intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:121

194
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh là nhằm khảo sát động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo ngành Việt Nam học cho sinh viên người nước ngoài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ ANH THƯ ĐỘNG CƠ CHỌN HỌC NGÀNH VIỆT NAM HỌC CỦA SINH VIÊN NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC Mã số: ………………………... LUẬN VĂN THẠC SĨ: TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG TÂM SƠN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. Tri Ân Kính tặng Ba, Mẹ với lòng biết ơn sâu sắc EM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN: □ PGS.TS Hoàng Tâm Sơn Phó Hiệu Trưởng Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn đã luôn nhiệt tình, tận tâm hướng dẫn em hòan thành đề tài này. □ Các Thầy, Cô trong Khoa Tâm lý Giáo dục trườngg Đại học Sư phạm TPHCM, những người đã tận tâm giảng dạy, truyền thụ những tri thức Tâm lý học – Giáo dục học cho học viên trong suốt 3 năm qua. □ Ban Giám Hiệu, quý Thầy Cô và các bạn sinh viên trường Đại học Sư Phạm TPHCM, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
  3. NHẬN XÉT – ĐÁNH GIÁ CỦA PGS.TS. HOÀNG TÂM SƠN ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................
  4. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hiệu quả tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong học tập không những bị ảnh hưởng bởi những điều kiện bên ngoài, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan như: nhu cầu, động cơ, thái độ, hứng thú, lý tưởng… của người học. Nếu không có động cơ học tập, người học sẽ thiếu đi sự khởi động, hướng dẫn, thúc đẩy, điều khiển và điều chỉnh hành vi, cũng như duy trì các hành động học tập và hoạt động học tập sẽ trở nên kém hiệu quả. Qúa trình hội nhập và phát triển ở Việt Nam đang đặt ra những cơ hội và thách thức, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc và toàn diện về đất nước, về vị thế Việt Nam đối với khu vực và thế giới trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nghiên cứu và đào tạo về Việt Nam đã trở thành nhu cầu cấp thiết, một mặt đối với sự phát triển và hội nhập của Việt Nam, mặt khác đối với quá trình đầu tư và hợp tác của các nước và các tổ chức quốc tế với Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực giáo dục, việc đào tạo Việt Nam học ở bậc đại học và sau đại học đang được thực hiện ở nhiều trường đại học và viện nghiên cứu. Ở nước ta, ngành khoa học Việt Nam học xuất hiện chậm hơn sơ với khá nhiều nước trên thế giới. Trong khi từ năm 1990, những người nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản đã thành lập Hội Việt Nam học, đến nay Hội Việt Nam học đã được tổ chức ở nhiều nước như ở Hàn Quốc, ở Bắc Mỹ, hay mô hình EuroViet ở Châu Âu… thì ở nước ta Việt Nam học chỉ thực sự được nhiều người quan tâm từ sau Hội thảo quốc tế I về Việt Nam học, diễn ra vào năm 1998 tại Hà Nội. Về mục đích đào tạo, Việt Nam học hướng tới người nước ngoài có nhu cầu tiếp cận để tạo cơ hội làm ăn. Với đối tượng trong nước, Việt Nam học nhằm giúp sinh viên tìm hiểu các kiến thức xã hội về Việt Nam. Đó là những vấn đề về lịch sử văn minh và phát triển văn hoá, những vấn đề xã hội, dân tộc, những vấn đề đổi mới kinh tế, về ngôn ngữ… Vì thế, đào tạo ngành Việt Nam học không chỉ đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước mà còn góp phần đào tạo một số lượng đáng kể các chuyên gia Việt Nam học của nhiều quốc gia trên thế giới phục vụ chiến lược phát triển và hội nhập của Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, ngày càng có nhiều sinh viên người nước ngoài theo học ngành Việt Nam học tại Việt Nam cho thấy sự quan tâm của họ đối với Việt Nam, và vị thế của Việt Nam dần được khẳng định. Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM là việc làm cần thiết. Trong nghiên cứu này chúng tôi quan niệm: động cơ học tập của sinh viên là một yếu tố tâm lý quy định sự lựa chọn, định hướng và duy trì hoạt động học tập nhằm chiếm lĩnh những tri thức khoa học, kinh nghiệm lịch sử - xã hội, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, góp phần hình thành và hòan
  5. thiện nhân cách người sinh viên. Động cơ vừa là mục đích, vừa là yếu tố thúc đẩy hoạt động học tập. 2. Mục đích nghiên cứu * Khảo sát động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM. * Trên cơ sở khảo sát, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo ngành Việt Nam học cho sinh viên người nước ngoài. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu * Sinh viên ngành Việt Nam học trường Đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn TPHCM. 3.2. Đối tượng nghiên cứu * Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM. 4. Giả thuyết nghiên cứu * Đa số sinh viên người nước ngoài chọn học ngành Việt Nam học tại TPHCM xuất phát từ động cơ tích cực. * Động cơ học tập tốt ảnh hưởng một cách hiệu quả đến kết quả học tập của sinh viên người nước ngoài. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến đề tài: * Động cơ, động cơ học tập * Đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên * Ngành Việt Nam học 5.2. Nghiên cứu thực trạng * Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài * Mối liên hệ giữa động cơ và hiệu quả học tập * So sánh động cơ học tập giữa sinh viên nam và nữ. * So sánh động cơ học tập giữa sinh viên các khối lớp. * So sánh động cơ học tập giữa sinh viên các nước khác nhau: Hàn Quốc, Nhật Bản và nhóm các nước khác (gồm: Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ). 5.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo Việt Nam học cho sinh viên người nước ngoài 6. Phương pháp nghiên cứu
  6. Trong đề tài này, người nghiên cứu đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: * Nhóm phương pháp lý luận: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu nhằm tổng hợp tài liệu làm cơ sở lý luận cho đề tài. * Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp phỏng vấn: Nhằm mục đích làm rõ những ý nghĩ, động cơ của sinh viên người nước ngoài khi chọn ngành Việt Nam học. - Phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi: Nhằm làm rõ thực trạng về các động cơ của sinh viên người nước ngoài. Dụng cụ nghiên cứu là bảng thăm dò ý kiến được tiến hành qua hai giai đoạn: + Giai đọan 1: Trên cơ sở lý luận và những đề tài có liên quan, người nghiên cứu tiến hành sọan thảo bảng thăm dò mở gồm 7 câu hỏi: Câu 1: Lí do bạn chọn học ngành Việt Nam học? Câu 2: Động cơ học tập hiện nay của bạn là gì? Câu 3: Bạn có kế hoạch học tập như thế nào? Câu 4: Những khó khăn bạn gặp phải trong quá trình học? Câu 5: Bạn đang có nhu cầu học tập hàng đầu về vấn đề nào? Câu 6: Mục đích học ngành Việt Nam học ở trường của bạn là gì? Câu 7: Bạn thường đến lớp vì lí do gì? Phiếu này được phát cho 60 sinh viên ngành Việt Nam học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM trả lời. Sau khi thu về, người nghiên cứu đọc, phân loại các câu trả lời trong từng câu hỏi theo phương pháp phân tích nội dung. + Giai đọan 2: Từ kết qủa thăm dò mở, tiếp tục tham khảo các công trình nghiên cứu trước và các vấn đề lý luận của đề tài, người nghiên cứu tiến hành xây dựng bảng thăm dò chính thức gồm 10 phần, có hướng dẫn cách trả lời rõ ràng, chi tiết cho từng câu (xin xem phần phụ lục). Phần 1: Lí do chọn học ngành Việt Nam học. Phần 2: Động cơ học tập hiện nay. Phần 3: Kế hoạch học tập. Phần 4: Khó khăn trong quá trình học tập. Phần 5: Nhu cầu học tập hàng đầu hiện nay. Phần 6: Mục đích học tập. Phần 7: Kết quả học tập học kì vừa qua Phần 8: Lí do đến lớp. Phần 9: Hứng thú học tập.
  7. Phần 10: Hành vi học tập. Việc phát và thu thập số liệu ở giai đoạn 2 được tiến hành như sau: Người nghiên cứu chọn tòan bộ sinh viên ngành Việt Nam học người nước ngoài thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn làm khách thể nghiên cứu của đề tài, được chia cho cả nam và nữ và cho cả 4 năm: I, II, III, IV. Việc phát và thu việc được thực hiện thông qua thư ký và giảng viên của Bộ môn Việt Nam học. Sau khi loại bỏ những phiếu trả lời không đúng quy cách, mẫu nghiên cứu sử dụng trong đề tài là 104 sinh viên người nước ngoài thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM. - Phương pháp tóan thống kê: Xử lý thống kê theo chương trình SPSS For Wins 11.5. Tính tần số, tỉ lệ phần trăm, tính trung bình, độ lệch tiêu chuẩn, kiểm nghiệm Chi-square, tính hệ số tương quan, xếp thứ hạng. 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu * Giới hạn về không gian nghiên cứu: Do tại TPHCM, chỉ có trường Đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn có đào tạo ngành Việt Nam học cho đối tượng sinh viên người nước ngoài, nên chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu ở trường này. * Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu về động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo. 8. Kế hoạch nghiên cứu * Tháng 09/2009: + Đọc tài liệu, chọn đề tài + Viết đề cương nghiên cứu * Tháng 10-11/2009: + Hoàn thành cơ sở lý luận * Tháng 12/2009: + Phát phiếu câu hỏi mở sơ khởi, để xây dựng bảng câu hỏi chính thức * Tháng 01/2010: + Xây dựng bảng câu hỏi chính thức * Tháng 02-03/2010: + Phát phiếu điều tra, thu thập và xử lí số liệu * Tháng 04-05/2010: + Trên cơ sở số liệu thu thập được, viết lời bình * Tháng 06-08/2010: + Hoàn chỉnh luận văn, chỉnh sửa theo yêu cầu của giảng viên hướng dẫn.
  8. NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ĐỘNG CƠ 1.1.1. Một số quan điểm phi Mac-xít về động cơ: Từ thời cổ đại, vấn đề nguyên nhân thúc đẩy bên trong hoạt động của con người đã được các nhà khoa học đặt ra. Và lúc này, tâm lý học chưa trở thành một bộ môn khoa học độc lập, mà nó còn là một bộ môn của triết học. Do đó, những kết luận trong thời kỳ bấy giờ thiếu cơ sở khoa học để chứng minh động cơ một cách rõ ràng. Xocrate (469-399 TCN), một triết gia Hy Lạp thời cổ đại đã từng phát biểu: “Tôi biết chắc một điều là tôi không biết gì cả”. Theo Xocrate, từ chỗ “không biết gì” thúc đẩy con người hoạt động nhận thức [6, 20]. Aristote (384-322 TCN), tác giả cuốn Tâm lý học đầu tiên “Bàn về tâm hồn” đã xem “ước muốn cùng với trí tuệ là những năng lực của tâm hồn đưa tới hoạt động”. Ông dựa trên cơ sở sinh vật học để giải thích động cơ hoạt động. Ông cho rằng nhiều hành vi con người được thúc đẩy bởi “sự thèm muốn”. Hành động luôn hướng tới thỏa mãn “sự thèm muốn”. Nghĩa là hành vi được thúc đẩy bởi các trạng thái nội tại như đói, khát, ham muốn tình dục… Nếu hành động thành công con người sẽ cảm thấy khoái lạc. Tuy nhiên, Aristote cũng đã chỉ ra được rằng, con người khác con vật ở chỗ “con người có khả năng dùng lý trí của mình để ức chế các thèm muốn” [234, 20]. Nhìn chung, các nhà triết học trước kia có sự hiểu lầm rằng, cái thúc đẩy con người hành động là ý thức của anh ta về cái đó. Sai lầm ấy xuất phát từ việc quen giải thích hoạt động con người từ tư duy. Thực ra, cái thúc đẩy con người hoạt động không phải ý thức, nhận thức hay tư duy mà là nhu cầu. Nhiều thế kỷ sau đó, vẫn chưa có một tác giả nào nghiên cứu về động cơ một cách hoàn thiện, do họ chưa có một cơ sở lý luận liên quan thật sự mang tính khoa học. Mãi đến đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện các trường phái Tâm lý học khách quan, vấn đề động cơ mới thật sự được chú ý đến. Tâm lý học hành vi cổ điển của John B.Watson (1878-1958) chỉ quan tâm đến những sự kiện, hành vì bên ngoài mà không xét đến yếu tố tiềm ẩn đằng sau nó, thúc đẩy con người hoạt động. Chủ nghĩa hành vi cổ điển coi hoạt động của con người chỉ là một dòng phản ứng theo công thức S->R.
  9. Theo lý thuyết này, khi có kích thích (S) thì tất yếu có phản ứng (R) cũng như khi biết yếu tố này có thể suy ra được yếu tố kia và ngược lại. Hành vi được coi là mối liên hệ trực tiếp giữa kích thích và phản ứng do kích thích tạo ra. Kích thích thuộc về thế giới tác động, và hành vi con người do phản ứng của cơ thể tạo ra khi có kích thích. Tâm lý học hành vi của Watson đi đến quan niệm coi con người như là “một cơ thể phản ứng”, thích nghi thụ động dưới ảnh hưởng của môi trường. Sau này, K.Hull và E.Tolman đã đi tìm mô hình động cơ và quy luật của nó trong nghiên cứu động vật, kết quả là bổ sung vào công thức S->R trong thuyết hành vi cổ điển của Watson bằng “yếu tố trung gian”. Theo hai tác giả này, cái quy định (động cơ) của phản ứng vẫn là những kích thích từ bên ngoài vào nhu cầu của cơ thể lúc tiếp nhận kích thích đó. Lúc này, thuyết hành vi S->R phải có dạng S-O-S hay S-r-s-R. Các biến trung gian là những gì gắn O, tức gắn với cơ thể, hình thành phản ứng với hành vi đối với kích thích đã cho” [106, 12]. Cả chủ nghĩa hành vi cổ điển lẫn chủ nghĩa hành vi mới đều mắc phải sai lầm là đã sinh vật hóa con người, “xóa mọi ranh giới có tính nguyên tắc giữa hành vi động vật và hành vi con người”, đồng nhất tâm lý con người và tâm lý động vật. Các tác giả này cũng chưa giải thích được nguyên nhân nào thúc đẩy con người thực hiện các hành động. Họ cho rằng, nhu cầu con người cũng tương đương với nhu cầu của động vật, bỏ qua tính chất xã hội của con người. Tâm lý học Ghetalt (hay còn gọi là Tâm lý học Cấu trúc) bởi ba tác giả: M.Wertheimer (1880-1943), V.Kohler (1887-1967) và K.Kofka (1886-1941). Trường phái này nghiên cứu về tri giác và một ít về tư duy. Riêng K.Lewin nghiên cứu về nhân cách, về trạng thái xúc động, lấy khái niệm “trường lực” làm cơ sở nghiên cứu tâm lý con người. Ông đã tập trung sự chú ý đến khái niệm “nhu cầu”, trong đó ý đồ là một dạng nhu cầu làm xuất hiện trạng thái căng thẳng. Những nhân tố này ít được nhận thức nhưng tương đối có hiệu lực, nó quy định việc lựa chọn hành động, phương thức và mục đích của con người, đó chính là động cơ của hoạt động. Như vậy, đông cơ là sự tương tác của lực bên trong trường lực, phủ nhận tác động từ thế giới bên ngoài. K.Lewin và các cộng sự của ông mới chỉ có thể nói đến những dấu hiệu đặc trưng tiến trình vận động của động cơ, những yếu tố tâm lý ảnh hưởng tiến trình đó, làm động cơ mạnh lên hay ngược lại. Lewin đã không quan tâm đến kinh nghiệm con người, đánh giá thấp những đặc điểm nhân cách, nhu cầu và khát vọng đã có ở một người. Nhược điểm của Lewin là chỉ mới chú ý đến mặt cơ động của động cơ mà chưa chú ý đến mặt nội dung của nó. Bên cạnh đó, ông đã phủ nhận vai trò của những tác động bên ngoài trong việc hình thành động cơ.
  10. Phân tâm học của Sigmund Freud xem con người có hai loại bản năng: bản năng sống và bản năng chết. Đời sống con người do bản năng tình dục (libido) chi phối tất cả các hoạt động. Năng lượng ấy thoát ra ngoài ở những dạng hoạt động khác nhau. Nếu nhu cầu về bản năng ấy không được thỏa mãn, con người sẽ rơi vào trạng thái căng thẳng. Atler, nhà tâm lý học theo trường phái Phân tâm học kiểu mới cho rằng, động lực cơ bản của hành vi quyết định mục đích cũng như con đường của hoạt động. Mối quan hệ giữa khát vọng hùng mạnh và cảm giác yếu kém quy định tính chất những động cơ khi con người hành động. Atler phê phán luận điểm của S.Freud, ông không đồng ý tính không thay đổi của bản năng trong tiến trình phát triển lịch sử loài người nói chung cũng như trong đời sống cá thể nói riêng. Ông cho rằng, văn hóa xã hội cũng ảnh hưởng đến tâm lý con người, đặc biệt là thể hiện ở động cơ hoạt động. Đối với K.Horney, con người có sức mạnh bẩm sinh, cơ sở là sự lo sợ cô đơn thời còn thơ ấu ảnh hưởng đến động cơ thúc đẩy hành vi sau này. Động cơ con người không có nguồn gốc từ hiện thực khách quan, mà nó được nảy sinh từ những biểu tượng chủ quan của mỗi người. Và vô thức là động lực của hành vi con người quy định những hình thức động cơ cụ thể của cuộc sống thực. E.Formm bổ sung vào lực thúc đẩy hành vi con người bao gồm yếu tố xã hội và sức mạnh bẩm sinh. Nhìn chung, lý thuyết Phân tâm nhìn nhận động cơ con người như những bản năng. Cách lý giải như vậy dẫn đến chỗ đối lập cá nhân với xã hội và xem xét môi trường sống chỉ như những điều kiện để bản năng con người vốn có từ lúc sinh ra, được bộc lộ dần trong quá trình phát triển của cá thể. 1.1.2. Quan điểm của tâm lý học Mac-xít về động cơ Tâm lý học Mac-xít dựa trên cơ sở phương pháp luận Triết học Mac-Lenin, xem con người là sản phẩm của lịch sử, xã hội, và là thực thể mang những phẩm chất, những thuộc tính được hình thành trong quá trình lao động và trong mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người trong xã hội. Quan điểm này không quá đề cao yếu tố xã hội, cũng không phủ nhận yếu tố sinh học trong bản thân con người. K.Marx chỉ ra rằng: “con người là một thực thể tự nhiên trực tiếp. Với tư cách là một thực thể tự nhiên, con người được phú cho những sức mạnh tự nhiên, những sức sống đã trở thành thực thể tự nhiên hoạt động” [18, 1].
  11. Con người không phải là cái túi đựng đầy phản xạ và hoạt động, không phải là dòng phản ứng, cử động sống mà là một dòng hoạt động. Trong đó bao gồm cả “dòng tư tưởng” (R.Descarte), “dòng ý thức” (W.Jeans), đơn vị của cuộc sống là từng hoạt động cụ thể (A.N.Leonchiev) được hiểu là một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng, nhằm mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định. Kết quả của hoạt động là kích thích tạo ra hoạt động và sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể. Chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất, hoạt động bao gồm cả hành vi, lẫn tâm lý, ý thức, công việc chân tay và công việc trí óc. Mà nó được xây dựng trên cơ sở triết học về hoạt động, đó là mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể, bao gồm quá trình khách thể hóa chủ thể (chuyển năng lượng con người vào sản phẩm hoạt động) và quá trình chủ thể hóa khách thể (con người phản ánh vật thể, tiếp thu đặc điểm vật thể chuyển thành năng lượng con người). Như vậy, trong khi tạo ra và chiếm lĩnh các mối quan hệ xã hội, con người hình thành nên bộ mặt tâm lý, hình thành nên động cơ hoạt động. Vào năm 1926, L.X.Vưgôtxki đã đề xuất phải xây dựng “một khoa học về hành vi con người”. Ông đề xuất nghiên cứu hành vi con người trong mối quan hệ con người với thực tại xung quanh. Mặc dù chưa đề cập đến động cơ thúc đẩy hành vi con người, nhưng Vưgôtxki đã xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận làm nền tảng cho hàng loạt công trình nghiên cứu về động cơ sau này. Năm 1953, X.L.Rubinstein xem “hành động ý chí nhất thiết bao hàm động cơ cho nên có thể phân biệt mức độ của hành động ý chí tùy thuộc tính chất của những động cơ chủ đạo”. Theo tác giả, động cơ ý chí có thể bắt nguồn từ những ham muốn, nhu cầu, cảm xúc, tính cách, tư tưởng, nhận thức trước những nhiệm vụ mà đời sống xã hội đặt ra. X.L.Rubinstein mới chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu nhiệm vụ chính của phạm trù động cơ và chỉ ra con đường giải quyết nhiệm vụ. Đến năm 1966 xuất hiện lý thuyết “tâm thế” của D.N.Uzanadze, cho rằng động cơ thúc đẩy hành vi con người tuân theo lý thuyết tâm thế. Ông cho rằng “nhu cầu là nguồn gốc tính tích cực” của nhân cách. Khi chủ thể hướng ra môi trường bên ngoài nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu trước mắt, thì mọi tình trạng xuất hiện nhất định gây ra trong chủ thể một tâm thế nhất định, và thông qua tâm thế này hướng dẫn toàn bộ hành vi tiếp theo của nó. Ông không tán thành việc đưa khái niệm “đấu tranh động cơ” vào tâm lý học. Vì ông cho rằng, mọi hành vi chỉ có một động cơ đem lại ý nghĩa cho hành vi đó. Quan điểm của ông bị các nhà tâm lý học khác phê phán, bởi động cơ tồn tại như một hệ thống những động cơ. Khi thực hiện một hoạt động bất kỳ, bao giờ cũng có sự đấu tranh giữa các động cơ đó. Tuy nhiên, ông đã vạch ra được những hiểu biết mới về khái niệm nhu cầu, các
  12. dạng nhu cầu, mối liên hệ của chúng với các hình thức hành vi con người, mối tương quan giữa hành vi và tâm thế. P.M.Jakobson thì xác định con người thực hiện những hành động do mục đích chung hoặc mục đích cụ thể. Ông phân biệt động cơ hành vi theo nghĩa hẹp, đó là những động cơ của hành vi cụ thể, và theo nghĩa rộng thì động cơ hành vi là tổng hòa những yếu tố tâm lý quyết định hành vi của con người nói chung. V.S.Merlin đồng nhất khái niệm động cơ với nhu cầu, nó biểu thị mối quan hệ con người với sự vật, hiện tượng. Mỗi động cơ đều có hai khía cạnh kích thích hành động và thái độ cảm xúc. Trong lịch sử nghiên cứu về vấn đề động cơ, Leonchiev là tác giả nghiên cứu sâu sắc và có sức thuyết phục lớn. Theo Leonchiev, đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan, khi chúng bộc lộ ra và được chủ thể nhận biết. Đối tượng ấy có chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động, tức trở thành động cơ. Ông mô tả “đối tượng ấy xuất hiện với tính chất là một hiện tượng tinh thần, một động cơ thúc đẩy từ bên trong”. Động cơ có hai chức năng: - Thúc đẩy và hướng dẫn hoạt động - Tạo cho hoạt động một ý chủ quan, là một hình thức động cơ đặc thù phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể với hiện thực khách quan. Mỗi hoạt động có rất nhiều động cơ chi phối. Chúng hợp lại thành một hệ thống thứ bậc các động cơ. Con người hướng vào đối tượng nào đó đều phụ thuộc vào động cơ nổi lên chiếm ưu thế. Bản chất động cơ là cái tạo nên tính tích cực của hành vi, là động lực kích thích con người hoạt động. Nói cách khác, hoạt động là quá trình hiện thực hóa động cơ. Động cơ có thể tồn tại ở dạng tinh thần, bên trong chủ thể, và ở dạng vật thể hóa ra bên ngoài. Dưới hai hình thức ấy, động cơ vẫn là một đối tượng cần chiếm lĩnh. A.N.Leochiev chia động cơ ra thành hai loại: - Động cơ tạo ý, gắn liền với nhân cách, gắn cho hoạt động một hàm ý nhân cách. - Động cơ kích thích, là những động cơ làm “hoạt hóa” hoạt động. Tuy nhiên, sự phân loại và mối tương quan giữa hai động cơ này chỉ mang tính chất tương đối. Trong cấu trúc của một hoạt động thì động cơ này có thể có chức năng tạo ý, nhưng trong hoạt động khác, nó lại có chức năng kích thích phụ. Tuy nhiên, các động cơ tạo ý bao giờ cũng đứng ở
  13. thứ bậc cao, mặc dù đôi khi nó không tham gia vào kích thích, không trực tiếp có tính chất gợi cảm xúc. B.G.Aseev nghiên cứu động cơ với tư cách là động lực của hành vi. Ông đặt mối quan hệ giữa động cơ và tính cách, xu hướng, năng lực, tình cảm, hoạt động và các quá trình tâm lý của nhân cách. B.G.Aseev chia động cơ thành hai kiểu: - Động cơ quá trình, thể hiện hoạt động vui chơi. - Động cơ kết quả, thể hiện trong hoạt động lao động. Sự kết hợp hai loại động cơ này thể hiện ở mức cao nhất trong những hoạt động có tính chất sáng tạo. Tác giả tiếp theo là Bozovic, nghiên cứu của bà tập trung vào động cơ học tập của học sinh. Bà gọi tất cả những gì thúc đẩy tính tích cực trẻ đều là động cơ. Từ một số kết quả nghiên cứu bà rút ra kết luận, sự thúc đẩy hoạt động con người luôn xuất phát từ nhu cầu, đối tượng thỏa mãn nhu cầu chỉ quyết định tính chất, phương hướng của hoạt động. Qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu về động cơ hoạt động của các tác giả theo quan điểm tâm lý học Mac-xit, có thể đi đến những kết luận sau: - Động cơ chính là những yếu tố kích thích, thúc đẩy con người hoạt động. Nội dung của động cơ là mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường. - Hoạt động của động cơ của con người có một hệ thống động cơ thúc đẩy theo cấu trúc thứ bậc. Động cơ nào chiếm ưu thế sẽ qui định xu hướng hành vi của con người. - Về vấn đề phân loại động cơ, các tác giả dựa trên nhiều bình diện khác nhau: + Trên bình diện nhân cách thì có động cơ “tạo ý” và động cơ “kích thích”. + Trên bình diện quan hệ chủ thể và khách thể có động cơ xã hội và động cơ được nhận thức. + Trên bình diện diễn biến của quá trình hoạt động có động cơ quá trình và động cơ kết quả. 1.1.3. Lược khảo một số công trình nghiên cứu về động cơ ở Việt Nam: Ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về động cơ, có thể khái quát ở 3 nhóm: - Nhóm nghiên cứu về động cơ đạo đức. - Nhóm nghiên cứu về động cơ học tập. - Nhóm nghiên cứu về động cơ chọn nghề. Nhóm nghiên cứu về động cơ đạo đức có các công trình sau: * “Hình thành động cơ xã hội ở học sinh lớp ba” – Tác giả Phạm Thị Hưng Trinh. * “Thực nghiệm về sự hình thành động cơ đạo đức ở học sinh cấp I, cấp II” – Tác giả Đặng Xuân Hoài – Nghiên cứu trong hai năm học 1978-1979 và 1979-1980.
  14. * “Cơ sở của việc hình thành động cơ vì xã hội ở học sinh cấp III – Luận án phó tiến sĩ của tác giả Phạm Thị Nguyệt Lãng, nghiên cứu trong bốn năm: 1978, 1980, 1981, 1983. Nhìn chung các công trình nghiên cứu này quan tâm đến cùng vấn đề về động cơ xã hội. Trong hai đề tài của tác giả Phạm Thị Hưng Trinh và Phạm Thị Nguyệt Lãng, tác giả đều cho rằng động cơ vì xã hội ở đây được hình thành thông qua nhiều dạng hoạt động: hoạt động học tập, hoạt động xã hội công ích, hoạt động lao động… Điểm khác nhau của hai đề tài này là đối tượng nghiên cứu học sinh ở những độ tuổi khác nhau. Nhóm nghiên cứu về động cơ học tập có các công trình chủ yếu sau: * “Tìm hiểu quá trình hình thành ý thức về động cơ học tập”- Tác giả Nguyễn Thạc, đối tượng nghiên cứu là sinh viên Việt Nam đang học tại các trường Đại học Leningrad - Liên Xô (cũ), thực hiện trong năm học 1980-1981. * “Bước đầu xác định một số đặc điểm động cơ trong quá trình giải bài tập của học sinh lớp 10 và 11 ở một số trường PTTH nội thành TP.Hồ Chí Minh” – Tác giả Lý Minh Tiên - Luận văn tốt nghiệp cao học năm 1981. * “Hình thành động cơ học tập ở học sinh lớp 6” – Tác giả Lê Khanh, Đồng Ngọc Toàn, nghiên cứu trong năm học 1981-1982 * “Vấn đề hình thành động cơ học tập ở người lao động” – Tác giả Thái Xuân Đào. * “Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh cấp II” – Tác giả Chanco - Luận văn Phó tiến sĩ, đối tượng nghiên cứu là học sinh trung học đệ nhất cấp Cam-pu-chia và học sinh cấp II ở Việt Nam. * “Động cơ và chất lượng học tập” – Tác giả Phạm Tất Dong. * “Tìm hiểu động cơ học tập của sinh viên khoa Tâm lý Giáo dục trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh” – Tác giả Nguyễn Công Hiệp - Luận văn tốt nghiệp Đại học năm 1993. * “Về phạm trù động cơ học tập của học sinh trong giai đoạn hiện nay” – Tác giả Phạm Thị Đức. Các công trình nghiên cứu động cơ học tập đều cho rằng, động cơ học tập là yếu tố chủ yếu cấu thành hoạt động học tập. Động cơ học tập rất đa dạng, bao gồm: động cơ học tập vì điểm, vì sợ ba mẹ, vì sợ thầy cô, học để có tri thức, học để chọn được nghề nghiệp tương lai…
  15. Động cơ học tập ở đây được chia ra làm hai nhóm: nhóm động cơ bên trong (động cơ nhận thức), nhóm động cơ bên ngoài (động cơ xuất phát từ mối quan hệ của học sinh, sinh viên với môi trường xung quanh). Trong đó, đặc biệt có công trình nghiên cứu động cơ học tập cho người lao động của tác giả Thái Xuân Đào, đối tượng nghiên cứu là người lao động. Nhóm nghiên cứu về động cơ chọn nghề có các công trình chủ yếu sau: * “Tìm hiểu động cơ chọn nghề của học sinh THPT” – Tác giả Phạm Thị Nguyệt Lãng. * “Động cơ học tập và quan hệ của nó với nguyện vọng chọn nghề của học sinh Lào” – Tác giả Khăm Phăn On - Luận văn Tiến sĩ năm 1994. * “Tìm hiểu động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12, ở một số trường THPT, tại nội thành TPHCM” – Tác giả Phạm Thị Thiều Anh - Luận văn tốt nghiệp đại học 1996. * “Tìm hiểu động cơ thi vào Sư Phạm của các giáo sinh đang học năm I và II tại một số trường sư phạm của TPHCM” – Tác giả Võ Thị Hồng Trước - Luận văn tốt nghiệp 1994. Các công trình nghiên cứu về động cơ chọn nghề tập trung chủ yếu ở đối tượng là học sinh lớp 12 và sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học. Kết quả cho thấy động cơ chọn nghề cũng rất đa dạng và phức tạp, bao gồm được miễn học phí, vì sự lựa chọn của cha mẹ, vì bản thân thích… Trong đó, tác giả Võ Thị Hồng Trước tóm lại, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về động cơ không phải hiếm, và các đề tài tập trung chủ yếu ở động cơ đạo đức, động cơ học tập, động cơ chọn nghề. 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.2.1. Động cơ. 1.2.1.1. Khái niệm động cơ Thuật ngữ “động cơ” trong tiếng Latinh là motivation hoặc motif, có nghĩa là “duyên cơ”, các nguyên nhân thúc đẩy hành vi con người hành động. Nguyên nhân này nằm bên trong chủ thể, xuất phát từ nhu cầu sinh lý hoặc tâm lý.
  16. Động cơ xét về mặt sinh học, đó là những kích thích bản năng, ý hướng sinh vật, những hành vi phản xạ không điều kiện, và cả những rung cảm, hứng thú, ước ao. Hay trong tâm lý hành động, động cơ được xem như là những kích thích dòng điện. Trong tác phẩm “Motivation and emotion” (1961), P.T.Young xem động cơ là quá trình đánh thức, duy trì hoạt động tiến triển và điều chỉnh hành vi nói chung. Mặt khác, trước đó từ năm 1949, D.O.Hebb đã có những hướng nghiên cứu mới, ông cho rằng vấn đề chính mà Tâm lý học quan tâm khi nói về vấn đề động cơ, không phải là quá trình đánh thức, mà nó là sự điều chỉnh và định hướng hành vi con người. Còn một số quan điểm khác, như E.R.Hilgard cho rằng: “Động cơ là trạng thái bất kỳ có ảnh hưởng đến việc sẵn sàng bắt đầu hay tiếp tục hành vi nhất định” [7, 20] Gần với quan điểm của Hilgard, T.P.Guilford cũng đưa ra nhận định: “Động cơ là một trạng thái bên trong bất kỳ nào đó quy định, điều khiển việc bắt đầu hay duy trì tính tích cực” [8, 20] Còn H.C.Warrew thì nghiên cứu động cơ ở một khía cạnh khác, như là “sự trải nghiệm có ý thức hay những tình huống của tiềm thức mà trong hòan cảnh nào đó, chúng là yếu tố tham gia vào việc quyết định hành vi của cá nhân hay hành vi xã hội”. [367, 20] Rõ ràng, các nhà tâm lý học này đã loại bỏ phản xạ không điều kiện ra khỏi động cơ, và khi ấy động cơ chỉ có ý chí, ý thức và tự ý thức. A.Bewieki, nhà tâm lý học người Ba Lan coi động cơ là quá trình tâm lý từ bên trong, kích thích ta thực hiện mục đích và tiếp nhận những phương tiện tương ứng của hành động. Và B.X.Uzliadze khẳng định: “động cơ là giai đọan trước của hành động ý chí”. Còn B.Merlin thì đưa ra kết luận “động cơ là nguyên nhân tâm lý quyết định những hành động có mục đích của con người” [412, 20] Như vậy, động cơ là một hiện tượng tâm lý đặc biệt, được dùng như một khái niệm trung gian nhằm lý giải hành vi và các nguyên nhân của nó. Nhà tâm lý học người Nga, V.G.Axeev đã khẳng định động cơ như một hiện tượng tâm lý bậc cao. Trong từ điển tâm lý học của Nga, khái niệm động cơ được xác định ở ba khía cạnh. Thứ nhất, động cơ là các kích thích thúc đẩy hoạt động liên quan đến việc thỏa mãn một thu cầu nhất định của chủ thể. Đó là tập hợp những điều kiện bên trong và bên ngoài khêu gợi tính tích cực của chủ thể và định hướng cho tính tích cực đó. Thứ hai, động cơ là đối tượng (tồn tại ở hai dạng vật chất và tinh thần) thúc đẩy và quy định sự lựa chọn hướng hoạt động để đạt đến đối tượng đó. Thứ
  17. ba, động cơ là nguyên nhân được nhận thức, là cơ sở của sự lựa chọn hành động và các hành vi của nhân cách. Trong từ điển Tâm lý học của Raymond. J.Corsini (người Anh), động cơ được xem là cái thúc đẩy, nuôi dưỡng và định hướng các hành động tâm lý hay sinh lý. Động cơ bao gồm các lực thúc đẩy bên trong như: xung năng, các hứng khởi và mong muốn cần thiết. Theo A.Leonchiev, khi bàn về khía cạnh động cơ, ông đã đưa ra những ý tưởng sau: trước hết, ông xét đến mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa động cơ và nhu cầu, nhu cầu là mặt tất yếu khách quan, còn động cơ là biểu hiện chủ quan của nhu cầu. Thứ hai, động cơ chính là đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu được chủ thể tri giác, hình thành biểu tượng, và tư duy… Đó là sự phản ánh chủ thể về đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Thứ ba, ông xác định chức năng của động cơ là thúc đẩy và định hướng hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu con người. Kết hợp từ các ý tưởng đó, trong một quyển sách dành cho sinh viên các trường Đại học Sư Phạm ở Liên xô cũ, Leonchiev định nghĩa: “Cái gì khi được phản ánh vào trong đầu óc con người, thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn một nhu cầu nhất định thì gọi là động cơ của hoạt động ấy” [220, 16] Sau này, còn có một số tác giả khác, như Piaget cho rằng tính định hướng tích cực có chọn lọc của hành vi tạo thành bản chất của động cơ. Bên cạnh đó, tác giả Rolnald E.Smith định nghĩa động cơ như một quá trình bên trong có ảnh hưởng đến hướng, tính bền vững và sức mạnh của hành vi có mục đích. Nói tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về động cơ hoạt động của con người. Tuy nhiên, các định nghĩa đều thống nhất trong cách nhìn nhận động cơ là một hiện tượng tâm lý thúc đẩy, quy định sự lựa chọn và hướng của hành vi, nhằm lý giải nguyên nhân dẫn đến hành vi đó. Ta có thể kết luận định nghĩa về động cơ như sau: “Động cơ là cái được phản ánh trong đầu óc con người và thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định” [34, 25]. Hay nói cách khác, động cơ là cái thúc đẩy hoạt động của con người khi nhu cầu bắt gặp đối tượng có thể thỏa mãn được nó. Đề tài này chủ yếu đi theo hướng của tâm lý hoạt động nên việc đi tìm động cơ sẽ liên quan đến nhu cầu, hứng thú, hoạt động … Vì vậy cần tìm hiểu thêm các khái niệm này. - Nhu cầu: là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần phải thỏa mãn trong những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển. Có thể phân thành 2 loại nhu cầu:
  18. + Nhu cầu vật chất: giúp cho sự tồn tại và phát triển về mặt sinh học, đó là nhu cầu ăn, uống, ngủ … + Nhu cầu tinh thần: Bao gồm những nhu cầu về các hoạt động trên lĩnh vực nhận thức, học tập, giao lưu … - Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa trong cuộc sống, vừa đem lại cho cá nhân sự hấp dẫn về mặt tình cảm. - Hoạt động: là quá trình xác lập, vận hành các mối quan hệ nhất định của con người với thế giới xung quanh và với chính bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Con người thông qua các hoạt động của mình lĩnh hội các tri thức, kinh nghiệm… do thế hệ trước để lại, từ đó hình thành và phát triển tâm lý của mình. Vì thế hoạt động giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Hoạt động của con người manh tính tích cực, chủ động và sáng tạo. Như vậy con người có rất nhiều hoạt động trong cuộc sống như: hoạt động lao động, hoạt động học tập, hoạt động vui chơi, hoạt động nghiên cứu khoa học… Ở mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có một hoạt động chủ đạo chi phối các hoạt động khác. Hoạt động học: Là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định. Để hình thành hoạt động học cần: + Hình thành động cơ học tập + Hình thành mục đích học tập + Hình thành các hành động học tập 1.2.1.2. Bản chất của động cơ Trước hết, động cơ là sự phản ánh tâm lý về đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu được đề cập ở đây bao giờ cũng có đối tượng cụ thể. Lúc đầu, chủ thể chưa nhận ra đối tượng của nhu cầu, chủ thể xuất hiện trạng thái cần một cái gì đó. Chỉ khi nhu cầu bắt gặp được đối tượng có khả năng thỏa mãn nó, đối tượng ấy được tri giác, tư duy, nó đạt được khả năng thúc đẩy và định hướng hoạt động chủ thể, tức trở thành động cơ của hoạt động. Thứ hai, động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử - xã hội. Điều này khẳng định, động cơ của con người nảy sinh và hình thành trong quá trình phát triển của cá thể, chứ không phải có sẵn từ lúc mới sinh ra. Hệ thống động cơ con người được hình thành trên cơ sở hoạt động và giao tiếp của chủ thể trong mối quan hệ xã hội, cũng như trong mối quan hệ con người với thế giới
  19. khách quan. Mặt khác, tính lịch sử - xã hội của động cơ còn thể hiện ở chỗ, đối tượng thỏa mãn nhu cầu của con người là những sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội. Kể cả đối với những động cơ có nguồn gốc sinh học, đáp ứng nhu cầu tồn tại của cơ thể, vì việc đáp ứng cũng mang tính xã hội, phụ thuộc điều kiện sống cụ thể, đặc biệt là văn hóa, lối sống. * Về Bản chất của động cơ [1, 23] Trong tâm lí học, vấn đề bản chất động cơ còn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng theo Tâm lí học Macxit, động cơ là sự phản ánh tâm lí về đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu bao giờ cũng nhằm vào một đối tượng nhất định. Nó hối thúc con người hành động nhằm đáp ứng thoả mãn và chỉ khi gặp được đối tượng có khả năng thoả mãn thì nó mới có thể trở thành động cơ thúc đẩy, định hướng hoạt động của chủ thể, thôi thúc con người hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu. Như vậy, ở đây có mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu. Trong tâm lí học, hai hiện tượng này luôn được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhiều khi đan xen nhau, khó tách rời. Có thể nói rằng, nếu nhìn nhận nhu cầu như là một tất yếu khách quan, thể hiện sự đòi hỏi của chủ thể về những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển, thì động cơ là biểu hiện chủ quan của tất yếu khách quan đó. Tuy nhiên, động cơ và nhu cầu không đồng nhất với nhau, những nhu cầu giống nhau có thể được thoả mãn bằng những động cơ khác nhau. Và ngược lại, ở đằng sau những động cơ khác nhau lại có những nhu cầu khác nhau. Mối quan hệ không đồng nhất giữa động cơ và nhu cầu nhờ tính chất đa dạng, đa phương thức trong động cơ, và cách thức thoả mãn nhu cầu trong hành động của con người. Có thể nói: động cơ của hoạt động có thể thấy đó chính là đối tượng của hoạt động ấy. [1, 23]. Xét về phương diện phát sinh, thì đối với hoạt động của con người, sự không trùng khớp giữa các động cơ và mục tiêu là hiện tượng khởi điểm. Trái lại, sự trùng khớp động cơ và mục tiêu lại là hiện tượng có sau: hoặc đó là kết quả của việc mục tiêu có một động lực thúc đẩy độc lập, hoặc đó là kết qủa của sự ý thức về các động cơ làm cho chúng trở thành những động cơ - mục tiêu. Khác với mục tiêu, các động cơ thường không được chủ thể ý thức về nó ngay lúc đó, khi chúng ta thực hiện những hành động này hay hành động khác thì thường lúc đó chúng ta không ý thức về những động cơ đã thúc đẩy chúng ta. Khi được hỏi về duyên cớ của hành động đó thì chúng ta không khó khăn gì khi nêu ra nó, nhưng việc nêu duyên cớ này hoàn toàn không phải bao giờ cũng chỉ rõ cho người ta biết những động cơ thực sự đã thôi thúc các hành động ấy. Tuy nhiên, những động cơ này cũng không tách rời khỏi ý thức, ngay cả khi con người không ý thức được động cơ hành động của mình thì ngay những lúc như vậy, động cơ cũng được phản ánh vào tâm lí, nhưng ở dưới một hình thức đặc biệt: hình thức sắc thái cảm xúc của hành động. Sắc thái cảm xúc này (cường độ, dấu hiệu của nó và đặc tính về chất của nó) thực hiện một chức năng đặc
  20. biệt, và điều đó đòi hỏi phải phân biệt khái niệm cảm xúc với khái niệm hàm ý nhân cách. Tuy thế, không phải ngay từ đầu đã có sự không trùng khớp của hai khái niệm này, mà sự không trùng khớp chỉ xuất hiện do kết qủa phân đôi chức năng của động cơ nảy sinh trong tiến trình phát triển của hoạt động con người. Còn việc những động cơ mà lúc bấy giờ không được ý thức, hoàn toàn không chứng tỏ rằng động cơ là một bản nguyên đặc biệt, lẩn khuất trong những tầng sâu của tâm lý. Những động cơ không được ý thức cũng chịu sự quy định như bất cứ một sự phản ánh tâm lí nào khác, chịu sự quy định của tồn tại thực tế, của hoạt động con người trong thế giới khách quan. Và các động cơ chỉ lộ ra trước ý thức một cách khách quan bằng cách phân tích hoạt động của con người, còn trong chủ quan thì những động cơ chỉ thể hiện dưới dạng gián tiếp của nó mà thôi, tức là dưới dạng hình thức những trải nghiệm như: mong muốn, ý muốn, nguyện vọng đạt tới mục tiêu… Sự ý thức được động cơ là một hiện tượng có sau, chỉ nảy sinh ở mức độ nhân cách và thường xuyên được tái tạo lại trong tiến trình phát triển nhân cách. Các động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử - xã hội. Động cơ của con người nảy sinh ngay trong chính quá trình phát triển của cá thể, chứ không phải có sẵn từ lúc đứa trẻ mới sinh ra. Trong tuổi ấu nhi, các động cơ mới được hình thành một cách có thứ bậc, nhưng hết sức mờ nhạt, không rõ ràng. Dần dần, trong quá trình phát triển, những động cơ này mới dần mang tính chất xã hội nhiều hơn, do những động cơ đó gắn liền với việc trẻ lĩnh hội được những chuẩn mực, quy tắc hành vi trong xã hội. Phần lớn các nhà tâm lí học đều thừa nhận rằng, hệ thống động cơ của con người được hình thành trên cơ sở hoạt động, giao tiếp của con người trong hệ thống các quan hệ xã hội, nhóm xã hội nhất định. Nhưng trong hoàn cảnh buộc con người phải lựa chọn động cơ nào cho phù hợp với việc tiến hành hành động, khi đó có quá trình đấu tranh động cơ, hành động ý chí, khả năng nhận thức sẽ giúp con người đối chiếu, so sánh động cơ để chọn ra đâu là động cơ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xung quanh, giúp chủ thể lường trước diễn biến và kết quả hành động. Tuy nhiên, để làm rõ cơ chế hình thành động cơ lại chưa được nhiều nhà nghiên cứu, nghiên cứu một cách sâu sắc. Mặt khác, đối tượng thoả mãn của con người là những sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội, với tư cách là những phản ánh tâm lí về đối tượng đó nên động cơ đặc trưng của con người mang nguồn gốc xã hội. Ngay cả một số động cơ mang tính chất sinh vật như động cơ đáp ứng nhu cầu tồn tại của con người, các nhu cầu bản năng của con người cũng mang tính xã hội, nó phụ thuộc vào điều kiện sống, lối sống, đặc trưng của mỗi dân tộc. [2,23]. 1.2.1.3. Cấu trúc động cơ của nhân cách. Nghiên cứu cấu trúc động cơ có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong ứng dụng tâm lí học, nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục điều chỉnh hành vi lệch chuẩn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0