intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Những yếu tố tác động đến tự đánh giá của sinh viên tại thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

154
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Những yếu tố tác động đến tự đánh giá của sinh viên tại thành phố Hồ Chí Minh tìm hiểu tự đánh giá, các yếu tố tác động đến tự đánh giá và tương quan giữa tự đánh giá với các yếu tố tác động đến tự đánh giá bản thân ở sinh viên, đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế những yếu tố tác động tiêu cực ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của họ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Những yếu tố tác động đến tự đánh giá của sinh viên tại thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________ NGÔ THỊ ĐẸP NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tâm Lý Học Mã số: 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
  2. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến: - Ban giám hiệu Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh - Phòng KHCN – SĐH và các phòng ban của Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh - Quí thầy cô trong khoa Tâm Lý – Giáo Dục Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh và quí thầy cô ở các khoa đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt khóa học - PGS.TS Đoàn Văn Điều đã tận tâm hướng dẫn và giảng dạy tôi trong suốt thời gian từ những ngày chưa bắt đầu khóa học cho tới nay. - Và các bạn cùng khóa học, đồng nghiệp, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong học tập cũng như trong khi tôi thực hiện luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2007. Tác giả Ngô Thị Đẹp
  3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT HSTC: Hệ số tin cậy ĐLTC: Độ lệch tiêu chuẩn TB: Trung bình ĐTB: Điểm trung bình ĐTBĐH: Điểm trung bình điều hòa YTTD: Yếu tố tác động TĐG: Tự đánh giá TĐGBT: Tự đánh giá bản thân r: Hệ số tương quan Pearson P.: Mức ý nghĩa F: Kiểm nghiệm F với K mẫu độc lập (giải tích biến lượng) T: Kiểm nghiệm t với hai mẫu liên hệ SV: Sinh viên TP: Thành phố NXB: Nhà xuất bản
  4. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Tự đánh giá bản thân đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý và nhất là đối với sự phát triển nghiên cứu của cá nhân. Sự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân phụ thuộc vào sự tự nhận thức, tự đánh giá bản thân của mỗi cá nhân. Sự tự đánh giá phù hợp với bản thân là điều kiện bên trong để phát triển nhân cách. Khi nhận thức đúng, đánh giá đúng bản thân thì cá nhân mới có cơ sở để điều chỉnh, điều khiển bản thân cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, yêu cầu của tập thể. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tự đánh giá của cá nhân từ bên trong lẫn bên ngoài là không thể tránh khỏi. Trong thời gian làm công tác tham vấn tâm lý, người nghiên cứu nhận thấy hầu hết đối tượng thanh niên, sinh viên đến tham vấn đều có vấn đề về việc tự đánh giá bản thân. Việc tự đánh giá ở những thanh niên này không phải hoàn toàn là thấp hay tiêu cực, thậm chí có những em tự đánh giá bản thân rất cao. Khi tìm hiểu sâu hơn ở các em, người nghiên cứu thấy những yếu tố từ bên ngoài tác động đến việc các em đánh giá bản thân chủ yếu là từ môi trường gia đình, người thân. Sự tự đánh giá không phù hợp ở các em đã dẫn đến một số vấn đề như khó khăn trong tâm lý như giao tiếp, ứng xử khó khăn không chỉ với người ngoài mà cả với những người trong gia đình, đặc biệt có một số em gặp trở ngại rất lớn trong việc hòa đồng với môi trường học tập, làm việc như không biết cách nào để có thể giao tiếp với bạn bè, đồng nghiệp cùng cơ quan, hệ quả là phải liên tục thay đổi chổ làm, thậm chí một số em cũng không biết định hướng cho tương lai của mình như thế nào. Từ thực tế trên, người nghiên cứu nhận thấy việc tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến tự đánh giá của sinh viên là hết sức cần thiết cho gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục, định hướng đúng cho giới trẻ. Vì thế đề tài “Những yếu tố tác động đến tự đánh giá của sinh viên tại Thành phố Hồ Chí Minh” đã được người nghiên cứu ưu tiên chọn. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trên cơ sở tìm hiểu tự đánh giá, các yếu tố tác động đến tự đánh giá và tương quan giữa tự đánh giá với các yếu tố tác động đến tự đánh giá bản thân ở sinh viên, đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế những yếu tố tác động tiêu cực ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của họ. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Xuất phát từ mục đích nghiên cứu đã nêu, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của đề tài như sau: 3.1. Nghiên cứu các tài liệu liên quan để thiết lập cơ sở lý luận cho đề tài.
  5. 3.2. Khảo sát thực trạng về tự đánh giá bản thân của sinh viên, các yếu tố tác động đến tự đánh giá bản thân ở sinh viên và nghiên cứu mối tương quan giữa sự tự đánh giá với các yếu tố tác động đến tự đánh giá bản thân ở sinh viên. 3.3. Đề xuất một số ý kiến nhằm hạn chế những yếu tố tác động tiêu cực ảnh hưởng đến tự đánh giá bản thân của sinh viên. 4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng nghiên cứu Sự tự đánh giá và các yếu tố tác động đến tự đánh giá bản thân ở sinh viên. 4.2. Khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu là sinh viên thuộc ba trường Đại học tại thành phố Hồ Chí Minh là Đại học Sư Phạm, Kinh Tế và trường Đại học dân lập Văn Hiến. Mẫu nghiên cứu là 234 sinh viên. 5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU 5.1. Do phần lớn sinh viên chưa có cơ hội thể hiện bản thân qua các hoạt động nên mức độ tự đánh giá bản thân ở sinh viên đạt ở mức trung bình. 5.2. Yếu tố tác động mạnh đến tự đánh giá bản thân ở sinh viên là các ảnh hưởng từ trong gia đình mặc dù có nhiều yếu tố khác nhau tác động đến việc này. 6. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trên một số yếu tố tác động đến tự đánh giá bản thân ở sinh viên như những yếu tố có liên quan mật thiết tới đời sống của sinh viên; yếu tố trong gia đình (mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái), yếu tố ngoài gia đình (mối liên hệ với bạn bè và thầy cô). 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Người nghiên cứu thu thập và phân tích các tài liệu, cũng như các công trình nghiên cứu có liên quan để làm cơ sở lý luận cho đề tài. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, được thực hiện qua hai giai đoạn; * Giai đoạn 1, lấy ý kiến bằng phiếu thăm dò với các câu hỏi mở. * Giai đoạn 2, thu thập ý kiến đánh giá bằng phiếu thăm dò với các câu hỏi có nhiều lựa chọn. Đây là phương pháp chính của đề tài này, nhằm tìm hiểu thực trạng về tự đánh giá bản thân của sinh viên và các yếu tố tác động đến sự tự đánh giá bản thân của sinh viên. 7.3. Phương pháp xử lý toán thông kê.
  6. Dùng chương trình xử lý số liệu SPSS trong việc xử lý số liệu. 8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI - Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về tự đánh giá và các yếu tố tác động đến tự đánh giá bản thân của sinh viên. - Kết quả nghiên cứu thực tiễn, khẳng định thêm tầm quan trọng của các yếu tố tác động từ bên trong lẫn bên ngoài gia đình đến tự đánh giá bản thân của sinh viên
  7. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề nghiên cứu Ở nước ta có ít tác giả nghiên cứu về tự đánh giá, và các tác giả này chủ yếu nghiên cứu trên khách thể là thanh thiếu niên như: Nhóm nghiên cứu cùng với tác giả Văn Thị Kim Cúc, nghiên cứu đề tài “Những tổn thương tâm lý của thanh thiếu niên do bố mẹ ly hôn” bên cạnh tìm hiểu nhiều vấn đề khác nhau, các tác giả này còn chỉ ra mối tương quan giữa biểu tượng gia đình và sự tự đánh giá bản thân ở trẻ từ 10 đến 15 tuổi [2]. Hay trong luận án tiến sĩ của Đỗ Ngọc Khanh, tác giả tìm hiểu nhiều về sự ảnh hưởng của các cách cư xử của cha me đối với con cái, ảnh hưởng từ sự ủng hộ của cha mẹ đối với con cái cũng như ảnh hưởng từ môi trường đến sự tự đánh giá bản thân của các em học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội [13]. Tác giả Vũ Thị Nho cũng có sự quan tâm đáng kể về tự đánh giá ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Với tuổi thiếu niên, tác giả cho rằng “sự tự đánh giá của thiếu niên cao hơn hiện thực”[23, tr.110], còn với tuổi đầu thanh niên: “Nhìn chung, họ có lòng tự trọng cao, song tính phê phán và sự tỉnh táo chưa cao. Chỉ bằng con đường trải nghiệm trong thực tế cuộc sống, dần dần những người trẻ tuổi mới đạt được những khả năng tự đánh giá mình và có lòng tự tin, tự trọng đúng mức như chính bản thân” [23, tr.130]. Đề tài luận án phó tiến sĩ tâm lý học của Lê Ngọc Lan “Nghiên cứu về mối quan hệ giữa khả năng tự đánh giá một cách phù hợp của học sinh đối với thái độ học tập và động cơ học tập”, tác giả đã tìm ra được mối quan hệ về tự đánh giá, về thái độ đối với học tập của học sinh có liên quan đến động cơ học tập. Luận án có kết luận rằng: Khả năng tự đánh giá về thái độ đối với học tập của các em học sinh lớp 6 và lớp 8 phát triển chưa đầy đủ, ở các môn học khác nhau thì khả năng tự đánh giá phù hợp về thái độ đối với học tập của các em không có sự khác biệt rõ rệt. Một đề tài khác liên quan đến tự đánh giá ở sinh viên của nhóm tác giả trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh là: “Tìm hiểu sự tự đánh giá về thái độ đối với tập thể của sinh viên trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh và mối liên quan của nó với bầu không khí tâm lý trong tập thể sinh viên”. Qua việc nghiên cứu tự đánh giá, các tác giả nghiên cứu việc tự đánh giá có ảnh hưởng đến một lĩnh vực nào đó của đời sống của các em như các em gặp các vấn đề khó khăn với bạn cùng lứa tuổi và có xu hướng gặp những trục trặc tâm lý như trầm cảm [15, tr. 27], hay khi các em đánh giá quá cao bản thân hay quá thấp cũng đều có tác động không tốt cho sự phát triển của các em. Đánh giá quá cao dẫn đến hậu quả là cá nhân sẽ nghi ngờ bản
  8. thân và phải đánh giá lại nếu không đạt được những gì mình mong muốn. Kết quả là cá nhân đó thường xung đột với thực tại đối lập xung quanh mình. Ngược lại, tự đánh giá bản thân thấp có thể gây ra mặc cảm “kém giá trị”, không tin vào bản thân mình, kém sáng tạo, bàng quan, tự lên án bản thân và bất an [15, tr. 26]. 1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài Trong đề tài này chúng ta sẽ tìm hiểu về một số khái niệm liên quan đó là khái niệm yếu tố, tự ý thức, tự đánh giá, tự đánh giá và “cái tôi”. Trước tiên, chúng ta tìm hiểu qua về khái niệm yếu tố. 1.2.1. Yếu tố Khái niệm yếu tố được nhiều tác giả định nghĩa khác nhau như; - Yếu tố là điều kiện quan hệ tạo nên một sự vật [17, tr. 1567]. - Yếu tố là bộ phận cấu thành nên sự vật, sự việc, hiện tượng [38, tr. 927]. - Yếu tố là nguyên tố, thành phần cốt yếu cấu thành vật gì (như yếu tố tâm lý) [19, tr .1351]. - Yếu tố được xem là một trong những bộ phận có quan hệ phối hợp với nhau thành một toàn thể [4, tr. 958]. Trên đây là một số khái niệm về yếu tố của các tác giả khác nhau được trình bày trong một số từ điển tiếng Việt. Mặc dù, các cách hiểu có hơi khác nhau về khái niệm yếu tố, nhưng chúng ta vẫn thấy có những điểm chung trong các khái niệm này là: yếu tố là một trong những bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng hay được hiểu như một sự việc, bộ phận cấu thành đó có mối quan hệ với nhau tạo thành một sự vật, sự việc, hiện tượng. Trong nghiên cứu này, người nghiên cứu chọn khái niệm “yếu tố là một trong những bộ phận có quan hệ phối hợp với nhau thành một toàn thể” 1.2.2. Tự ý thức Tự ý thức là sự hiểu biết đầy đủ về bản thân mình, về giá trị và vai trò của bản thân mình trong cuộc sống, trong xã hội [25, tr. 7]. A.V.Petrovski quan niệm: Tự ý thức chính là sự phát hiện ra “cái tôi” và hình ảnh của “cái tôi”. Con người khi tham gia vào quan hệ xã hội đã tách biệt bản thân ra khỏi môi trường xung quanh, cảm thấy bản thân mình là chủ thể của các trạng thái, hoạt động, của các quá trình tâm lý, thể chất của mình, xuất hiện cho chính mình như “cái tôi”. “cái tôi” tương phản với “người khác” nhưng luôn luôn quan hệ mật thiết với nhau. Xem xét quá trình khám phá ra “cái tôi” của nhân cách. Tự đánh giá có thể được hiểu như là mưc độ phát triển cao của tự ý thức, vì vậy, giữa tự đánh giá và tự ý thức có mối liên kết chặt chẽ với nhau. Tự đánh giá chỉ có được trên cơ sở của tự ý thức [25, tr. 8].
  9. Theo Vưgotski thì tự ý thức là ý thức xã hội được chuyển vào bên trong, như thế tự đánh giá chỉ xảy ra khi nào có tự ý thức, nhờ có tự ý thức mới có thể có tự đánh giá [13, tr. 34]. S.L.Rubinstein cho rằng: Trong sự phát triển của tự ý thức diễn ra một loạt các mức độ từ sự nhận thức đơn giản về bản thân dẫn tới sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn. Từ sự nhận thức sâu sắc đó gắn liền với một sự tự đánh giá. Tự ý thức là sản phẩm tương đối muộn của ý thức. Tự ý thức đòi hỏi đứa trẻ phát triển thành chủ thể tách mình khỏi môi trường của nó một cách có ý thức. Thoạt đầu, đứa trẻ chưa có ý thức, lại càng chưa thể có tự ý thức, mà ý thức lại là dấu hiệu của nhân cách. Trong quá trình phát triển tâm lý của trẻ, dưới ảnh hưởng của hoàn cảnh sống, xã hội, mối quan hệ xã hội dần dần được mở rộng ra giúp trẻ nhận ra bản thân mình, vị trí của mình trong các quan hệ xã hội [13, tr.34]. Theo Franz thì tự ý thức là nhận thức về chính bản thân mình, là sự trở nên có ý thức về những hiểu biết của bản thân mình, sự trở nên có ý thức về những xúc cảm riêng của bản thân. Như vậy, tự ý thức chính là tự nhận thức, ở đó bao gồm việc con người hiểu biết được bản thân mình (hiểu biết về khả năng, năng lực và những phẩm chất của bản thân). Cá nhân không chỉ hiểu biết về các hiện tượng tâm lý đang có ở mình mà còn ý thức được cả những hiểu biết ấy. Khi con người nhận thức được bản thân mình, con người thường tỏ thái độ (vui, buồn, hài lòng hay không hài lòng… với bản thân) và con người còn ý thức được cả những xúc cảm riêng ấy. S. Franz khẳng định: “Tự nhận thức là quá trình phong phú và phức tạp” [13, tr. 32]. Quá trình tự nhận thức này được thực hiện trong các quá trình tâm lý bộ phận và trong thực tế của một nhân cách, những quá trình tâm lý đó không thể tách rời nhau, bao gồm: - Thứ nhất: Bên cạnh những quá trình cung cấp tài liệu ban đầu (tự cảm giác, tự quan sát, so sánh những kết quả thu được) thông qua quá trình tự nhận xét với những nguồn thông tin của những người khác về bản thân mình. Quá trình này là mở đầu cho sự tự đánh giá, nhận xét ban đầu về mình. - Thứ hai: Là những quá trình dẫn đến những xác định đơn giản về bản thân. - Thứ ba: Là quá trình dẫn đến sự tự đánh giá, ví dụ như quá trình dẫn đến việc khẳng định thành tích học tập của mình thuộc loại nào (loại tốt hoặc kém). - Thứ tư: “Là quá trình dẫn đến sự tự phê phán”. Qua ý kiến của S. Franz cho thấy: Tự ý thức là sự nhận thức về bản thân mình, nó bao gồm không những sự hiểu biết về những phẩm chất, những năng lực của bản thân mà cả việc xác định thái độ đối với bản thân. Tự ý thức hay là tự nhận thức về bản thân mình được hình thành trong cuộc sống và hoạt động của con người [34].
  10. Theo các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Lũy và Đinh Văn Lang soạn đề cương bài giảng tâm lý học đại cương của hội đồng bộ môn tâm lý trường ĐHSP Hà Nội thì “Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức là ý thức về mình, tức là khi bản thân trở thành đối tượng “mổ xẻ”, phân tích, lý giải… thì lúc đó con người đang tự ý thức. Tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau: chủ thể nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội, trên cơ sở đó tự nhận xét, tự đánh giá. Có thái độ rõ ràng đối với bản thân, tự điều chỉnh, điều khiển hành vi theo mục đích tự giác. Chủ thể có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình” [16, tr. 35]. Phạm Hoàng Gia, trong bài “Ý thức và tự ý thức” đã trình bày những biểu hiện của tự ý thức và chức năng của nó: “Tự ý thức biểu hiện ra ở dấu hiệu tự nhận thức của mình (về bên ngoài, về nội dung tâm hồn, vị trí các quan hệ xã hội của mình…) có thái độ đối với mình (tự phê bình, tự đánh giá, tự nhận định, có dự định về đường đời của mình, chọn người mẫu để bắt chước, có lý tưởng chí hướng) và có khả năng tự kìm chế, tự thúc đẩy, tự kiểm tra… và là kết tinh của hoạt động tự giáo dục” [34, tr.13]. 1.2.3. Tự đánh giá 1.2.3.1. Đánh giá Theo nghĩa thông thường, “đánh giá là nhận thức cho rõ giá trị của một người hoặc một vật”. Với ý nghĩa này, nội dung của việc đánh giá chính là tập trung làm rõ giá trị của một người hoặc một sự vật. Trong tâm lý học, đánh giá được hiểu là “những ý kiến, những kết luận được rút ra từ những bằng chứng, phê phán có suy xét về con người và sự kiện. Có các dạng đánh giá khác nhau như: đánh giá sự khác biệt, đánh giá nhân viên, phản hồi, đánh giá công việc, đánh giá hoạt động, đánh giá kết quả, đánh giá chương trình, tác động của chương trình, tự đánh giá, đánh giá hệ thống… Như vậy chúng ta có thể hiểu đánh tự đánh giá như một dạng của đánh giá. Tùy những mục đích nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm khác nhau, phục vụ cho lĩnh vực nghiên cứu mà họ quan tâm. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về khái niệm tự đánh giá. 1.2.3.2. Tự đánh giá Ý kiến của I.A. Polôsôva thì “tự đánh giá là biểu tượng của con người về chính mình đã được hình thành một cách bền vững. Đó là quá trình tự đánh giá mình mà ở đó biểu tượng của nhân cách về mình được nảy sinh”. Polôsôva còn nhấn mạnh: “Biểu tượng về nhân cách của mình như sản phẩm của tự đánh giá như là một quá trình tạo ra những điều kiện cho nhau khi tạo thành sự thống nhất” [34].
  11. A.V. Lípkina quan niệm: “Tự đánh giá là thái độ của con người đối với năng lực, khả năng, những phẩm chất nhân cách cũng như bộ mặt bên ngoài của mình”. Những biểu tượng của đứa trẻ về những cái đạt được, dự án về tương lai của nó, mặc dù chưa hoàn thiện nhưng cũng được phản ánh trong tự đánh giá. Từ việc phân tích nội dung, Lípkina kết luận: “Tự đánh giá là một cấu tạo cấu trúc phức tạp, nó phản ánh cái mà đứa trẻ nhận ra về mình từ những người khác và cả tính tích cực riêng đang lớn mạnh hướng vào sự nhận thức các hành động và các phẩm chất nhân cách của mình”. Rõ ràng, việc nghiên cứu tự đánh giá rất phức tạp, bởi vì đây là một hệ thống trong các hiện tượng tâm lý thầm kín của nhân cách. Nhà tâm lý học V.P. Levcôvich đã định nghĩa: “Tự đánh giá là một giai đoạn cao của tự ý thức, nó bao gồm không những nhận thức bản thân mà còn có sự đánh giá đúng sức lực và khả năng của mình, bao gồm cả thái độ phê phán đối với bản thân [34]. S. Franz đã phân tích bản chất của tự đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện xuất phát từ các phạm trù ý thức và tự ý thức. Tác giả cho rằng: “sự tự đánh giá là một hình thức đặc biệt của hoạt động nhận thức của nhân cách” và có thể coi “sự tự đánh giá là một chỉ số của mức độ tự nhận thức của một nhân cách”. S.Franz phân tích tự đánh giá trong quá trình cấu thành của tự ý thức. Đứng ở góc độ phản ánh, tự ý thức là một quá trình nhận thức hướng vào bản thân mình với những kết quả của quá trình đó. Tự nhận thức là quá trình phong phú và phức tạp bao gồm các quá trình sau: - Những quá trình cung cấp tài liệu ban đầu - Những quá trình dẫn đến sự xác định đơn giản về bản thân - Những quá trình dẫn đến sự tự đánh giá - Tự phê phán, tỏ thái độ đối với bản thân Theo S. Franz, con người không chỉ nhận xét bằng lời xem mức độ của các hiện tượng tâm lý đang tồn tại ở mình như thế nào, mà sự nhận thức đó sẽ liên hệ với hệ thống quan điểm của bản thân về giá trị và cuối cùng dẫn đến sự tỏ thái độ đối với bản thân. Ở góc độ nhân thức, S. Franz coi tự đánh giá là một quá trình cấu thành của nhận thức, là mức độ phát triển cao của nó. Tự đánh giá là một dạng đặc biệt của nhận thức của nhân cách: “Tự đánh giá là phát biểu của cá nhân về mức độ biểu hiện của những hiện tượng tâm lý, những đặc điểm tâm lý và có thể của những phương thức thái độ đang tồn tại ở bản thân”. Từ cách nhìn nhận ấy, Franz đi sâu phân tích một cách sâu sắc bản chất của tự đánh giá. Trước hết, trong tự đánh giá, cá nhân không chỉ nhận thức được mình một cách chung chung, đại khái, xác định được cái mà bản thân có hoặc không có mà phải chỉ ra được các hiện tượng tâm lý được đánh giá. Từ chỗ nhận thức về mức độ tồn tại của đặc điểm tâm lý
  12. của mình, cá nhân sẽ có sự liên hệ với hệ thống quan điểm của bản thân về giá trị và tỏ thái độ đối với bản thân. Trên cơ sở ấy, cá nhân có khả năng tự điều chỉnh, điều khiển hành vi, tự hoàn thiện mình. S. Franz còn phân tích rõ từng bước của quá trình tự đánh giá và các quá trình cấu thành nó. Theo Franz, sự tự đánh giá gồm các quá trình sau: - Quá trình soạn thảo và tiếp nhận các thông tin khác nhau về bản thân - Những quá trình dẫn đến sự xác định đơn giản về những hiện tượng tâm lý, những thái độ đang tồn tại của bản thân. - Cá nhân xem xét những hiện tượng đã được xác định đó trong hệ thống tiêu chuẩn đánh giá để biết các hiện tượng tâm lý tồn tại ở mức nào. - Phát biểu thành lời dưới hình thức tự đánh giá. Các thông tin có thể thu được từ hai nguồn khác nhau: - Cá nhân tự quan sát bản thân, tự phân tích mình, từ đó có được thông tin về mình. - Thu thập thông tin của những người khác về mình. Kết quả thu thập thông tin phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Yếu tố bên ngoài (nội dung, chất lượng, độ phong phú của thông tin…), yếu tố bên trong (trình độ nhận thức của cá nhân, mối quan hệ giữa chủ thể và người phát ra thông tin…). Từ việc thu thập thông tin, cá nhân sẽ có những cứ liệu để xem xét những hiện tượng về cơ thể và tâm lý, hành vi, thái độ của bản thân, từ đó đối chiếu với hệ thống tiêu chuẩn đánh giá xem nó tồn tại ở mức độ nào. Thực tế cho thấy, không phải lúc nào cá nhân cũng tự đánh giá đúng bản thân mình. Nhà giáo dục phải phân tích được các bước của quá trình tự đánh giá, phải chỉ ra được nguyên nhân của một số sai lầm khi tự đánh giá, từ đó có phương hướng, kế hoạch giúp đỡ học sinh tự đánh giá đúng. Mặt khác, không phải lúc nào tự đánh giá của cá nhân cũng đồng nhất với sự sẵn sàng bộc lộ nó ra bên ngoài. Việc cá nhân sẵn sàng bộc lộ sự tự đánh giá còn phụ thuộc vào một số điều kiện như bầu không khí, tính chất và mức độ gắn bó của tập thể, quan hệ giữa các cá nhân trong tập thể,… phải thấy được sự tự đánh giá và đánh giá có mối quan hệ với nhau trong quá trình hoàn thiện nhân cách của mỗi người. Theo S. Franz thì tự đánh giá bao gồm: Con người xác định được các hiện tượng tâm lý đang có ở bản thân mình, chỉ ra được mức độ đang tồn tại của các hiện tượng tâm lý đó. Trên cơ sở đó có liên hệ đến hệ thống giá trị của bản thân và có thái độ với bản thân mình. S. Franz cho rằng mức ba và mức bốn của tự đánh giá là mức độ cao gọi là tự nhận xét, tự phê phán bản thân. Theo nhà nhân loại học Margaret Mead, cho rằng tự đánh giá bản thân được xác định từ sự tự đánh giá của người khác. Tương tự như chiếc gương phản lại mức độ nào đó các tiêu chí mà những người quan trọng trong xã hội đã sử dụng, nó được xem là một cách đo
  13. tự đánh giá bản thân. Điều này cho thấy con người không thể tự đánh giá bản thân mình mà không soi rọi vào một điểm nào đó làm chuẩn, cho dù người đó có tin tưởng vào tính độc lập của mình đến mấy thì họ cũng tự mang theo bên mình một cái gương phản chiếu từ nhóm xã hội của họ. Một người sẽ đặt cho giá trị bản thân là cao, khi người đó được những người quan trọng xung quanh cuộc sống của họ đối xử một cách quan tâm và tôn trọng. Chìa khóa của Mead để có thông tin về tự đánh giá bản thân của một người là cách nhìn nhận của người khác được khái quát và được thể hiện trong cách đối xử với họ [24, tr. 40]. Với tư cách là những nhà tâm lý học lâm sàng, theo trường phái phân tích xã hội, đó là Alfred Adler, Karen Horney, Erich Fromn và Harry Stack Sullivan. Sullivan chấp nhận sự diễn giải của Mead về nguồn gốc xã hội của cá nhân và ông tiếp tục phân tích mở rông thêm về các quá trình bên trong cá nhân đã tham gia vào. Sullivan dùng khái niệm sự nhân cách hóa trong khi đứa trẻ phát triển ngày càng tăng các dạng thức kinh nghiệm phức tạp hơn để giúp chúng đối phó với môi trường xung quanh, đồng thời chúng cũng đang phát triển các kiểu kỳ vọng của xã hội để giúp cầu trúc hóa các tri giác về phạm vi liên ngôi vị. Mỗi kiểu kỳ vọng được học tập lúc đầu được đặc trưng cho một cá nhân được gọi là sự nhân cách hóa loại người đó. Một sự nhân cách hóa quan trọng đặc biệt là bản thân. Hình ảnh bản thân hợp nhất những sự nhân cách hóa “cái tôi” tốt, “cái tôi” xấu và không phải “cái tôi”. Ông cho rằng sự lo âu là một nhân tố trong quyết định quan trọng chính yếu của tiến trình phát triển. Sullivan phân biệt rõ giữa lo lắng và sợ hãi. Sự lo lắng được phát sinh khi có một mối đe dọa liên ngôi vị đối với lòng tự trọng của cá nhân, sự sợ hãi phát sinh từ một mối đe dọa ở bên ngoài đối với sự tồn tại hay sự hội nhập về mặt sinh học. Hậu quả của lo lắng không hoàn toàn tiêu cực. Ông tin rằng sự nhận thấy về những người khác dường như có mặt ở mọi nơi và có một yếu tố đánh giá lớn. Cá nhân tiếp tục bảo vệ bản thân chống lại sự tổn thất của tự đánh giá bản thân. Và lo lắng là một hiện tượng tâm lý xuất hiện khi một cá nhân thực tế bị bản thân hay người khác chối bỏ hoặc hả thấp. Nếu ai đó đánh giá bản thân thấp, thì có thể giả thuyết rằng trong lịch sự cuộc đời người đó đã từ bị những người quan trọng xung quanh đánh giá thấp và người này cảm thấy được sự xúc phạm trong hoàn cảnh hiện tại [24]. Sullivan cũng đề cập đến việc làm thế nào con người học cách giảm bớt hoặc chống lại sự đe dọa đối với sự tự đánh giá bản thân của một người. Con người học cách giải quyết với những đe dọa như vậy trong các dạng khác nhau và với mức độ khác nhau. Khả năng làm giảm hoặc tránh các tổn thương trong sự tự đánh giá bản thân để duy trì sự tự tin ở mức độ tương đối cao là rất quan trọng. Ông tập trung vào mối quan hệ liên nhân cách là nền tảng của sự tự đánh giá bản thân, sự quan trọng đặc biệt của cha mẹ, anh chị em ruột và sự
  14. quan trọng của các biện pháp làm giảm các sự kiện liên quan đến nguồn gốc của sự tự đánh giá thấp bản thân. Alfred Adler một nhà tâm lý học có hoàn cảnh thời bé khá đặc biệt, có lẽ vì thế ông quan tâm nhiều đến việc bù đắp cho sự thấp kém và cố gắng để đạt được tính ưu việt trong một con người. Bên cạnh những lý thuyết này ông còn đề cập đến thứ tự sinh đẻ và vị trí hợp lý của đứa trẻ trong gia đình như một nhân tố quyết định xã hội chính yếu cho một con người và cả mô hình hành vi sau này của họ. Adler lý giải rằng: con một có khuynh hướng chi phối cha mẹ trong những năm đầu tiên của thời thơ ấu, và phát triển các thói quen chủ yếu dựa trên những phần thưởng nhận được từ hành vi nổi trội này. Con cả trong một gia đình có nhiều con, về cơ bản, có kinh nghiệm giống như con một, nhưng sự ra đời của đứa thứ nhì có thể chuyển tình cảm yêu mến của cha mẹ sang hướng khác, làm cho đứa lớn bất an và thậm chí có khi thù ghét. Đứa trẻ sinh thứ nhì, có thể có kinh nghiệm chi phối lúc đầu không chỉ đối với cha mẹ mà cả với anh ruột nữa. Do đó, đứa trẻ sinh thứ nhì có thể trở thành một người có nhiều tham vọng, năng nổ, có sự điều chỉnh tốt hơn người con cả. Con út có phạm vi chi phối tiềm tàng được mở rộng thêm nữa thường trở nên luôn như một đứa trẻ của gia đình. Cơ bản, đứa trẻ này dễ bị làm trở nên hư hỏng [5]. Qua một số quan điểm khác nhau về tự đánh giá của các tác giả nêu trên, người nghiên cứu xét thấy đó chỉ là một số ít khái niệm đại diện được nêu trong đề tài này. Để thống nhất cho nghiên cứu này, người nghiên cứu sử dụng khái niệm tự đánh giá như sau: Tự đánh giá là thái độ của con người đối với năng lực, khả năng, những phẩm chất nhân cách, và cả thái độ phê phán đối với bản thân. Khi xem xét tự đánh giá chúng ta không thể không xem xét đến vấn đề tự ý thức. Muốn đánh giá chính xác bản thân trước tiên chúng ta phải tự ý thức về chính bản thân mình, hay nói cách khác là phải có khái niệm rõ ràng về bản thân (“cái tôi”). Mặt khác, nếu thiếu sự nhận thức của cá nhân về phẩm chất nhân cách như một vai trò vị thế của cá nhân trong hoạt động và giao tiếp với những người xung quanh thì chúng ta không thể tự đánh giá đúng về mình. Nói chung, tự ý thức, tự nhận thức về mình là yếu tố cần thiết để có thể có được sự tự đánh giá. Và để có cái nhìn rõ hơn về sự phát triển của lứa tuổi thanh niên, sinh viên, chúng ta không thể bỏ qua những yếu tố ảnh hưởng đến sự ý thức, đánh giá của sinh viên. 1.3. Một số đặc điểm của tự đánh giá Đặc điểm của tự đánh giá tuy không được nghiên cứu nhiều nhưng các tác giả cũng có sự quan tâm đáng kể. Dựa vào các quan điểm khác nhau, các tác giả nêu ra các đặc điểm khác nhau của tự đánh giá thông qua:
  15. - Tính phù hợp: xét tự đánh giá trong mối quan hệ với thực tế khách quan được đánh giá. - Tính phân biệt và tính khái quát: xét theo nội dung và phạm vi hoạt động được đánh giá. - Độ cao của tự đánh giá: được xét trong mối quan hệ với hệ thống mức độ đánh giá. - Tính bền vững: xét tự đánh giá trong khoảng thời gian nhất định [34, tr. 18]. 1.3.1. Tính phù hợp của tự đánh giá. Cũng như mọi hiện tượng tâm lý khác, tự đánh giá là hình ảnh của hiện thực khách quan. Ở góc độ triết học, ta có thể nói, một hình ảnh được coi là phù hợp “nếu nó đồng nhất với đối tượng được phản ánh trong đó, nếu nó phản ánh đúng đối tượng tương ứng với nó”. Nói đến đánh giá thì bao giờ cũng phải nói tới độ chính xác hay mức độ phù hợp của đánh giá. Tự đánh giá là một hình ảnh của thực tế khách quan được đánh giá sẽ coi là có tính phù hợp nếu sự phát biểu đó là chính xác, sát thực với thực tế được đánh giá. Cho nên, phải lấy thực tế khách quan làm tiêu chuẩn để xem xét tính phù hợp của tự đánh giá. Cá nhân đánh giá người khác và người khác đánh giá cá nhân đó được gọi là đánh giá bên ngoài. Sự đánh giá này phải phù hợp với thực tế khách quan mà cá nhân có. Khi ý kiến của cá nhân về mình trùng khớp với ý kiến bên ngoài (sát thực tế) thì tự đánh giá được coi là phù hợp. Tự đánh giá được coi là không phù hợp (tự đánh giá cao hoặc thấp so với những cái thực có của mình) mà nguyên nhân sai lầm có thể nằm ở một hoặc bốn khâu của quá trình tự đánh giá mà chúng ta đã nêu ở trên. Nhiều tác giả đồng ý rằng, có thể coi đánh giá bên ngoài là những tiêu chuẩn để xem xét tự đánh giá. Song đánh giá bên ngoài phải phù hợp, hoặc giống tựa thực tế khách quan. Bởi lẽ đặc điểm của hoạt động phản ánh là: Kết quả của quá trình phản ánh không thể hoàn toàn đúng đắn, phong phú và rộng rãi như chính thực tế khách quan được phản ánh. Với các công trình nghiên cứu trên học sinh, thì đánh giá bên ngoài thường gặp nhiều là đánh giá của giáo viên, đánh giá của bạn học, đánh giá của gia đình. Mỗi đánh giá bên ngoài đó có những ưu điểm nhất định, sự ảnh hưởng của những đánh giá bên ngoài đó đối với cá nhân là khác nhau ở từng lứa tuổi, từng cấp học, lớp học, thậm chí ở từng cá nhân học sinh. Tùy theo từng hoàn cảnh và điều kiện khác nhau mà chúng ta sử dụng từng đánh giá bên ngoài cho hợp lý để phát huy tính ưu việt của nó, nhưng không phải mọi đánh giá bên ngoài đều có thể được coi là tiêu chuẩn để xem xét tính phù hợp của sự tự đánh giá. Vì bản chất xã hội của con người, và cũng vì tự đánh giá không đơn giản nên người ta phải dựa trên những đánh giá của những người khác về cá nhân để đánh giá độ chính xác của tự đánh giá. Tự đánh giá từ góc độ tâm lý là đánh giá về những phẩm chất tâm lý bên
  16. trong của con người, cho nên đòi hỏi những người đánh giá về cá nhân đó phải là những người biết rõ về đối tượng đánh giá. Trong thực tế, không thể so sánh một cách tuyệt đối với thực tế khách quan được đánh giá mà chúng ta chỉ đạt đến mức độ “tựa như” thực tế khách quan. Tự đánh giá một cách chính xác đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của nhân cách. Tuy nhiên, đánh giá nói chung đã là việc làm khó khăn chưa nói đến đánh giá chính xác bản thân. Con người thường gặp khó khăn trong sự chính xác khi tự đánh giá vì nhiều lý do khác nhau. Thứ nhất, theo quan điểm của Franz: tự đánh giá phụ thuộc vào quá trình phát triển nhận thức của mỗi cá nhân. Quá trình nhận thức của cá nhân khác nhau là khác nhau, do vậy, mức độ tri giác sự vật, hiện tượng cũng khác nhau. Thứ hai, tiêu chí chung dùng để đánh giá là vấn đề quan trọng nhất của tự đánh giá cũng khó xác định một cách thống nhất. Các tiêu chí đánh giá của cá nhân phụ thuộc vào tiêu chí đánh giá của xã hội thông qua lăng kính chủ quan của cá nhân. Ngay trong một nhóm, các vai trò khác nhau cũng có các tiêu chí riêng, khác nhau. Và các tiêu chí của các nhóm khác nhau là khác nhau. Trên cơ sở phân tích các bước của tự đánh giá, S. Franz nhấn mạnh, cả đánh giá bên ngoài và tự đánh giá đều phải đảm bảo hai điều kiện sau: - Cả tự đánh giá và đánh giá bên ngoài đều phải dựa trên tiêu chuẩn đánh giá của xã hội. - Các phát biểu đánh giá, về mặt nội dung đều phải dựa vào chính một hoàn cảnh, một hiện tượng bị đánh giá. 1.3.2. Tính phân biệt và tính khái quát của tự đánh giá. Xét theo nội dung phản ánh và những hoạt động riêng, có thể kể đến tính phân biệt và tính khái quát của tự đánh giá. Nếu so sánh sự tự đánh giá riêng lẻ dựa trên những hoạt động và kết quả hoạt động khác nhau, những sự tự đánh giá phản ánh các hiện tượng tâm lý hoặc thái độ của cá nhân khác nhau một cách tương ứng thì sự đánh giá đó có tính phân biệt. Hay chúng ta cũng có thể hiểu: nếu ở các phạm vi phản ánh khác nhau, cá nhân thấy được sự khác nhau tương ứng với mức độ biểu hiện các phẩm chất của mình ở các dạng hoạt động đó thì ta có thể coi sự đánh giá đó có tính phân biệt. Nếu cá nhân suy diễn một cách tùy tiện sự đánh giá ở phạm vi này sang phạm vi khác thì sự đánh giá của nó không có căn cứ. Mặt khác, trên cơ sở những nhận xét từ những kết quả riêng lẻ trong phạm vi hoạt động cụ thể, cá nhân có được nhìn chung hoặc khái quát chung về bản thân mình, khi đó sự đánh giá có tính khái quát.
  17. 1.3.3. Độ cao của tự đánh giá Một yếu tố rất quan trọng của tự đánh giá là thước đo hay còn gọi là thang đo mà cá nhân dùng làm cơ sở để xác định xem mình đang ở đâu, ở mức nào trong theo thang đó. Thang đo ấy được xây dựng trên nền của các chuẩn mực quy tắc xã hội, của tập thể. Nói một cách cụ thể hơn, tiêu chuẩn đánh giá của xã hội được cá nhân thừa nhận thông qua lăng kính chủ quan của mình, cá nhân tiếp nhận nó, đối chiếu mình với nó để nhận biết những biểu hiện riêng của mình ở vào vị trí nào trong hệ thống các mức độ được định sẵn. Thông qua mức độ cá nhân đã chỉ ra, ta biết được độ cao của sự tự đánh giá. Tự đánh giá chính xác có vai trò rất quan trọng trong việc xác định hình ảnh cá nhân, vị thế, các năng lực của cá nhân… Có nghiên cứu cho rằng: Tự đánh giá giống như một biến số khuynh hướng. Khi tự đánh giá được hiểu như là một hiện tượng tâm lý và được đo theo chiều tích cực hay tiêu cực thì nó dự báo người đó đang ở đâu trong mối quan hệ với những người khác. Khuynh hướng đánh giá này có tính chất dài hạn. Cũng có tác giả cho rằng đánh giá bản thân là một “phép đo xã hội” nghĩa là phép đo lường bên trong mức độ thành công của cá nhân về hòa nhập xã hội. Và một nghiên cứu khác cho rằng thành tích học tập ảnh hưởng đến mức độ của tự đánh giá không chì ở phạm vi học tập mà còn ở các khía cạnh khác nữa. Cho nên, đối với nhà giáo dục, việc nắm được độ cao của tự đánh giá có ý nghĩa giáo dục rất lớn. Nó sẽ giúp cho nhà giáo dục biết học sinh nghĩ về mình ở thời điểm hiện tại như thế nào, học sinh có tự tin hay không tự tin vào bản thân mình? Không tự tin vào mình ở mặt nào? Từ đó nhà giáo dục xây dựng những biện pháp giáo dục thích hợp để đưa đến sự phát triển tốt nhất của học sinh, giúp cho họ rút ngắn và vượt qua được khoảng cách của mình với yêu cầu của thực tế khách quan một cách có kết quả. 1.3.4. Tính bền vững của tự đánh giá. Tính bền vững của tự đánh giá có thể được xác định trong mối quan hệ với những yêu cầu khác nhau trong khoảng thời gian nhất định. Tính bền vững của tự đánh giá có liên quan tới một số đặc điểm tâm lý khác nhau. Tính bền vững của tự đánh giá có thể thay đổi theo từng lứa tuổi chứ không cố định ở mức nào. Theo nghiên cứu của Diessler cho rằng, tính bền vững của tự đánh giá phụ thuộc vào tự khẳng định trong nhân cách và và sự bền vững về mặt xã hội của nhóm cơ sở. Theo ông, ở học sinh nhỏ có sự tương quan dương tính giữa tính bền vững của hình ảnh về bản thân và vị thế xã hội của chúng. Còn ở sinh viên, nếu sự tự đánh giá có tính chất tiêu cực thì hình ảnh bản thân kém bền vững hơn so với tự đánh giá có tính tích cực.
  18. Brownjaiin xem tính bền vững của tự đánh giá gắn liền với tính bền vững về tiêu chuẩn của cá nhân. Do vậy, những học sinh định hướng trước hết vào tự đánh giá có con số tự đánh giá bền vững hơn nhiều so với những học sinh định hướng trước hết vào đánh giá bên ngoài. Tính bền vững của tự đánh giá phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài và những điều kiện bên trong khác nhau của tự đánh giá. Tự đánh giá sẽ cùng với những đặc điểm tâm lý khác quyết định những thành phần tâm lý khác nhau của nhân cách như lòng tự tin, lòng tự trọng…, và những đặc điểm khác nhau của nhân cách. Mặt khác tính bền vững của tự đánh giá phải có sự năng động nào đó để tạo điều kiện cho tự đánh giá có tính phù hợp, mỗi khi thực tế khách quan được đánh giá đã bị thay đổi. Nếu không có sự mềm dẻo này thì tự đánh giá khó có được tính phù hợp. Các nhà tâm lý học đã xác định, tự đánh giá ổn định còn thể hiện thái độ đã được hình thành của cá nhân đối với chính mình. Khi nghiên cứu vấn đề này, các tác giả đều cho rằng sự phân chia các đặc điểm của tự đánh giá có tính tương đối, bởi vì mỗi đặc điểm chỉ là một biểu hiện của tự đánh giá, trong thực tế các đặc điểm của nó có quan hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành chỉnh thể thống nhất. Do vậy, phải xét các đặc điểm ấy trong mối quan hệ chung với nhau thì mới đưa đến những nhận xét đầy đủ về tính chất, chất lượng của tự đánh giá. Trong thực tế, phần nhiều các công trình nghiên cứu từng đặc điểm riêng lẻ của tự đánh giá và chưa có một công trình nào nghiên cứu tổng hợp về các đặc điểm của tự đánh giá. 1.4. Vai trò của tự đánh giá đối với sự phát triển nhân cách Tự đánh giá của cá nhân có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách của họ. I. Chexnôcôva đã nhấn mạnh về chức năng cơ bản của tự đánh giá là: “Điều chỉnh các hành vi của cá nhân trong hệ thống quan hệ liên nhân cách. Tự đánh giá là cơ chế đặc biệt của tự điều chỉnh nhân cách. Tự kiểm tra, tự quan sát, tự điều chỉnh, tự phê phán, tự hoàn thiện của nhân cách dựa trên cơ sở của tự đánh giá” [34, tr. 21]. A.V. Lip Kina cho rằng tự đánh giá có ý nghĩa quan trọng đối với sự điều khiển các khâu của hoạt động: “Nếu thiếu sự tự đánh giá tức là thiếu sự đánh giá của chính cá nhân đối với những hoạt động của mình và đối với phẩm chất tâm lý của cá nhân thể hiện trong hoạt động thì không thể có hành vi tự điều khiển”. Điều mà chúng ta nhận thấy rằng, sống trong xã hội, cá nhân luôn tiếp nhận được sự điều chỉnh từ phía xã hội ở những mức độ khác nhau. Sự khác nhau ấy tùy thuộc vào khả năng sự điều chỉnh, điều khiển của mỗi cá nhân. Trong thực tế, sự khác biệt về đối tượng và phương thức tự đánh giá đã gây nên những khó khăn cho việc kiểm tra tính phù hợp của tự đánh giá.
  19. Muốn đạt đến một hoạt động có kết quả, cá thể phải có những hiểu biết khách quan về mình, về những phẩm chất đang tồn tại ở bản thân, từ đó mà cá nhân điều chỉnh, điều khiển mình cho phù hợp với chuẩn mực xã hội. Con người ta chỉ có thể điều chỉnh, điều khiển nhân cách của mình trên cơ sở xem xét sự đánh giá, nhận xét của những người xung quanh về mình, phân tích kết quả hoạt động cũng như hành vi cử chỉ của mình. Nếu như sự đánh giá bên ngoài có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách của cá nhân, thì sự tự đánh giá của cá nhân có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển nhân cách của cá nhân. Nó tạo ra cơ sở cho việc tự tu dưỡng, tự giáo dục của cá nhân. Chính vì vai trò quan trọng đó mà S. Franz khẳng định: “Sự tự đánh giá là một điều kiện quan trọng để điều chỉnh hoạt động một cách có ý thức”. Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, có mục đích độc lập và sáng tạo. Trong quá trình hoạt động của cá nhân, tự đánh giá là nhân tố tham gia điều chỉnh, điều khiển, kích thích hành động, định hướng hoạt động, tới việc thực hiện hành động và tới khâu cuối cùng là kiểm tra kết quả hành động. Sự điều chỉnh các kích thích có liên quan với các mâu thuẫn nảy sinh trong hoạt động - Mâu thuẫn ở tất cả các phạm vi tác động qua lại với hoàn cảnh sống của mình, mâu thuẫn trong phạm vi thành phần của nhân cách… - Những mâu thuẫn này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và nhìn chung tạo thành một hệ thống thứ bậc, trong hệ thống đó những mâu thuẫn trung tâm là cơ bản. Sự phân biệt giữa giá trị “đang có” và giá trị “phải có” được coi là mâu thuẫn bên trong trung tâm, có ý nghĩa đặt biệt đối với sự phát triển nhân cách. Trong việc điều chỉnh các hoạt động có ý thức, nếu cá nhân xác định được mức độ phát triển riêng của mình có liên quan với yêu cầu hoạt động cũng phù hợp và có phân biệt hơn, thì hoạt động của họ cũng đỡ gặp khó khăn hơn. Trên cơ sở ấy, cá nhân có thể phân biệt và thể nghiệm một cách có ý thức hơn về mức độ khoảng cách giữa cái “phải có” và cái “đang có”, tạo ra những điều kiện thuận lợi để giải quyết mâu thuẫn bên trong, khắc phục những khoảng cách đó trong những điều kiện thích hợp và từ đó nhân cách có thể phát triển có mục đích hơn. Trong quá trình thực hiện hành động, cá nhân phải đối chiếu kết quả từng bước đạt được với kết quả của hoạt động. 1.5. Đặc điểm phát triển tâm, sinh lý tuổi sinh viên 1.5.1. Đặc điểm phát triển sinh lý tuổi sinh viên Tuổi sinh viên được xem xét từ 19 đến 25 tuổi, sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối. Lứa tuổi được bắt đầu sau khi kết thúc phổ thông trung học chấm dứt ở tuổi 24 – 25, vì ở tuổi 24 - 25 con người đã hoàn tất sự phát triển về thể chất (thường nữ sớm hơn nam từ 1 đến 2 năm), đây là tuổi mà con người đã đạt đến mức hoàn thiện tất cả các hệ thống thần kinh, cơ xương… Các tố chất thể lực đều phát triển mạnh như sức nhanh, sức
  20. bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt nhờ sự phát triển ổn định của các tuyến nội tiết cũng như sự tăng trưởng của các hoocmon. Mặt khác, đến 25 tuổi cũng là năm kết thúc giai đoạn đào tạo dài nhất ở đại học. Theo tác giả Vũ Thị Nho thì “các thành tựu nghiên cứu ở lứa tuổi này còn rất ít, tản mạn, chưa tập trung và chưa có hệ thống, nên chưa khái quát được những đặc điểm chung đối với toàn bộ độ tuổi này” [23, tr.138]. * Vai trò của sinh viên Sinh viên là một tầng lớp xã hội, một tổ chức xã hội quan trọng đối với mọi thể chế chính trị. Sinh viên là nhóm người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị cho một đội ngũ tri thức có trính độ và nghề nghiệp tương đối cao trong xã hội. Chính sinh viên là nguồn dự trữ chủ yếu cho đội ngũ những chuyên gia theo các nghề nghiệp khác nhau có cấu trúc của tầng lớp tri thức xã hội. Các tổ chức chính trị, xã hội, dòng tộc gia đình đề có nhiều kỳ vọng đối với sinh viên. * Các hoạt động cơ bản của sinh viên Hoạt động học tập nhằm chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, cũng như các phương thức của hoạt động nhận thức, hoạt động trí tuệ vẫn tiếp tục giữ vị trí quan trọng ở tuổi thanh niên sinh viên với tính chất và sắc thái khác với việc học ở trường phổ thông. Hoạt động này mang tính chất chuyên ngành, phạm vi hẹp hơn nhưng sâu sắc hơn. Điều này buộc sinh viên phải thích ứng với các phương pháp học tập mới khác phù hợp hơn để đạt được kết quả học tập như ý. Hoạt động nghiên cứu khoa học là một hoạt động đặc trưng ở bậc đại học. Với tình hình xã hội hiện nay, hoạt động này ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong sinh viên. Trong hoạt động học tập, sinh viên cần hiết phải lĩnh hội tri thức của các chuyên ngành khoa học, đồng thời phải nắm được nguyên tắc, cách thức chuẩn mực nghề nghiệp để trở thành một chuyên gia sau này. Song song với hoạt động học tập, hoạt động chính trị xã hội ở sinh viên cũng mang đậm nét đặc trưng. Sinh viên là những người có trí tuệ, nhạy bén, mẫn cảm với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia và quốc tế. Họ có chính kiến đối với đường lối, chủ trương, chính sách của đất nước. Việc tham gia của sinh viên vào các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội như Đoàn thanh niên, Hội sinh viên… không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhân cách toàn diện của họ, mà còn góp phần không nhỏ vào sự thành công của các thể chế xã hội. 1.5.2. Những đặc điểm phát triển tâm lý cơ bản của sinh viên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0