và khác nhau về nguồn gốc phát sinh, điều này phụ thuộc vào điều kiện môi trường và lịch sử của khu phân bố. Nghiên cứu yếu tố địa lý là tìm ra sự khác biệt giữa hai khu phân bố liền kề hay hai khu phân bố cách xa nhau, thông qua hai nhóm yếu tố sau: * Yếu tố đặc hữu là chỉ ra sự khác biệt giữa các hệ thực vật với nhau. * Yếu tố di cư là chỉ ra mối liên hệ giữa các hệ thực vật với nhau.
  12. 10 1.2.2.1. Ở trên thế giới Công trình “Góp phần nghiên cứu địa lý thực vật Đông Dương” của Gagnepain [37] có ý nghĩa quan trọng đối với hệ thực vật nói chung và hệ thực vật trên bán đảo Đông Dương nói riêng. Trong công trình này Ông đã xếp hệ thực vào các yếu tố sau: * Yếu tố đặc hữu bản địa 11,9% * Yếu tố Trung Quốc 33,8% * Yếu tố Xích Kim - Himalaya 18,5% * Yếu tố Malaysia và các nhiệt đới 15,0% * Yếu tố phân bố rộng và nhập nội 20,8% 1.2.2.2. Ở Việt Nam Năm 1965, Pocs Tamas [34] đã xây dựng phổ các yếu tố địa lý cho hệ thực vật ở miền Bắc Việt Nam, trong đó các yếu tố cũng như thành phần của chúng đều có sự thay đổi so với những kết quả nghiên cứu của Gagnepain, thể hiện như sau: * Nhân tố bản địa đặc hữu 39,90 % + Việt Nam 32,55 % + Đông Dương 7,35 % * Nhân tố di cư từ các vùng nhiệt đới 55,27 % + Trung Hoa 12,89 % + Ấn Độ và Himalaya 9,33 % + Malaysia - Indonesia 25,69 % + Các vùng nhiệt đới khác 7,36 %
  13. 11 * Nhân tố khác 4,83 % + Ôn đới 3,27 % + Thế giới 1,56 % + Nhân tố nhập nội, trồng trọt 3,08 % Năm 1978, Thái Văn Trừng [29] căn cứ vào bảng thống kê các loài của hệ thực vật Bắc Việt Nam đã cho rằng ở Việt Nam có 3% số chi và 27,5% số loài đặc hữu. Tuy nhiên, khi thảo luận tác giả đã gộp các nhân tố di cư từ Nam Trung Hoa và nhân tố đặc hữu bản địa Việt Nam làm một (45,7% cộng theo Gagnepain và 52,79% cộng theo Pócs Tamás) và căn cứ vào khu phân bố hiện tại, nguồn gốc phát sinh của loài đó đã nâng tỉ lệ các loài đặc hữu bản địa lên 50%, còn yếu tố di cư chiếm tỷ lệ 39% (trong đó từ Malaysia - Indonesia là 15%, từ Himalaya - Vân Nam - Quí Châu là 10% và từ Ấn Độ - Miến Điện là 14%), các nhân tố khác theo tác giả chỉ chiếm 11% (7% nhiệt đới, 3% ôn đới và 1% thế giới), nhân tố nhập nội vẫn là 3,08%. Trên cơ sở phân tích các yếu tố địa lý thực vật ở nhiều địa phương trên toàn quốc, kết hợp với những đánh giá, nhận xét về địa lý thực vật Việt Nam, Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [24] đã tổng hợp và kết luận hệ thực vật Việt Nam được cấu thành bởi các yếu tố sau: 1. Đặc hữu Việt Nam: Trong giới hạn của Việt Nam. 2. Đông Dương: Ba nước Đông Dương và đôi khi có thể gặp ở Thái Lan. 3. Đông Nam Á: Vùng nhiệt đới châu Á từ lục địa Đông Nam Á (Myanma, Thái Lan, Đông Dương và Tây Nam, Nam Trung Hoa), đến Malaysia, Inđônêxia, Philippine, Niu Ghinê và mở rộng tới Phigi và các đảo nam Thái Bình Dương nhưng không bao giờ tới châu Úc ở phía Nam và Ấn Độ ở phía Tây.
  14. 12 4. Đông Dương - Hyamalya nhiệt đới: Vùng nhiệt đới châu Á từ chân Himalaya, Myanma, Thái Lan, Đông Dương và Tây Nam Trung Hoa một số chúng có thể mở rộng đến bán đảo Malaysia ở phía Nam. Đây là nhóm thực vật phân bố chủ yếu trên núi cao. 5. Nhiệt đới châu Á (Indo - Malêsia): Vùng nhiệt đới châu Á từ Ấn Độ, Srilanca, Myanma, Thái Lan, Đông Dương và Tây Nam và Nam Trung Hoa (Lục địa châu Á) , Inđônêxia, Malaysia, Philippine đến Niu Ghinê và mở rộng tới Phigi và các đảo Nam Thái Bình Dương (vùng Malêsia) nhưng không bao giờ tới châu Úc. 6. Nhiệt đới châu Á và châu Úc: Vùng nhiệt đới châu Á tới châu úc và các đảo lân cận. Nó nằm cánh đông của Cổ nhiệt đới và mở rộng đến các đảo Ấn Độ nhưng không bao giờ tới lục địa châu Phi. 7. Yếu tố Ôn đới: Ôn đới châu Âu, châu Á và có thể mở rộng tới mà ở vùng núi nhiệt đới châu Phi và châu Úc. 8. Cổ nhiệt đới: Vùng nhiệt đới châu Á, châu Úc, châu Phi và các đảo lân cận. 9. Liên nhiệt đới: Vùng nhiệt đới của các châu: Á, Úc, Phi và Mỹ. Một số có thể mở rộng tới vùng ôn đới. 9.1. Nhiệt đới châu Á và Mỹ: Vùng nhiệt đới châu Á đến vùng nhiệt đới châu Mỹ, một số có thể mở rộng tới Đông Bắc châu Úc và các đảo Tây Nam Thái Bình Dương. 9.2. Nhiệt đới châu Á và châu Phi: Vùng nhiệt đới châu Á, châu Phi và các đảo lân cận. Đây là cánh Tây của vùng Cổ nhiệt đới và có thể mở rộng tới Phi-gi và các đảo nam Thái Bình Dương nhưng không bao giờ tới châu Úc. 10. Yếu tố toàn cầu: Khắp nơi trên thế giới
  15. 13 11. Yếu tố cây trồng: Gồm những cây đã được thuần hoá và trồng rộng rãi. Trong bản luận văn này, chúng tôi sắp xếp các yếu tố địa lý theo hệ thống của Nguyễn Nghĩa Thìn, (1997) và được mã hoá theo thứ tự trong phần Phụ lục 7: Danh lục thực vật VQG Vũ Quang. 1.2.2.3. Ở Vũ Quang Trong chuyên đề “Điều tra hệ thực vật VQG Vũ Quang” do Phân viện Điều tra Quy hoạch rừng Bắc trung bộ xây dựng và đề tài cao học của Phan Thị Thuý Hà về “Hệ thực vật bậc cao có mạch tại xã Hương Điền - thuộc VQG Vũ Quang” đã có đưa ra một số yếu tố địa lý của hệ thực vật. Tuy nhiên, hai công trình này khi đánh giá yếu tố thực vật chưa đầy đủ do không thống nhất về hệ thống sắp xếp, số lượng thực vật còn ít, hạn chế về diện tích vì chỉ đánh giá hệ thực vật của một xã thuộc vườn, không đại diện cho hệ thực vật của VQG Vũ Quang. Chính vì vậy, trong luận văn này chúng tôi muốn đưa ra đánh giá yếu tố địa lý thực vật của vườn đầy đủ và theo hệ thống của Nguyễn Nghĩa Thìn, (1997) [24]. 1.2.3. Nghiên cứu về phổ dạng sống của hệ thực vật D¹ng sèng lµ kÕt qu¶ qu¸ tr×nh thÝch nghi cña thùc vËt víi ®iÒu kiÖn m«i tr­êng. V× vËy, viÖc nghiªn cøu d¹ng sèng sÏ cho thÊy mèi quan hÖ chÆt chÏ cña c¸c d¹ng sèng víi ®iÒu kiÖn tù nhiªn cña tõng vïng vµ biÓu hiÖn sù t¸c ®éng cña ®iÒu kiÖn sinh th¸i ®èi víi tõng loµi thùc vËt, mÆt kh¸c ®©y lµ chØ tiªu quan träng ®Ó so s¸nh c¸c hÖ thùc vËt víi nhau.
  16. 14 1.2.3.1. Ở trên thế giới Trªn thÕ giíi, ng­êi ta th­êng dïng thang ph©n lo¹i cña Raunkiaer [36] vÒ phæ d¹ng sèng, th«ng qua dÊu hiÖu vÞ trÝ chåi so víi mÆt ®Êt trong thêi gian bÊt lîi cña n¨m. Thang ph©n lo¹i nµy gåm 5 nhãm d¹ng sèng c¬ b¶n. 1. C©y cã chåi trªn ®Êt (Ph) 2. C©y chåi s¸t ®Êt (Ch) 3. C©y chåi nöa Èn (H) 4. C©y chåi Èn (Cr) 5. C©y chåi mét n¨m (Th) Trong ®ã c©y chåi trªn ®Êt (Ph) ®­îc chia thµnh 7 d¹ng nhá: a. C©y gç lín cao trªn 30m (Meg) b. C©y lín cã chåi trªn ®Êt cao 8 - 30m (Mes) Raunkiaer còn gộp hai nhóm (Meg) và (Mes) thành nhóm cây gỗ lớn và vừa có chồi trên đất (MM) c. C©y nhá cã chåi trªn ®Êt 2 - 8m (Mi) d. C©y cã chåi trªn ®Êt lïn d­íi 2m (Na) e. C©y cã chåi trªn ®Êt leo cuèn (Lp) f. C©y cã chåi trªn ®Êt sèng nhê vµ sèng b¸m (Ep) g. C©y cã chåi trªn ®Êt th©n th¶o (Hp) Raunkiaer ®· tÝnh to¸n cho h¬n 1.000 loµi c©y ë c¸c khu vùc kh¸c nhau trªn toµn thÕ giíi ®Ó lËp thµnh phæ d¹ng sèng tiªu chuÈn (ký hiÖu SN). SN = 46Ph + 9Ch + 26 He + 6Cr + 13Th
  17. 15 §ã lµ c¬ së ®Ó so s¸nh phæ d¹ng sèng cña c¸c hÖ thùc vËt ë c¸c vïng kh¸c nhau. 1.2.3.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, trong công trình nghiên cứu hệ thực vật Bắc Việt Nam, tác giả Pocts [39] đã đưa ra một số kết quả như sau : - Cây gỗ lớn cao trên 30m (Meg) : 4,85% - Cây có chồi vừa trên đất cao 8 - 30m (Mes), và cây có 13,80% chồi nhỏ trên đất cao 2 – 8m (Mi) - Cây có chồi trên đất lùn dưới 2m (Na) : 18,02% - Cây có chồi trên đất leo cuốn (Lp) : 9,08% - Cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám (Ep) : 6,45% - Cây chồi sát đất (Ch) - Cây chồi nửa ẩn (H) 40,68% - Cây chồi ẩn (Cr) - Cây chồi một năm (Th) 7,11% Và phổ dạng sống như sau: SB = 52,21Ph + 40,68 (Ch,H, Cr) + 7,11Th Ngoài ra nhiều tác giả khác đã vận dụng thang phân loại của Raunkiaer để lập phổ dạng sống cho nhiều hệ thực vật khác nhau. 1.2.3.3. Ở Vũ Quang Kết quả điều tra của các công trình từ trước đến nay do chỉ quan tâm đến thực vËt cho gỗ và loài có giá trị sử dụng, nên chưa quan tâm đến các loài thực
  18. 16 vật ngoại tầng vì vậy việc lập phổ dạng sống cho hệ thực vật là chưa đại diện và còn hạn chế. Để hạn chế điều đó, chúng tôi tổng hợp tất cả dẫn liệu liên quan đến thực vật VQG Vũ Quang và điều tra bổ sung, xây dựng phổ dạng sống. Tuy nhiên, theo dự đoán số lượng loài thực vật của vườn sẽ lớn hơn rất nhiều so với kết quả của đề tài, nên phổ dạng sống của VQG Vũ Quang sẽ còn thay đổi tuỳ thuộc vào khám phá sau này.
  19. 17 Chương 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN SINH KINH TẾ XÃ HỘI 2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 2.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới và diện tích Vườn Quốc gia Vũ Quang 2.1.1.1. Vị trí địa lý VQG Vũ Quang có toạ độ địa lý: + Từ 18º09’ đến 18o26’ vĩ độ Bắc; + Từ 105o16’ đến 105o33’ kinh độ Đông. 2.1.1.2. Phạm vi ranh giới, diện tích VQG Vũ Quang cách thị xã Hà Tĩnh 75 km về phía Tây Bắc. Phía Bắc giáp xã Sơn Kim, Sơn Tây (huyện Hương Sơn) và các xã Hương Quang, Hương Minh, Hương Thọ, Hương Điền và thị trấn Vũ Quang (huyện Vũ Quang); phía Nam giáp nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào; phía Đông giáp xã Hương Thọ, Hoà Hải (huyện Hương Khê); phía Tây giáp xã Hương Quang và Sơn Kim (huyện Hương Sơn). Tổng diện tích tự nhiên của VQG Vũ Quang là 55.058 ha. 2.1.2. Địa hình, địa mạo VQG Vũ Quang nằm trong một vùng núi thấp, núi trung bình và một phần núi cao, chênh cao địa hình từ 30 - 2286 m (trên đỉnh Rào Cỏ). Địa hình núi cao, vực sâu, thung lũng hẹp, độ dốc lớn, độ chia cắt sâu và dày, là đặc trưng của địa hình VQG Vũ Quang. Địa hình đặc trưng bằng các kiểu sau đây:
  20. 18 Kiểu địa hình núi (N) diện tích 31.180 ha chiếm 56,6% diện tích Vườn, phân bố thành một dải chạy dọc theo biên giới Việt - Lào. Độ cao của kiểu địa hình núi từ 301 m đến trên 2000 m, với nhiều đỉnh cao và độ dốc lớn từ 20 - 35o, có nơi >35o, điển hình như đỉnh Rào Cỏ (2.286 m), đỉnh Pulaileng phía Lào... Đây là kiểu địa hình đặc trưng, có ý nghĩa quan trọng trong bảo tồn ĐDSH, là địa bàn sinh sống của nhiều loài động, thực vật của VQG, trong đó có nhiều loài đặc hữu, quý hiếm đang bị đe dọa. Kiểu địa hình đồi (Đ) đai cao < 300 m, có diện tích 23.681 ha, chiếm 43% tổng diện tích VQG. Độ dốc của kiểu địa hình này nhỏ hơn so với kiểu địa hình núi (từ 15 - 30o), phân bố chủ yếu ở phân khu phục hồi sinh thái, chủ yếu ở các khu vực tiếp giáp vùng đệm. Thực vật ở kiểu địa hình này chịu nhiều tác động của con người, đặc biệt trong những năm 1986 trở về trước là khu vực dành cho khai thác lâm sản. Có nhiều nơi bị khai thác quá mức làm cho tài nguyên rừng đã bị cạn kiệt. Kiểu địa hình đồi có ý nghĩa trong việc phục hồi hệ sinh thái bản địa, góp phần bảo tồn nguồn gen, đa dạng sinh học cho VQG. Kiểu địa hình đồng bằng dốc tụ và thung lũng có diện tích rất ít (197 ha), chiếm 0,4% toàn Vườn, phân bố theo dạng đồng bằng ở xã Hương Quang và dạng thung lũng ở xã Hòa Hải, hiện đang được sử dụng canh tác nông nghiệp và các khu dân cư. Nhìn chung VQG Vũ Quang có nhiều đỉnh núi cao hiểm trở, độ dốc lớn và nhiều khe suối đã chia cắt địa hình VQG thành các lưu vực, lòng chảo, có sườn nghiêng và bãi bằng dưới các đỉnh núi. Vì vậy đã tạo ra tính đa dạng về dạng lập địa và các tiểu vùng khí hậu. Đây là nguyên nhân để hình thành các hệ sinh thái rừng điển hình. Đặc trưng là kiểu rừng hỗn hợp cây lá rộng lá kim ẩm á nhiệt đới với loài Pơ mu (Fokienia hodginsii) chiếm ưu thế, kiểu rừng lùn đỉnh núi (rừng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2