Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Tính tích cực nhận thức và mối quan hệ của nó với kết quả học tập của sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương TP. Hồ Chí Minh
lượt xem 30
download
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Tính tích cực nhận thức và mối quan hệ của nó với kết quả học tập của sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương TP. Hồ Chí Minh tìm hiểu các biểu hiện về tính tích cực nhận thức của sinh viên, mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên, biện pháp giáo dục tính tích cực nhận thức nhằm nâng cao kết quả học tập của sinh viên.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Tính tích cực nhận thức và mối quan hệ của nó với kết quả học tập của sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương TP. Hồ Chí Minh
- THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------------------------------------- VŨ KIM NGỌC TÍNH TÍCH CỰC NHẬN THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA NÓ VỚI KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TRUNG ƯƠNG TP. HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 80 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ XUÂN HỒNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tính tích cực của con người góp phần quyết định hình thành và phát triển xã hội loài người. Tính tích cực của con người biểu hiện ở chỗ con người đã chủ động sản xuất ra những của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển xã hội; chủ động cải biến môi trường tự nhiên bắt chúng phục vụ mình, chủ động cải biến xã hội để xã hội ngày càng phát triển theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Trong hoạt động học tập tính cực là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học. Tính tích cực nhận thức có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hoạt động, đặc biệt là hoạt động học tập. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay là rất nhiều sinh viên còn rất thụ động trong việc học. Nhiều nghiên cứu, khảo sát, nhiều cuộc tranh luận về phong cách học của sinh viên Việt nam đi đến một kết luận chung là rất nhiều sinh viên chưa tích cực trong hoạt động học tập, nhận thức. Một nghiên cứu mới đây của PGS.TS Nguyễn Công Khanh, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã chỉ ra một loạt các con số về phong cách học của sinh viên và trong đó có không ít con số rất đáng báo động: Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú học tập; hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học; gần 70% SV cho rằng mình không có năng lực tự nghiên cứu;… [32] Vấn đề tính tích cực nhận thức của người học được các nhà tâm lý, giáo dục học quan tâm, nghiên cứu để nhằm cải tiến chất luợng giáo dục và đào tạo. Trong công tác đào tạo giáo viên mầm non thì đây cũng là một vấn đề cấp bách. Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ... của trẻ. Vì vậy,
- 2 việc xây dựng đội ngũ giáo viên cho bậc học mầm non là nhiệm vụ đặt ra cấp bách trong quá trình đổi mới và phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà. Hiện nay, ngay cả bậc thấp nhất của ngành đào tạo giáo viên mầm non là Trung học Mầm Non, thì sinh viên cũng đã phải học rất nhiều. Ngoài các môn năng khiếu: vẽ, đàn, hát, múa thì để trở thành giáo viên mầm non, tối thiểu nhất các bạn sinh viên phải học các môn chuyên ngành: Tâm lý trẻ, giáo dục mầm non, Bệnh học nhi, và hệ thống các môn phương pháp. Đó là chưa kể các môn đại cương: văn học, toán cao cấp, mỹ thuật, âm nhạc, mỹ học - nghệ thuật học, chính trị...ngoài ra các môn: ngoại ngữ, tin học cũng là một trong những môn bắt buộc sinh viên phải hoàn thành để tốt nghiệp. Thế nên, để có được một đội ngũ giáo viên mầm non có chất lượng thì yếu tố tính tích cực nhận thức của sinh viên có thể xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì phải có tính tích cực nhận thức thật cao thì các bạn sinh viên mới có thể đáp ứng được những yêu cầu cao của công tác đào tạo mà xã hội đang đòi hỏi. Thế nhưng, sinh viên sư phạm mầm non hiện nay cũng không tránh khỏi tính thụ động đang là căn bệnh của sinh viên Việt Nam nói chung. Vì thế, việc nghiên cứu tính tích cực nhận thức và ảnh hưởng của nó tới kết quả học tập của sinh viên sư phạm mầm non có một ý nghĩa quan trọng đối với công tác đào tạo giáo viên mầm non. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng, cải tiến và nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo giáo viên mầm non hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu các biểu hiện về tính tích cực nhận thức của sinh viên - Tìm hiểu mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên. - Đề xuất một số biện pháp giáo dục tính tích cực nhận thức nhằm nâng cao kết quả học tập của sinh viên.
- 3 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Biểu hiện và mức độ của tính tích cực nhận thức của sinh viên - Mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên. - Một số biện pháp giáo dục nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của sinh viên 3.2. Khách thể nghiên cứu - 46 giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm trung ương thành phố Hồ Chí Minh - 10 giáo viên là lãnh đạo các trường mầm non thường xuyên tổ chức cho sinh viên kiến thực tập sư phạm - 315 sinh viên năm thứ 2 và 3 thuộc các khoa Sư phạm mầm non (SPMN), Giáo dục đặc biệt (GDĐB) của trường Cao đẳng Sư phạm trung ương Thành phố Hồ Chí Minh phân 4. Giả thuyết nghiên cứu - Sinh viên trường Cao đẳng sư phạm trung ương Tp. HCM có tính tích cực nhận thức trong học tập cao. - Mức độ biểu hiện của tính tích cực nhận thức là khác nhau ở các nhóm sinh viên khác nhau. - Có mối quan hệ tương quan giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập tại trường sư phạm cũng như kết quả thực tập của sinh viên.
- 4 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về tính tích cực, tính tích cực nhận thức, tính tích cực nhận thức của sinh viên, mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên. 5.2- Khảo sát mức độ biểu hiện của tính tích cực nhận thức và mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên a- Tìm hiểu thực trạng tính tích cực nhận thức của sinh viên b- Tìm hiểu thực trạng mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của sinh viên c- So sánh sự khác biệt về mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của các nhóm sinh viên. 5.3- Đề xuất một số biện pháp giáo dục nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của sinh viên. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Kết quả học tập chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau như nhân tố sinh học, môi trường, giáo dục, xã hội… Song đề tài chỉ tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa tính tích cực nhận thức trong học tập và kết quả học tập. Do sinh viên năm 2 và năm 3 mới có hoạt động thực tập tại trường mầm non, phổ thông nên chỉ nghiên cứu ở SV năm 2 và năm 3. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích và hệ thống hóa các tài liệu liên quan tới vấn đề tính tích cực nhận thức của sinh viên 7.2- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. - Phương pháp anket: Xây dựng anket về tính tích cực nhận thức dựa vào anket tính tích cực nhận thức của Thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu. - Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn
- 5 - Phương pháp quan sát - Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia 7.3- Xử lý số liệu: thống kê bằng phần mềm SPSS for Windows - Tính điểm trung bình (Mean) - Đếm tần số, tính phần trăm (Count, Percentile) - So sánh (dùng kiểm nghiệm T và F) - Tương quan (Pearson) 8. Đóng góp của đề tài Giúp giáo viên nắm bắt được thực trạng mức độ tính tích cực nhận thức trong học tập và ảnh hưởng của nó đến kết quả học tập của sinh viên, trên cơ sở đó xây dựng những biện pháp giáo dục, dạy học nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của sinh viên.
- 6 Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1- LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1.1- Một số nghiên cứu về tính tích cực trên thế giới Tính tích cực từ lâu đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. có thể nói đây là vấn đề không còn xa lạ nữa. Đứng ở mỗi góc độ, mỗi trường phái lại nghiên cứu tính tích cực ở những phương diện khác nhau, nghiên cứu ở những đối tượng, khách thể khác nhau. Dưới góc độ triết học, L.Aristova cho tính tích cực nhận thức của con người xuất hiện trong hoạt động cải tạo, thể hiện thái độ cải tạo của chủ thể nhận thức với đối tượng nhận thức. Nếu hành động thiếu thái độ cải tạo thì không được coi là tính tích cực mà ngược lại vẫn bị coi là trì trệ. Tính tích cực nhận thức đòi hỏi ở hai yếu tố: - Thái độ lựa chọn đối tượng nhận thức (cái mà anh ta chọn trong thời gian hiện tại) - Đặt ra mục đích, nhiệm vụ phải làm, cải tạo đối tượng trong những hoạt động tiếp theo nhằm giải quyết vấn đề Dưới góc độ tâm lý – giáo dục TTCNT từ lâu được xem là yếu tố quan trọng trong tâm lý người, nó giúp con người nhận thức thế giới ngày càng đầy đủ và bản chất hơn. Từ lâu, các nhà giáo dục học đã sớm nhận ra tầm quan trọng của TTCNT trong quá trình giáo dục. Khoảng thời gian từ thế kỷ XVII-XIX, việc phát huy TTCNT của người học được xem là “nguyên tắc vàng” trong dạy học. Có thể nói người đầu tiên đề cập đến nguyên tắc này là nhà giáo dục Tiệp Khắc J.A.Cômenxki (1592-1670), theo ông: “Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách... Hãy tìm ra những biện pháp để phát huy tính tích cực của người học và cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn” [26]. Ông còn chỉ ra “Tích cực nhận thức không đơn thuần là chỉ ngồi nghe mà phải tìm hiểu bản chất sự vật, hiện tượng” [26].
- 7 Với J.J.Rutxô (1713-1784) nhà triết học người Pháp, dạy học phải để “Trẻ tích cực dành lấy kiến thức bằng con đường tự tìm hiểu, tự khám phá, không nên học thuộc lòng mà phải sáng tạo. Giáo dục không được áp đặt, người thầy phải đáp ứng mọi yêu cầu, mong muốn của trẻ” [2]. Thế kỷ XVIII, nhà giáo dục Xô Viết tiêu biểu, K.Đ.Usinxki cũng có quan điểm “Khi cần dạy trẻ điều gì, chỉ cần cho trẻ tự quan sát, tự phát biểu ý kiến của mình, tưởng tượng, nhớ lại những gì quan sát được và rút ra kết luận là có hiệu quả nhất” [26]. J.Dewey (1895-1952) nhà giáo dục người Mỹ chỉ ra “Người giáo viên là người hướng dẫn trẻ và đáp ứng mọi yêu cầu của trẻ. Còn trẻ phải tích cực trong mọi hoạt động của mình, là chủ thể nhận thức” [26]. J.Piaget (1896-1980) nhà tâm lý học, giáo dục học tiêu biểu của thế kỷ XX, người Thụy Sỹ. Với ông, “Quá trình phát triển của trẻ mang tính chủ động và tích cực” [26]. Ông khuyến khích các chương trình giáo dục mà trong đó nhấn mạnh việc học tập và tự khám phá của trẻ. Không chỉ dừng lại ở đó, vấn đề tính tích cực của người học còn tiếp tục được nghiên cứu ở thế kỷ XX – XXI. Các công trình nghiên cứu của một số nhà khoa học trên thế giới đề cập đến tính tích cực theo nhiều khía cạnh khác nhau, tác giả Đào Việt Cường đã tóm tắt trong luận văn thạc sĩ: [8,8] Thứ nhất, nghiên cứu TTCNT của người học trong mối quan hệ giữa nhận thức và ý chí (I.F.Kharlômôv, R.A.Đanhilôv, Ôkôn…). Hướng nghiên cứu này hỗ trợ rất nhiều cho các nhà giáo dục trong việc tìm kiếm con đường và điều kiện cần thiết nhằm phát huy TTCNT của người học. Thứ hai, nghiên cứu bản chất và cấu trúc của TTCNT của người lớn và trẻ em, trong đó đặc biệt lưu ý vai trò chủ động của chủ thể trong quá trình nhận thức (P.B.Êxipôv, Xavier Roegiers…). Các tác giả này coi TTCNT là thái độ cải tạo của chủ thể đối với đối tượng nhận thức thông qua việc huy động các chức năng tâm lý ở mức độ cao.
- 8 Thứ ba, nghiên cứu về các dấu hiệu của TTCNT và mức độ thể hiện chúng ở học sinh (X.P.Baranov, A.M.Machiuskin…). Dựa vào việc xác định các dấu hiệu và mức độ TTCNT của học sinh trong hoạt động học tập, các tác giả đã đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao TTCNT của học sinh trong quá trình dạy và học. Thứ tư, nghiên cứu mối quan hệ giữa tính tích cực và tính độc lập nhận thức của học sinh trong việc hình thành và giải quyết vấn đề nhận thức. Hướng này có một số quan điểm khác nhau: - P.B.Êxipôv [26] ngay trong tính tích cực đã có tính độc lập khi hình thành vấn đề và xác định cách giải quyết vấn đề. Tuy vậy, quan niệm này chỉ đúng ở mức độ cao của tính tích cực. - G.I.Sukina [26] tính tích cực được xem như là mức độ chuẩn bị cho tính độc lập. - I.I.Lecner [26] tính tích cực là điều kiện của tính độc lập và không thể nào có tính độc lập mà thiếu tính tích cực, nhưng tính tích cực có thể không kết hợp với tính độc lập. - R.A.Đanhilôv … phân loại TTCNT dựa vào chức năng tâm lý và mức độ huy động các chức năng tâm lý đó. 1.1.2- Một số nghiên cứu về tính tích cực nhận thức tại Việt Nam Ở Việt Nam, các tác giả như Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Kỳ, Thái Duy Tuyên… đã đề cập đến TTCNT của học sinh trong hoạt động học tập, cụ thể “TTCNT là thái độ cải tạo thế giới khách thể thông qua sự huy động mức độ cao các chức năng tâm lý nhằm giải quyết những vấn đề học tập - nhận thức” [3, 8-9]. Các tác giả đều nhấn mạnh vai trò chủ thể và sự cần thiết phải phát huy TTCNT của chủ thể. Tác giả Nguyễn Kỳ cho rằng, “TTCNT là sự ham muốn hoạt động nhận thức của chủ thể và chính chủ thể chủ động tạo nên những biểu hiện bên trong và bên ngoài” [17]. Những năm gần đây vấn đề dạy học tích cực đã và đang là chủ trương của ngành giáo dục nước ta. Một số luận án tiến sĩ, luận văn cao học cũng tập trung
- 9 nghiên cứu về tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh phổ thông, của trẻ mẫu giáo. Đất nước ngày càng đổi mới, yêu cầu xã hội ngày càng cao, việc chất lượng đào tạo bậc đại học, cao đẳng đang là vấn đề nóng hổi, hơn bất cứ bậc học nào, TTCNT là yếu tố đóng vai trò then chốt cho chất lượng đào tạo. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tính tích cực cũng như biện pháp nâng cao TTCNT của sinh viên. Ví dụ như: - Nguyễn Ngân Giang nghiên cứu về: “Một số biện pháp quản lý hoạt động học tập theo hướng nâng cao tính tích cực, chủ động sáng tạo của sinh viên trường cao đẳng giao thông vận tải 3” [13] - Đào Quốc Trí nghiên cứu: “Một số biện pháp tổ chức quá trình học tập nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên các trường kỹ thuật quân sự” [29] - ThS. Võ Thị Ngọc Châu: “Nghiên cứu nhu cầu thành đạt và quan hệ của nó với tính tích cực nhận thức của sinh viên” [6] … - Lê Thị Ngọc Thương, trong luận văn tốt nghiệp đại học: “Tìm hiểu mức độ biểu hiện tính tích cực học tập của sinh viên trường đại học sư phạm TP.HCM trong dạy học theo nhóm trong giờ lên lớp môn giáo dục học” [28] … Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu tập trung và sâu về TTCNT và ảnh hưởng của nó đến kết quả học tập của sinh viên, đặc biệt tại trường Cao đẳng Sư phạm trung ương TP.HCM. Vì vậy, có thể khẳng định đề tài này được xem như một nghiên cứu khá lý thú.
- 10 1.2- NHỮNG LÍ LUẬN CƠ BẢN 1.2.1- Tính tích cực nhận thức 1.2.1.1- Tính tích cực Về thuật ngữ, tính tích cực tiếng Latinh là Activus, tiếng Anh là Activity, dùng để chỉ hai ý: Tính tích cực gắn bó với hoạt động, là trạng thái hoạt động. Tính tích cực bao hàm tính chủ động, tính chủ định có ý thức của chủ thể Tính tích cực là vấn đề trung tâm của nhiều khoa học, thường được bàn cãi về nhiều thuật ngữ, nguồn gốc và vai trò của nó. Với tư cách là một khái niệm cơ bản của triết học, tính tích cực đã được các triết gia nổi tiếng bàn tới như Ampeđôclơ (490-430 tr.cn), Platon (428-348 tr.cn), Aríttôt (384-322 tr.cn)… hầu hết đều thống nhất ở một số điểm cơ bản: - Tính tích cực là thuộc tính chung của vật chất, tạo thành sự vận động của vật chất, có quá trình phát triển gắn với sự tự vận động của vật chất. - Tính tích cực thể hiện trong sự tác động thay đổi các khách thể khác có nghĩa là tạo ra sự biến đổi nhất định ở các khách thể, các vật thể có quan hệ đối tác với mình. - Tính tích cực là sự phát triển, biến đổi các trạng thái bên trong dưới ảnh hưởng của các tác động bên ngoài. Trong tâm lí học cũng có nhiều ý kiến định nghĩa khác nhau về tính tích cực, mỗi quan niệm đều xuất phát từ những góc độ, cách nhìn nhận riêng và có hạt nhân hợp lí cơ bản của nó. Trường phái hành vi chỉ chú ý tính tích cực của động tác tay chân bên ngoài như động tác bơi lội, đá banh hay chơi tennic. Tuy nhiên, cơ thể sống và chất vô cơ khác biệt ở những đặc điểm hành vi ở bản thân nó. Trong môi trường vô cơ cũng có những phản ứng nhưng bản thân chúng không có tính tích cực. Còn đối với cơ thể sống, những phản ứng đơn giản nhất cũng được thúc đẩy bởi tính tích cực của cơ thể. Hành vi của cơ thể sống có tính phức tạp không chỉ phụ thuộc vào trạng thái
- 11 bên trong cơ thể sống. Điểm yếu của trường phái hành vi chỉ chú ý đến nguyên nhân tích cực nằm ở bên ngoài. Nguyên nhân của tính tích cực theo những nghiên cứu gần đây cho rằng nó phụ thuộc vào hoàn cảnh đối tượng mà cơ thể sống hướng tới và nó còn phụ thuộc vào trạng thái bên trong cơ thể, đó là sự gặp gỡ giữa yếu tố bên trong và bên ngoài, trong đó yếu tố bên trong giữ vai trò động lực quyết định. Sự phản ánh tâm lí, theo A. N. Leônchiev không phải là sự phản ánh chết cứng của gương soi vì sự phản ánh tâm lí có tính chủ thể, là sự phản ánh tích cực, sinh động, sáng tạo - Đó là tính tích cực của nhân cách. Khi xem xét tính tích cực với tư cách là nhân cách, A. N. Leônchiev và V.P.Dintrencô cho rằng tính tích cực của nhân cách được biểu hiện trong quá trình nhận thức cảm tính, tư duy, ý chí- cảm xúc. Vì chỉ có tính tích cực của nhận thức cảm tính mới có hình tượng cảm tính. A. N. Leônchiev cho rằng: “muốn cho hình tượng nảy sinh, nếu chỉ có sự vật tác động một chiều thì chưa đủ, mà còn cần phải có quá trình “gặp gỡ” tích cực từ phía chủ thể. Điều đó cho thấy rằng đặc điểm của đối tượng tri giác không có sẵn và nó chỉ được phản ánh trong chủ thể một khi chủ thể tích cực phản ánh tri giác là quá trình phản ánh trọn vẹn, đó là sự tích cực hoạt động có định hướng. Sự phản ánh thụ động chỉ cho thấy cái bề ngoài còn phản ánh tích cực phản ánh cái bên trong. Khái niệm tính tích cực được đề cập, bàn cãi nhiều. Nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề tính tích cực theo nhiều góc độ khác nhau. Có bốn xu hướng chính: - Xu hướng thứ nhất, đại diện là S.Đ Smirnôp, V.P Dintrencô, V.I. Rômanôp…: tính tích cực được xem xét từ góc độ chức năng, vai trò của chủ thể với thế giới bên ngoài . - Xu hướng thứ hai, đại diện là các nhà tâm lí học như P.Ia. Ganpêrin, A.A. Liublinxcaia, B.G. Iarôxepxki… gắn tính tích cực với hành động và được thể hiện trong các mức độ lĩnh hội hành động khác nhau, đó cũng chính là chỉ số đo mức độ phát triển tính tích cực của chủ thể.
- 12 - Xu hướng thứ ba, điển hình như M.I.Lixina, A.N.Leônchiev, V.S.Iukevich… nghiên cứu, đánh giá tính tích cực tiếp xúc của trẻ em thông qua các dấu hiệu biểu hiện, các thành tố tâm lí đặc trưng của tính tích cực. - Xu hướng thứ tư, qua cách xem xét thuật ngữ “tính tích cực” của các tác giả XHCN như L.M Ackhanghenxki ( Liên Xô), R. Minle (Cộng hòa dân chủ Đức), Ia. Nhêtôpilic ( Tiệp Khắc) v.v…tính tích cực bao hàm bốn chỉ số: tính giá trị của hoạt động và tính tự nguyện; tính hiệu quả của hoạt động mà tính tích cực hướng tới; tính sáng tạo và tính phát triển. Nói tóm lại, tính tích cực nằm trong trạng thái hoạt động và được biểu hiện trong những nhóm hành động. Thuật ngữ “tính tích cực” để chỉ tính sẵn sàng với hoạt động, là nhu cầu đối với hoạt động. Ở đây nhu cầu vừa là biểu hiện vừa là thành tố tâm lí bên trong tạo nên nguồn gốc, động lực của tính tích cực. Nhu cầu cần phải được nhắc đến vì nó là nguồn gốc, động lực của tính tích cực. Nhu cầu này không phải thuần túy mang tính sinh học, bản năng mà là các nhu cầu mang tính người như nhu cầu lao động- tính tích cực lao động, nhu cầu học tập- tính tích cực học tập, nhu cầu nhận thức- tính tích cực nhận thức, nhu cầu giao tiếp- tính tích cực giao tiếp v.v… nhu cầu tâm lí hoạt động của con người tồn tại như một thành tố tâm lí bên trong, động lực của tính tích cực. 1.2.1.2- Tính tích cực nhận thức Tính tích cực nhận thức được nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra nhiều khái niệm khác nhau: I.A. Lerơnnhérơ cho rằng tính tích cực nhận thức có liên quan với tính tích cực chung của nhân cách, là mong muốn nhận thức và tìm kiếm sự sáng tạo. N.A. Pôlôvnhicôva có quan niệm là sẵn sàng có xu hướng hoạt động nhận thức. Còn Đ.N. Uznađze lại cho rằng tính tích cực nhân cách là quá trình cá nhân thỏa mãn nhu cầu, nó xuất hiện trong mối quan hệ giữa chủ thể với thực tiễn. L.A Aristova cho đó là sự biểu hiện quan hệ chuyển hóa sáng tạo của cá thể đến các đối tượng nhận thức, liên quan đến sự thay đổi trong ý thức của nó v.v…
- 13 Tính tích cực được biểu hiện ở nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung đặc trưng là sự tìm tòi có chủ đích mà kết quả của nó là sự hình thành tri thức mới và sự sáng tạo, đồng thời biểu hiện là sự hứng thú với sự tự học, hoặc nắm bắt nội dung môn học ở mức độ cao hơn do nảy sinh nhu cầu nhận thức. Nó không chỉ là biết giải một số bài tập nào đó mà còn hiểu rõ, vận dụng trong nhiều tình huống khác nhau. Từ đó cá nhân chiếm lĩnh được phương pháp luận, đạt được mục đích học tập. Chính nhờ sự tích cực hóa quá trình hoạt động nhận thức đã tạo điều kiện mở rộng, phát triển các hứng thú, là điều kiện cần để vận hành bất kì quá trình trí nhớ và tư duy. Hoạt động mà thừa những động cơ bên trong sẽ xảy ra tính tích cực nhận thức ở mức độ cao. Như vậy, các nhà tâm lí học, đặc biệt những nhà tâm lí học Việt Nam đều thống nhất với nhau ở điểm: quá trình học tập đòi hỏi hoạt động có chủ đích của các giác quan, ý chí của trẻ, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong lĩnh hội tri thức, kĩ năng và kĩ xảo. Có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tất cả các quan điểm đó có thể khái quát thành hai quan điểm chung nhất. - Quan điểm thứ nhất Tính tích cực nhận thức được xem là một dạng hoạt động hay là trạng thái của hoạt động dưới góc độ tâm lí. Trong hoạt động dạy học, nó không tồn tại như một trạng thái, một điều kiện, mà nó còn là kết quả của hoạt động học tập, là mục đích của hoạt động dạy học. Có ý kiến khác lại cho rằng tính tích cực nhận thức là sản phẩm của nhân cách, một thuộc tính của quá trình nhận thức, làm cho quá trình nhận thức luôn đạt kết quả cao. Trên thực tế, mục đích của việc học không chỉ là nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, mà là hình thành những phẩm chất của nhân cách. Một trong những phẩm chất đó, theo T.I. Samôva, đó là tính tích cực nhận thức được biểu hiện ở tính định hướng, tính bền vững của hứng thú nhận thức, học
- 14 sinh cố gắng tìm tòi phương thức để nắm vững kiến thức, để hành động hiệu quả, tập trung ý chí để đạt được mục đích học tập. - Quan điểm thứ hai Quan điểm thứ hai này nêu bật lên tính chất cải tạo của tính tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức của con người xuất hiện trong hoạt động cải tạo, thể hiện thái độ cải tạo của chủ thể nhận thức đối với đối tượng nhận thức. Thái độ cải tạo là điều kiện cần để đánh giá hành động tích cực hay trì trệ. Tính tích cực đòi hỏi hai yếu tố sau: thái độ lựa chọn đối với đối tượng nhận thức, biết đặt ra mục đích, nhiệm vụ phải làm, cải tạo đối tượng trong những hoạt động tiếp theo nhằm giải quyết vấn đề Nếu thiếu những yếu tố trên, hoạt động chỉ có thể được coi là sự thể hiện trạng thái hành động nhất định của con người. Trạng thái không tích cực không đòi hỏi sự thay đổi, sự cải tạo như các hiện tượng tích cực. Quan điểm trên đã đi sâu vào vấn đề tích cực nhưng vẫn chưa lột tả được mô hình tâm lí của hoạt động nhận thức. Để có một khái niệm tính tích cực toàn diện, đúng đắn phải dựa trên cả hai quan điểm đã nêu trên. Nói tóm lại, tính tích cực nhận thức là tính tích cực tư duy. Các dấu hiệu đặc trưng của tính tích cực nhận thức là sự nỗ lực về trí tuệ, thao tác tư duy, các hành động học tập và thể hiện sự quan tâm đến môn học, nhờ vậy người học nắm bắt nội dung môn học ở mức độ cao hơn. 1.2.1.3- Tính tích cực nhận thức trong học tập của sinh viên Như trên đã phân tích, các quá trình nhận thức sẽ phản ảnh rất rõ tính tích cực nhận thức. Những quá trình như là quá trình cảm giác, trí nhớ, tư duy và bao gồm tất cả các quá trình ý chí, cảm xúc. Trong tính tích cực nhận thức sẽ xác định sự tham gia của con người với những mức độ khác nhau trong quá trình nắm vững tri thức và cải tạo trong những tri thức đó. Chính nhờ việc nắm vững tri thức và những phẩm chất trí tuệ tạo điều kiện cho con người có tính tích cực lao động sau này.
- 15 Đối với sinh viên, tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập thường được thể hiện rõ nhất và đầu tiên ở quá trình của trí nhớ. Trí nhớ không thể tách khỏi chức năng của não, đó là sự biểu hiện của quá trình tích cực tâm lí và nó là một thành phần cần thiết trong quá trình nhận thức và tính tích cực nhận thức của sinh viên không là trường hợp ngoại lệ. Trí nhớ đảm bảo sự giữ gìn và cải tạo lại một cách tích cực những thông tin được chủ thể tri giác, và trí nhớ thực sự là một điều kiện quan trọng để nắm vững tri thức. đó là một trong những chìa khóa để bước vào ngưỡng cửa thành công. Có những thầy cô hay nhà quản lý rất được học trò, nhân viên yêu mến, đơn giản chỉ vì họ cảm thấy được tôn trọng khi thầy cô hay cấp trên thường chào và gọi đúng tên họ. Trí nhớ tốt là một trong những lợi thế để học tốt ngoại ngữ, khỏi phải nói thêm ai trong chúng ta cũng biết là ngoại ngữ có vai trò như thế nào trong xã hội hiện nay. Tuy nhiên, nhớ tốt thôi chưa đủ, ngày nay những tài liệu nhận thức yêu cầu người học phải mở rộng kiến thức, phải làm việc một cách tích cực về trí tuệ. Vì vậy sinh viên cần phải có sự định hướng, sự nhận thức chung trong các tài liệu học tập, trong tư duy, trong việc hiểu biết và nắm vững các tài liệu học tập. Chính điều kiện học tập này đã giúp sinh viên loại trừ việc học thuộc lòng. Hoạt động tư duy của con người được thể hiện trong việc hiểu những thông tin được tri giác, nghĩa là chủ thể có mối liên hệ về không gian, thời gian, nguyên nhân, kết quả, tính lôgic của các phương tiện, các hiện tượng và các tài liệu được thông báo. Thật ra, nếu không dựa vào hoạt động nhận thức không dựa vào sự hiểu biết, không nắm vững những giá trị đầy đủ của tri thức. Tất cả phương pháp tích cực hóa tư duy của người học không chỉ tạo điều kiện phát triển khả năng tư duy, tưởng tượng trong năng lực sáng tạo, thế giới quan và nhân cách mà còn là điều kiện cần thiết và quan trọng để nắm vững tri thức một cách nhanh chóng hiệu quả. Trong điều kiện ngày nay khi mà khối lượng kiến thức, kỹ năng kỹ xảo cần thiết cho mỗi người rất lớn và khối lượng ngày càng tăng thì việc tích cực hoạt động tư duy chính là phương tiện cần thiết để sinh viên nắm vững tri thức trong tài liệu một cách chắc chắn và nắm vững được các kĩ xảo, kĩ năng cần thiết. Chính vì vậy,
- 16 tính tích cực hoạt động tư duy đã trở thành một trong những điều kiện quan trọng để nắm vững tri thức. Nếu thiếu nó việc nắm vững những khối lượng kiến thức cần thiết, những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo sẽ không bao giờ đạt được. Có phương pháp học khoa học, chính là chìa khóa để sinh viên tiến tới cánh cửa tri thức. Thế nhưng nếu sinh viên trong quá trình lĩnh hội tri thức mà không biết sử dụng hoạt động tư duy để xử lí những tài liệu học tập, không biết cách làm việc với những tài liệu học tập phức tạp sẽ được xem là không biết cách học. Điều này sẽ dẫn đến sự quá tải trong việc học từ đó sẽ dẫn đến việc nắm vững tri thức không chắc chắn và không đầy đủ. Khi biết cách làm việc với tài liệu, với sách vở là biết cách làm việc trí tuệ phức tạp. Nó được biểu hiện ở chỗ hiểu các bài khóa. Kết quả của việc tư duy và tập trung chú ý vào tài liệu học tập là ghi nhớ được nội dung, ý tưởng của tài liệu học tập, phân biệt những điểm quan trọng, những vấn đề xuyên suốt các phần khác của tài liệu. Đó chính là đặc điểm cơ bản của tính tích cực nhận thức ở sinh viên. Trong quá trình học tập sinh viên phải đề ra mục đích rõ ràng và biết cách tiếp nhận một cách có hệ thống những tài liệu học tập. Trong hoạt động tư duy tích cực, xác định được mục đích rõ ràng và tiếp nhận có hệ thống là điều kiện cần thiết để nắm vững tri thức cần thiết. Và việc cấu tạo lại tri thức vừa được nắm vững cũng là một điều kiện để nắm vững tri thức, nếu tích cực hoạt động tư duy, nó sẽ giúp sinh viên ghi nhớ chúng một cách bền vững. Việc so sánh các tài liệu học tập sẽ giúp tri thức đó được ghi lâu trong trí nhớ hơn, đó là cách thức mới trong quá trình tích cực nhận thức và là một điều quan trọng. Muốn mở mang kiến thức để có hành trang vào đời (tri thức là sức mạnh), sinh viên cần tiếp xúc với các tài liệu học tập khác nhau, tìm kiếm thêm tài liệu để học chứ không phải trông chờ những tài liệu học tập mà giáo viên giao cho. Theo thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu [6,31]: “Trong quá trình làm việc với các tài liệu học tập khác nhau, sinh viên đã nảy sinh quá trình so sánh những tài liệu học tập, điều này cũng sẽ làm tăng cường tính tích cực tư duy của sinh viên, nó cũng tăng cường chất lượng của tri thức. Những tài liệu học tập này sẽ được ý thức một
- 17 cách sâu sắc và khắc sâu trong trí nhớ. So sánh không chỉ là điều kiện cơ bản để tăng cường tính hiệu quả của hoạt động tư duy mà còn là điều kiện để thực hiện các thao tác phân tích tổng hợp trí tuệ một cách đầy đủ nhất. So sánh cũng là hoạt động tích cực nhận thức. Trong quá trình này sẽ nảy sinh sự phân biệt những dấu hiệu khác nhau, tìm kiếm những đặc điểm chung, những đặc điểm riêng của các hiện tượng khác nhau. Dựa trên cơ sở này mà họ tổng hợp nhờ sự hiểu biết, hay nói cách khác so sánh là điều kiện bắt buộc của quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa. Nó ảnh hưởng rất lớn đến tư duy khả năng phát triển năng lực nhận thức của người học. Nếu người học chưa ý thức được các thao tác tư duy này, họ sẽ mắc nhiều sai lầm. Họ không có số liệu giống nhau, khác nhau của các khách thể so sánh. Không phân biệt được những dấu hiệu bản chất, không bản chất của đối tượng, không phân biệt được sự khác nhau giữa chúng. Họ chỉ liệt kê các dấu hiệu và không so ánh chúng với nhau. Như vậy không thể làm sáng tỏ những đặc điểm chung và đặc điểm riêng của các đối tượng.” Từ sự phân tích đó, ta thấy thực chất sinh viên có thể thường xuyên khái quát hóa tài liệu học tập, biết lựa chọn những gì cơ bản để so sánh xuất phát từ sự phân biệt các dấu hiệu của đối tượng. Vai trò của so sánh trong quá trình tích cực nhận thức của người học. Nếu sinh viên so sánh một cách tối đa, tìm sự giống nhau sẽ dẫn đến sự lựa chọn hợp lí. Việc ý thức được sự giống nhau và khác nhau trong tài liệu giữ vai trò quan trọng. So sánh sự giống nhau và khác nhau trong tài liệu học tập có vai trò tích cực và được thực hiện nhờ sự đối chiếu luân phiên giữa các phần của chúng. Các tài liệu học tập có nội dung ít khác nhau thì việc ghi nhớ và phân biệt chúng càng khó khăn. Nói chung, tính tích cực của sinh viên được thể hiện qua việc sinh viên biết so sánh, đối chiếu các loại tài liệu học tập, tìm ra sự giống và khác nhau của tri thức trong các nguồn tài liệu khác nhau sẽ giúp sinh viên nắm vững được tri thức. Một biểu hiện của tính tích cực nhận thức trong học tập của sinh viên nữa là khả năng độc lập trong học tập, trong tư duy. Đặc trưng hoạt động của sinh viên là đòi hỏi tính độc lập rất cao trong quá trình học tập, không còn như ở phổ thông. Cụ
- 18 thể là sẽ không có ai nhắc nhở, kiểm tra việc học thậm chí cả việc đi học đầy đủ các môn. Để nắm vững tri thức sâu sắc và có hành trang vào đời với điều kiện học tập ở bậc đại học, phần lớn sinh viên đã phát huy tính độc lập học tập. Tính độc lập học tập được thể hiện ở chỗ sinh viên nắm vững tri thức trong giờ học tại lớp và tự học tại thư viện, ở nhà, trong những hoạt động khác. Để chiếm lĩnh được tri thức, để lưu giữ được tri thức lâu, sinh viên cần có thời gian tự học nhiều hơn hai ba lần so với thời gian làm việc khác. Sinh viên tự đặt ra cho mình các câu hỏi, nhiệm vụ tư duy. Điều này bắt sinh viên phải trả lời các câu hỏi đặt ra và giúp sinh viên tích cực hóa tối đa khả năng tư duy của bản thân. Nó kích thích các sinh viên so sánh các yếu tố, hình thành ở người học những nguyên tắc, những qui luật của tài liệu, nắm vững được định nghĩa, bản chất mà thực chất là nắm vững ý nghĩa tài liệu học tập, giúp người học ghi nhớ chúng một cách chắc chắn. Những câu hỏi, những khó khăn, cả những hoàn cảnh, tình huống có vấn đề giữ vai trò quan trọng trong quá trình học tập để tích cực hóa hoạt động nhận thức và ghi nhớ không chủ định tài liệu học tập. Những yếu tố đó làm cho người học không thể giải quyết được những nhiệm vụ đã được đề ra với sự giúp đỡ của tri thức đã có và của những hành động đã nắm vững. Lúc đó sẽ xuất hiện nhu cầu nhận thức ở mức độ cao, nó tạo điều kiện bên trong để nắm vững tri thức mới. Lúc này, cần có sự trợ giúp từ phía người khác. Tính tích cực nhận thức của sinh viên thể hiện khi họ chủ động thảo luận bàn bạc với bạn bè, với các giáo viên. Sinh viên hội thoại trao đổi trực tiếp về những vấn đề họ quan tâm, vấn đề chưa được sáng tỏ. Họ mạnh dạn suy nghĩ và trả lời các câu hỏi của giáo viên. Sinh viên sẽ tự rút ra những kết luận cần thiết, biết cách khái quát hóa để biểu hiện ý tưởng của mình trong ngôn ngữ trong hành động, nhờ vậy họ sẽ tích cực nhận thức trong giờ học. Thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu phân tích: Cuộc trò truyện với giáo viên, với bạn bè cho phép sinh viên điều khiển một cách hiệu quả quá trình nắm vững tri thức của bản thân và đưa ra những câu hỏi có mục đích và có tính định hướng. Cuộc thảo luận giúp tích cực hóa quá trình trí nhớ và tư duy của người học bởi vì mỗi khi sinh viên tự đặt ra câu hỏi bắt buộc họ phải tự suy nghĩ và phải nhớ lại, hồi tưởng lại tri
- 19 thức. Điều này sẽ giúp sinh viên có thêm kinh nghiệm học tập. Còn việc nhớ lại được thực hiện do ảnh hưởng của những câu hỏi của giáo viên tạo điều kiện hồi tưởng lại một cách chắc chắn đầy đủ tài liệu học tập và nó sẽ rèn luyện sự phát triển, rèn luyện việc củng cố của trí nhớ, rèn luyện tư duy, nó còn giúp đỡ hình thành một thói quen ổn định trong việc ghi nhớ và giữ gìn tri thức. Việc giữ gìn sẽ dẫn tới việc hồi tưởng, nhớ lại tài liệu. Chính điều này đòi hỏi sinh viên thường xuyên nỗ lực tư duy [6,33]. Việc xem lại bài, đọc tài liệu sau khi nghe giảng đã giúp sinh viên tích cực hoạt động trí tuệ, trong khi đó, sinh viên sẽ phát hiện ra những vấn đề chưa rõ, tự đặt ra những câu hỏi và tìm kiếm câu trả lời đúng, sau đó, tích cực vận dụng những tri thức sách vở, phân tích suy nghĩ về chúng, hình dung được mối quan hệ khác nhau thấy được sự liên kết, nhờ vậy đảm bảo cho sự cải tạo lại một cách sâu sắc gốc rễ những tài liệu đã nắm vững. Cách tự đặt câu hỏi cho bản thân, cho giáo viên sau khi nghe giảng và đọc tài liệu là biểu hiện tính tích cực nhận thức mức độ cao. Cũng theo thạc sĩ Võ Thị Ngọc Châu: “sinh viên thảo luận những vấn đề đã học, đã đọc với giáo viên sẽ làm tăng cường tính tích cực nhận thức. Vì khi tranh luận với sinh viên, nếu giáo viên đưa ra cho sinh viên những câu hỏi có tính độc đáo không rập khuôn, tinh tế, sâu sắc đặc trưng cho từng đối tượng, cho từng khách thể điều này sẽ kích thích sinh viên hứng thú, tư duy và nó còn là điều kiện cần thiết để giữ gìn tài liệu học tập trong trí nhớ dài hạn” [6,34]. Hơn thế nữa, biết phân tích, tổng hợp rồi liên hệ tài liệu học tập với kinh nghiệm sống, áp dụng vào trong hành động thực tiễn của môi trường bên ngoài (hoạt động thực tiễn) là một hình thức tích cực nhận thức khác của sinh viên. Đó là sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành. Tóm lại khi nghiên cứu tài liệu, sinh viên cũng phải có cả tri thức sách vở và tri thức đó phải được áp dụng trong cuộc sống nhờ vậy tri thức cũng được củng cố chắc chắn hơn. Bên cạnh đó, sơ đồ hóa nội dung tri thức là một biểu hiện khác của tính tích cực nhận thức ở mức độ cao. Với sự giúp đỡ điểm tựa nội dung cơ bản của tài liệu học tập được nắm vững sẽ được biểu hiện trong những sơ đồ trên những ý chính
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Cách thức ứng phó trước những khó khăn tâm lý của học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 367 | 100
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
92 p | 503 | 98
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh
82 p | 491 | 81
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
107 p | 437 | 79
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lý của nhân viên văn phòng tại doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh
119 p | 331 | 54
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
93 p | 307 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Áp lực tâm lý và cách ứng phó của trẻ lao động sớm tại một số quận nội thành thành phố Hồ Chí Minh
197 p | 268 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ nhất trường Sĩ quan Lục quân 2
133 p | 296 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Bầu không khí tâm lý của lớp học tại trường Đại học An ninh Nhân dân
178 p | 217 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại TP. Hồ Chí Minh
106 p | 161 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch
103 p | 188 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: So sánh một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học
67 p | 155 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhận thức, thái độ về an toàn tình dục của nữ thanh niên công nhân khu công nghiệp Sóng Thần tỉnh Bình Dương
143 p | 171 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên Phân viện miền Nam, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
103 p | 142 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của chuyên viên nhân sự
124 p | 163 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Năng lực quản lý nhân sự của giám đốc doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh
104 p | 127 | 19
-
Luân văn Thạc sĩ Tâm lý học: Kỹ năng sử dụng Internet trong học tập môn Tâm lý học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa- Vũng Tàu
115 p | 152 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên đang sống tại các Trung tâm Bảo trợ Xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
117 p | 120 | 15
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn