intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

460
lượt xem
83
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng nghiên cứu thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH VÕ HOÀNG ANH THƯ TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ BẢO LỘC – LÂM ĐỒNG Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 603180 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ THU MAI Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình của bản thân. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nào. Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin chịu trách nghiệm trước Hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm Tác giả Võ Hoàng Anh Thư
  3. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Thu Mai, người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ dẫn tận tâm của tất cả các giảng viên đã giảng dạy chúng tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua, đặc biệt là sự quan tâm, tận tình giúp đỡ của quý thầy cô đang công tác tại phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học và khoa Tâm lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu và các em học sinh của trường trung học phổ thông Bảo Lộc và trường trung học phổ thông Nguyễn Du đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thưc hiện đề tài này. Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người thân trong gia đình đặc biệt là ba mẹ và ông xã về sự động viên, giúp đỡ to lớn nhất dành cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn này. Đây cũng là món quà tôi dành tặng cho con gái bé nhỏ vì đã luôn mang lại cho tôi những niềm vui và hạnh phúc lớn lao.
  4. BẢNG DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT RC Rất cao C Cao TB Trung bình T Thấp RT Rất thấp ĐLC Độ lệch tiêu chuẩn ĐTB Điểm trung bình N Tần số TSCN Trị số cao nhất TSTN Trị số thấp nhất P Mức ý nghĩa ĐC Nhóm đối chứng TN Nhóm thực nghiệm RN Rất nhiều KAH Không ảnh hưởng NXB Nhà xuất bản EQ Chỉ số trí tuệ cảm xúc IQ Chỉ số trí thông minh
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Xã hội hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển, cá nhân dễ dàng đạt được thành công trong nhiều lĩnh vực. Đây cũng là lúc con người có sự quan tâm đến những nhu cầu của đời sống tinh thần đặc biệt là trong các mối quan hệ người - người. Mặc dù mục tiêu giáo dục của nước ta là phát triển toàn diện nhân cách học sinh nhưng chương trình giáo dục hầu như chỉ tập trung phát triển các năng lực học tập, cung cấp kiến thức mà ít chú trọng đến vấn đề giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu của xã hội, giáo dục cần phải có những thay đổi để có thể đào tạo ra những công dân không những vừa có đức vừa có tài mà còn có khả năng giải quyết hiệu quả các mối quan hệ xã hội. Trong đó, giáo dục phát triển trí tuệ cảm xúc cho trẻ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự thành đạt của những công dân tương lai. 1.2. Trí tuệ cảm xúc, một dạng trí thông minh mà các cuộc nghiên cứu gần đây khẳng định rằng chúng quan trọng hơn cả trí thông minh truyền thống trong việc dự đoán sự thành công và hạnh phúc của con người. Giáo sư Daniel Goleman cho rằng: “Nếu bạn không có những khả năng về cảm xúc thì bạn không thể nào tiến xa được”. Và từ thời cổ đại, Aristotle cũng cho rằng: “Bất cứ ai cũng có thể trở nên giận dữ - điều này thật dễ dàng. Tuy nhiên, để giận đúng người, đúng mức, đúng lúc, đúng mục đích, và đúng cách - điều này là không dễ”. Trong một nghiên cứu năm 2005, Gary R. Low và Darwin B. Nelson (trường Cao đẳng Giáo dục Texas Hoa Kỳ) đã kết luận “Trí tuệ cảm xúc là chìa khóa quan trọng của cá nhân trong việc giành được thành tích xuất sắc trong học thuật và sự nghiệp” [29]. Như vậy, có thể nói việc nhận thức đúng về tình cảm và khả năng xử lý cảm xúc sẽ quyết định sự thành công và hạnh phúc của mọi người thuộc mọi tầng lớp và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. 1.3. Phát triển trí tuệ cảm xúc có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của học sinh. Ví dụ, trí tuệ cảm xúc giúp trẻ quản lý các tình huống căng thẳng và giải quyết các vấn đề hàng ngày một cách hiệu quả. Điều này tạo cho trẻ một nền tảng tốt về nhân cách cũng như những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống để trẻ có thể thành công vững
  6. chắc trong tương lai. Trí tuệ cảm xúc chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm mà cá nhân gặp phải, nó không cố định và có thể thay đổi. Do vậy, việc giáo dục trí tuệ ở học sinh là một điều cần thiết và rất đáng được quan tâm. 1.4. Trí tuệ cảm xúc được hình thành trong những năm đầu của cuộc đời và tiếp tục phát triển cho đến khi trưởng thành. Đặc biệt, những năm học ở nhà trường phổ thông là những năm thú vị và có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời, là thời gian các em phát triển về mặt xã hội, tình cảm, nhận thức và thể chất một cách mạnh mẽ. Đây chính là giai đoạn học sinh trải nghiệm sự phát triển to lớn về mặt tình cảm. Đối với học sinh trung học phổ thông, việc học hỏi để hiểu biết và phát triển những khả năng về cảm xúc là vô cùng quan trọng. Điều này giúp cho các em nâng cao năng lực cảm xúc của bản thân và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của trí tuệ cảm xúc. Sự chuẩn bị tốt về mặt cảm xúc ở giai đoạn tuổi học sinh trung học phổ thông là tiền đề để trẻ tự tin, vững bước tiến vào ngưỡng cửa cuộc đời. Như vậy, giai đoạn học sinh trung học phổ thông là giai đoạn cần thiết và quan trọng để giáo dục trí tuệ cảm xúc. 1.5. Tuy vậy, trí tuệ cảm xúc vẫn là một vấn đề mới mẻ, phức tạp nên chưa được nghiên cứu nhiều. Đặc biệt vấn đề trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng chưa được ai nghiên cứu. Từ những lý do nêu trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ BẢO LỘC – LÂM ĐỒNG” 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông. 3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu 3.1 Khách thể nghiên cứu Học sinh trung học phổ thông Thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. 3.2. Đối tượng nghiên cứu
  7. Trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông. 4. Giả thuyết khoa học Đa số học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng có mức độ trí tuệ cảm xúc ở mức trung bình. Các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng chưa đồng đều. Mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng sẽ được nâng cao nếu học sinh được hướng dẫn và tích cực rèn luyện. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu lý thuyết để làm cơ sở lý luận cho đề tài. Khảo sát thực trạng mức độ và các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Thực nghiệm tác động sư phạm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao trí tuệ cảm xúc cho học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng mức độ và các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Thực nghiệm tác động một số biện pháp sư phạm nhằm nâng cao mức độ một số mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. 6.2. Giới hạn khách thể nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên phạm vi 230 học sinh lớp 10, 11, 12 thuộc hai trường trung học phổ thông Bảo Lộc và trường trung học phổ thông Nguyễn Du thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. 7. Phương pháp nghiên cứu
  8. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận a. Mục đích Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tri thức lý luận và thực tiễn có liên quan đến trí tuệ cảm xúc nhằm viết cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu và định hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn và thực nghiệm. b. Cách thực hiện Đọc, phân tích, tổng hợp kết quả các công trình nghiên cứu, tài liệu, các bài viết…có liên quan đến trí tuệ cảm xúc. Trên cơ sở đó hệ thống hóa những vấn đề lý luận tâm lý học về trí tuệ cảm xúc để xây dựng đề cương nghiên cứu, xác định khái niệm công cụ, xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp trắc nghiệm - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Phương pháp quan sát - Phương pháp phỏng vấn - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp thống kê toán học 8. Đóng góp mới của đề tài - Xác định mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. - Đưa ra một số biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông. - Đề xuất một số hướng nhằm nâng cao trí tuệ cảm xúc cho học sinh trung học phổ thông. 9. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm có các phần như sau: Mở đầu Nội dung nghiên cứu
  9. Chương 1: Cơ sở lý luận về trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông Chương 2: Thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng Chương 3: Biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng Kết luận và kiến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục
  10. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trí tuệ cảm xúc 1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới Phong trào nghiên cứu trí tuệ cảm xúc bắt nguồn và phát triển mạnh mẽ nhất ở Mỹ với các nhà tâm lý học kiệt xuất. E.L. Thorndike là người đầu tiên tìm cách nhận dạng trí tuệ cảm xúc mà lúc đó ông gọi là trí tuệ xã hội vào cuối những năm 1930. Theo ông, trí tuệ xã hội là “năng lực hiểu và điều khiển mà những người đàn ông, đàn bà, con trai và con gái sử dụng để hành động một cách khôn ngoan, sáng suốt trong các mối quan hệ của con người”. David Weschler (1940) cho rằng yếu tố phi trí tuệ là yếu tố quan trọng cho con người trong việc thích nghi và đạt được những thành tích trong cuộc sống. Theo ông, yếu tố phi trí tuệ được xem là cần thiết để dự đoán khả năng thành công của một người. Howard Gardner (1983) cho ra đời tác phẩm “Frames of mind” như là một tuyên ngôn chống lại độc quyền của trí thông minh, chứng minh rằng không có hình thức duy nhất, toàn khối của trí tuệ quyết định thành công trong cuộc đời, đúng hơn có một thang trí tuệ rộng lớn. Theo lập luận đó, ông đưa ra mô hình đa trí tuệ và cho rằng trí tuệ cá nhân gồm hai loại: trí tuệ liên nhân cách (interpersonal intelligence) và trí tuệ về bản thân (intrapersonal intelligence). Ông cho rằng hai loại trí tuệ này cũng quan trọng như trí thông minh được biểu thị bởi chỉ số IQ (Intelligence quotient) và đo bằng trắc nghiệm IQ. Reuven Bar-On (1985) là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ trí tuệ cảm xúc trong luận án tiến sĩ của mình. Bar-On đặt trí tuệ cảm xúc trong phạm vi lý thuyết nhân cách, đưa ra mô hình Well-being (1997) với ý định trả lời câu hỏi: “Tại sao một người nào đó lại có khả năng thành công hơn những người khác?”. Bar-On đã xem xét lại những nghiên cứu tâm lý về các đặc tính của nhân cách có liên quan đáng kể đến sự thành công
  11. trong cuộc sống và đã nhận diện được 5 khu vực (nhân tố) bao quát về mặt chức năng phù hợp với sự thành công trong cuộc sống. Từ đó ông đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc kiểu hỗn hợp. Vào năm 2000, Bar-On định nghĩa: “Trí tuệ cảm xúc như là một dãy các phi năng lực và những kỹ năng ảnh hưởng đến năng lực một người thành công trong công việc đương đầu với những đòi hỏi và sức ép từ môi trường”. Peter Salovey và John Mayer là hai nhà tâm lý học Mỹ đã công bố định nghĩa chính thức đầu tiên về trí tuệ cảm xúc vào năm 1990: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu rõ cảm xúc của bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình” [24]. Định nghĩa này đã có ảnh hưởng quan trọng đến lý thuyết trí tuệ cảm xúc tại thời điểm đó. Cũng trong năm 1990, Mayer, Salovey cùng với M.T. Đipaolo đã công bố bộ trắc nghiệm đo trí tuệ cảm xúc và từ đây hai ông đã dẫn đầu sự phát triển khoa học về lý thuyết và phương pháp xác định chỉ số trí tuệ cảm xúc (EQ – Emotional Quotient). Sau bảy năm, Mayer và Salovey (1997) đã chỉnh sửa đôi chút định nghĩa trí tuệ cảm xúc được nêu vào năm 1990 như sau: “Trí tuệ cảm xúc như là năng lực nhận biết, bày tỏ cảm xúc; cảm xúc hóa tư duy; hiểu, suy luận với cảm xúc; điều khiển, kiểm soát cảm xúc của mình và của người khác” [9, tr.98]. Dựa trên định nghĩa này mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực được xây dựng. Daniel Goleman – tiến sĩ tâm lý học của đại học Harvard – đã tập hợp các kết quả nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc và cho ra đời cuốn sách đầu tiên “Trí tuệ cảm xúc” vào năm 1995 thì thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong xã hội Mỹ. Daniel Goleman nghiên cứu trí tuệ cảm xúc theo lý thuyết hiệu quả thực hiện công việc, ông xác định: mô hình trí tuệ cảm xúc dựa trên lý thuyết này có thể ứng dụng trực tiếp vào khu vực hiệu quả quản lý và hoàn thành công việc từ người bán hàng đến công việc của nhà quản lý. Mô hình trí tuệ cảm xúc mà D. Goleman đề xuất là một mô hình kiểu hỗn hợp.
  12. Theo D. Goleman, trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: sự tự chủ, lòng nhiệt thành và kiên nhẫn cũng như khả năng và sự kích thích hành động. Từ năm 1995, Daniel Goleman – người được xem là nhà nghiên cứu hàng đầu về trí tuệ cảm xúc hiện nay, đề xuất chúng ta phải có những năng lực cảm xúc cá nhân gồm: - Năng lực tự nhận biết bản thân; - Năng lực tạo động lực; - Những năng lực thông minh cảm xúc xã hội gồm: năng lực thấu cảm với người khác và năng lực giao tiếp xã hội. Tuy nhiên vào năm 2001, D. Goleman đưa ra bốn biểu hiện của trí tuệ cảm xúc nói lên năng lực của cá nhân trong mối quan hệ với mình và năng lực xã hội của con người trong mối quan hệ với người khác: - Tự biết mình; - Tự kiểm soát, tự quản; - Nhận biết các quan hệ xã hội; - Kiểm soát, điều khiển các mối quan hệ xã hội. Những nghiên cứu của Goleman không chỉ dừng lại ở việc xác định bản chất của trí tuệ cảm xúc mà ông còn đưa ra những biện pháp để giáo dục trí tuệ cảm xúc. Như vậy, nhìn một cách tổng thể có thể nói có ba đại diện tiêu biểu đã đi sâu nghiên cứu trí tuệ cảm xúc dưới những cách tiếp cận khác nhau, trong đó R. Bar-On tiếp cận trí tuệ cảm xúc dưới góc độ nhân cách, P. Salovey và J. Mayer nghiên cứu dưới góc độ nhận thức và D. Goleman tiếp cận dưới góc độ hiệu quả công việc. 1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề trí tuệ, đặc biệt là trí thông minh, trí sáng tạo đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu từ lâu. Thế nhưng, những công trình nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc chỉ mới ở những bước đi đầu tiên. Vào năm 2000, tạp chí Tâm lý học lần đầu tiên đăng các bài viết của PGS.TS Nguyễn Huy Tú về trí tuệ cảm xúc.
  13. Đề tài cấp nhà nước KX-05-06 giai đoạn 2001 – 2005 do PGS.TS Trần Kiều cùng với các nhà tâm lý và giáo dục thuộc Viện chiến lược và chương trình giáo dục nghiên cứu trí tuệ cảm xúc đã xác định trí tuệ cảm xúc là một trong ba thành tố của trí tuệ (trí thông minh, trí sáng tạo và trí tuệ cảm xúc) trên sinh viên, học sinh và lao động trẻ. Đề tài này mở đầu cho các công trình nghiên cứu trí tuệ cảm xúc sau này. Các tác giả trong các công trình nghiên cứu luận văn, luận án tâm lý học cũng đã chọn trí tuệ cảm xúc làm vấn đề nghiên cứu, chẳng hạn như: luận văn thạc sĩ của Dương Thị Hoàng Yến (2004), luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Dung (2007),…Các đề tài này phần lớn tập trung nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của giáo viên trong hoạt động chủ nhiệm lớp. Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Trọng Nam (2004) và Nguyễn Thị Tuấn Anh (năm 2008) tập trung nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của đối tượng là sinh viên sư phạm. Ngoài ra còn một số sông trình nghiên cứu khác về trí tuệ cảm xúc tập trung chủ yếu trên đối tượng là sinh viên. Hiện nay, các tác giả Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Phan Trọng Ngọ, …và nhiều tác giả khác vẫn đang tiếp tục đi sâu nghiên cứu trí tuệ cảm xúc. Như vậy, có thể nói rằng những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về trí tuệ cảm xúc tuy chưa nhiều nhưng đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, các đề tài về trí tuệ cảm xúc chưa quan tâm nhiều đến đối tượng học sinh trung học phổ thông. Vì vậy, nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông là việc làm cần thiết. 1.2. Trí tuệ cảm xúc 1.2.1. Khái niệm trí tuệ Trong tiếng La tinh: Trí tuệ (Intellectus) có nghĩa là trí năng sắc sảo, sự hiểu biết chu đáo [9, tr.7]. Trong từ điển Tiếng Việt: Trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định [14, tr.1245].
  14. Trong từ điển tâm lý: Trí tuệ là khả năng hành động thích nghi với biến động của hoàn cảnh thiên về tư duy trừu tượng (Nguyễn Khắc Viện, 2001). Cho đến nay, trong Tâm lý học có rất nhiều định nghĩa về trí tuệ tùy theo cách tiếp cận. Nhìn chung trí tuệ được hiểu theo hai quan niệm: quan niệm truyền thống và quan niệm hiện đại.  Trí tuệ theo quan niệm truyền thống Điểm chung của quan niệm truyền thống là đồng nhất trí tuệ với trí thông minh (intelligence). Theo F.S. Freeman (1963), trong vô số các định nghĩa về trí tuệ, có thể thấy rõ có 3 loại: thứ nhất, xem trí tuệ là năng lực học tập; thứ hai, xem trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng; thứ ba, xem trí tuệ là năng lực thích ứng cá nhân. Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực học tập Đây là quan niệm đã có từ lâu và khá phổ biến. Nhà tâm lý học người Nga B.G.Ananhev xem trí tuệ là đặc điểm tâm lý phức tạp của con người mà kết quả của công việc học tập và lao động phụ thuộc vào nó [11, tr.41]. V.V.Bogoxlovki và những người khác (1973) xem hệ thống những thuộc tính trí tuệ của nhân cách đảm bảo cho sự tương đối dễ dàng trong việc nắm các tri thức, được hiểu là các năng lực chung [15, tr.71]. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy giữa học tập (đặc biệt là kết quả học tập) với khả năng trí tuệ của cá nhân có mối quan hệ nhân quả và chúng không đồng nhất. Trên thực tế, phần lớn học sinh có chỉ số IQ cao thì kết quả học tập cũng cao, song cũng có những học sinh có chỉ số IQ cao nhưng kết quả học tập lại không cao. Điều này có thể giải thích bằng nhiều lý do như động cơ học tập, ý chí, hứng thú, cách học…Chính A.Binet đã nghiên cứu và chứng minh được những học sinh học kém là do khả năng trí tuệ và những em do lười hoặc những nguyên nhân khác [11, tr.42]. Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng
  15. L.Terman (1937) cho rằng trí tuệ là năng lực phát triển tư duy trừu tượng. Theo cách hiểu như vậy thì chức năng của trí thông minh là sử dụng có hiệu quả các khái niệm và tượng trưng [15, tr.72]. N.A.Menchinskaia xem đặc trưng của trí tuệ là sự tích lũy vốn tri thức và các thao tác trí tuệ để con người tiếp thu được tri thức [13, tr.15]. X.L.Rubinstein cho rằng đặc trưng cơ bản hàng đầu của trí tuệ là năng lực tâm thần ở mức cao chẳng hạn như suy luận trừu tượng [1, tr.10]. Theo cách hiểu này, trí tuệ tức là khả năng sử dụng có hiệu quả các thao tác tư duy để giải quyết các vấn đề đặt ra. Trong khi đó, tư duy chỉ là một thành phần, một bộ phận của trí tuệ. Quan niệm như vậy đã thu hẹp nội hàm lẫn hình thức của trí tuệ. Nhóm quan niệm xem trí tuệ là năng lực thích ứng của cá nhân Đây là quan niệm phổ biến nhất và được nhiều nhà nghiên cứu tán thành. V. Stern coi trí tuệ là năng lực thích ứng tâm lý chung của con người với những điều kiện và nhiệm vụ mới trong đời sống [15, tr.72]. D. Wechler (1958) xem trí tuệ là năng lực chung của nhân cách, được thể hiện trong hoạt động có mục đích, trong sự phán đoán và thông hiểu một cách đúng đắn, trong sự làm cho môi trường thích nghi với những khả năng của mình [15, tr.72], [9, tr.96]. J. Piaget xem bản chất của trí tuệ bộc lộ trong việc cấu tạo những mối quan hệ giữa môi trường và cơ thể [15, tr.72]. Ông cũng cho rằng bất kỳ trí tuệ nào cũng đều là một sự thích ứng [13, tr.42]. F. Raynal, A. Rieunier (1997) xem trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để giải quyết vấn đề và nhanh chóng thích nghi với tình huống mới [13, tr.42] N. Sillamy (1997) xem trí tuệ là khả năng hiểu mối quan hệ sẵn có giữa các yếu tố của tình huống và thích nghi để thực hiện cho lợi ích bản thân [13, tr.42] Theo cách tiếp cận này, trí tuệ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường. Tuy nhiên sự tác động qua lại đó phải được xem xét như là một sự thích ứng
  16. tích cực, có hiệu quả nhằm cải tạo môi trường cho phù hợp với mục đích của con người, chứ không phải là sự thích ứng thụ động đơn giản. Nhìn chung, các quan điểm trên không loại trừ lẫn nhau mà do cách tiếp cận khác nhau trong việc lựa chọn dấu hiệu quan trọng nhất của trí tuệ. Các quan niệm này còn có một điểm chung là đã đồng nhất trí tuệ với trí thông minh. Nhưng rõ ràng không một định nghĩa nào trong các định nghĩa trên chứa đựng được hết bản chất của hiện tượng tâm lý phức tạp như trí tuệ của con người. Do vậy, có thể xem những quan niệm trên đây là những quan niệm truyền thống về trí tuệ. Những quan niệm này là nền tảng cho sự ra đời của quan niệm hiện đại về trí tuệ.  Trí tuệ theo quan niệm hiện đại Ngày nay, việc nghiên cứu trí tuệ dưới sự kết hợp các khoa học như: Di truyền học, Thần kinh học, Công nghệ thông tin…đã đem lại một cách nhìn toàn diện và sâu sắc hơn. Từ đó, các nhà tâm lý học cũng thừa nhận trí tuệ là một hiện tượng tâm lý xã hội mang bản chất lịch sử xã hội chứ không phải là cơ cấu khép kín, không thay đổi và có tính bẩm sinh di truyền. Mặt khác, các nhà nghiên cứu có xu hướng cho rằng có nhiều loại trí tuệ khác nhau và trí tuệ theo cách hiểu như vậy được biểu thị bởi thuật ngữ Wisdom. Các nhà tâm lý học như: Hofstatter (1971), Sterberg và Gardner (1984) khẳng định trí tuệ phải có cơ sở và gắn liền với thực tiễn. Trí tuệ theo quan niệm mới không chỉ thể hiện ở việc giải quyết các nhiệm vụ có tính hàn lâm mà còn thể hiện ở việc giải quyết các tình huống trong đời sống hàng ngày. Trí tuệ chính là kết quả tương tác giữa con người với môi trường sống đồng thời trí tuệ cũng là tiền đề cho sự tương tác đó. Theo Neisse (1976), nếu đặt trí tuệ hàn lâm (academic intelligence) vào điều kiện tự nhiên thì sẽ có một dạng trí tuệ khác được thể hiện khi thực hiện các tình huống đời thường [17, tr.35]. Cho đến 1990, Amelang và Bartussek gọi dạng trí tuệ này là trí tuệ thực tiễn (practical intelligence). Con người luôn sống và hoạt động trong mối tương tác với người khác, với cộng đồng, với các nhóm khác nhau,… Vì vậy, nếu con người chỉ trang bị cho bản thân những tri thức trường học, tư duy logic, trí nhớ hay trí sáng tạo thì
  17. chưa đủ để hoàn thành nhiệm vụ thực tiễn. Do vậy, ngoài trí thông minh và trí sáng tạo, con người còn cần phải có trí tuệ xã hội (Social Intelligence = SI). Trí tuệ xã hội là năng lực hoàn thành các nhiệm vụ trong hoàn cảnh có sự tương tác với người khác. Nó diễn ra trong hoạt động cùng người khác, với mục đích, tâm lý và tính xã hội nhất định [17, tr.36]. Trí tuệ xã hội được tạo nên bởi ba thành tố sau đây, trong đó trí tuệ cảm xúc là hạt nhân: - Tự nhận thức về bản thân - Năng lực xã hội (social competence) bao gồm ba tiểu thành tố: + Nhận thức (cognitive) + Xúc cảm (emotion) + Vận động (motorie) - Trí tuệ cảm xúc bao gồm bốn tiểu thành tố: + Tri giác (nhận ra) cảm xúc + Khả năng biểu hiện cảm xúc + Điều khiển có hiệu quả cảm xúc (của mình và của người khác) + Sử dụng những thông tin có liên quan đến cảm xúc để thúc đẩy, đặt kế hoạch và thực hiện có kết quả những hành động nhất định. Vào năm 1988, H.J. Eysenck đã đưa ra mô hình trí tuệ ba tầng bậc dựa trên sự kế thừa, phát triển quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại: - Trí tuệ sinh học (biological intelligence) là mặt sinh học của năng lực trí tuệ và là một nguồn gốc của những khác biệt về trí tuệ cá nhân. - Trí tuệ tâm trắc (psychoetric intelligence) hay trí tuệ hàn lâm là mặt trí tuệ được đo bằng các trắc nghiệm IQ, CQ (Creative Quotient: chỉ số sáng tạo) truyền thống được xây dựng trong tình huống giả định, có tính hàn lâm chưa phải là tình huống thực trong cuộc sống. Nó bao gồm trí tuệ hàn lâm, trí thông minh hay năng lực nhận thức và sáng tạo.
  18. - Trí tuệ xã hội là sự thể hiện của trí tuệ tâm trắc khi cần phải giải quyết các nhiệm vụ trong cuộc sống thực tế của chủ thể hoạt động có tự nhận thức rõ ràng về bản thân, có nhận thức về xã hội và mối quan hệ giữa bản thân với xã hội đó. Theo Eysenck, trí tuệ là một thuộc tính nhân cách mang bản chất sinh vật, tâm lý, xã hội và văn hóa một cách sâu sắc. Như vậy, trí tuệ theo quan niệm hiện đại không còn được hiểu đồng nhất với trí thông minh, bởi lẽ trí tuệ là một cấu tạo tâm lý động, có phạm vi rộng hơn không chỉ bao gồm trí thông minh mà còn trí sáng tạo và trí tuệ xã hội. Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khi nghiên cứu trí tuệ con người cần chú ý đến những vấn đề lý luận và phương pháp luận sau: - Trí tuệ là yếu tố tâm lý có tính độc lập tương đối với các yếu tố tâm lý khác của cá nhân. - Trí tuệ có chức năng đáp ứng mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể với môi trường sống, tạo ra sự thích ứng tích cực của cá nhân. - Trí tuệ được hình thành và biểu hiện trong hoạt động của chủ thể. - Sự phát triển của trí tuệ chịu ảnh của yếu tố sinh học của cơ thể và chịu sự chế ước của các yếu tố văn hóa – xã hội. Như vậy, trí tuệ là một cấu trúc động, tương đối độc lập của các thuộc tính nhận thức của nhân cách, được hình thành và thể hiện trong hoạt động, do những điều kiện văn hóa – lịch sử qui định và chủ yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với hiện thực xung quanh, cho sự cải tạo có mục đích. (Blaykhe V.M và Burolachuc L.F, 1978) [16, tr.5]. Kế thừa và phát huy một cách sáng tạo, các nhà tâm lý học thuộc viện chiến lược và Chương trình Giáo dục Việt Nam đã đưa ra định nghĩa hiện đại và toàn vẹn hơn về trí tuệ như sau: Trí tuệ - đó là một cấu trúc tương đối độc lập của những năng lực nhận thức và xúc cảm của cá nhân, được hình thành và thể hiện trong hoạt động, do những điều kiện văn hóa – lịch sử quy định và chủ yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với
  19. hiện thực xung quanh, cho sự cải tạo có mục đích của hiện thực ấy nhằm đạt được các mục tiêu quan trọng trong cuộc sống của cá nhân và xã hội [16, tr.6]. 1.2.2. Trí tuệ cảm xúc 1.2.2.1. Khái niệm trí tuệ cảm xúc Nếu trí thông minh được biết đến và nghiên cứu một cách phổ biến, sâu sắc trong gần một thế kỷ nay thì trí tuệ cảm xúc là một khái niệm mới được biết đến khoảng trên một thập kỷ trở lại đây. Những nghiên cứu đầu tiên về trí tuệ cảm xúc được công bố trên các tạp chí vào những năm 90 của thế kỷ XX, được xem là nhân tố dự đoán sự thành công của con người (Daniel Goleman) và là nhân tố mang lại hạnh phúc cho con người (Hein Steve). Thuật ngữ trí tuệ cảm xúc được P. Salovey và J. Mayer sử dụng đầu tiên vào năm 1990. Không lâu sau đó vào năm 1995, D. Goleman cho ra đời cuốn sách bán rất chạy mang tên “Emotional Intelligence” thì thuật ngữ trí tuệ cảm xúc trở nên rất phổ biến và thông dụng ở nước Mỹ. Từ đây, các công trình nghiên cứu trí tuệ cảm xúc diễn ra một cách rộng khắp và phổ biến. Trí tuệ cảm xúc là một vấn đề còn mới mẻ, phức tạp đã và đang được nghiên cứu sâu rộng. Vì thế, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về trí tuệ cảm xúc. Tuy nhiên, nhìn tổng quát có thể nhận ra hai dòng quan niệm tiêu biểu về trí tuệ cảm xúc như sau: Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực tâm thần Trên cơ sở quan niệm của Howard Gardner về sự tồn tại một dạng trí tuệ cá nhân bao gồm trí tuệ về mối quan hệ giữa các cá nhân và trí tuệ cá nhân hướng nội, năm 1990, P. Salovey và J. Mayer đi tiên phong trong việc phát triển lý thuyết trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực tâm thần. Hai ông đã đưa ra nội dung chính thức về trí tuệ cảm xúc như sau: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu rõ cảm xúc bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình” [24].
  20. Sau nhiều công trình nghiên cứu, năm 1997, Mayer và Salovey đã thay đổi đôi chút định nghĩa trí tuệ cảm xúc được nêu vào năm 1990 nhằm nhấn mạnh hơn nữa khía cạnh nhận thức, suy nghĩ về cảm giác và các giai đoạn phát triển trí tuệ và xúc cảm. Mayer và Salovey đã chính xác hóa nội dung định nghĩa như sau: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết và bày tỏ cảm xúc; hòa cảm xúc vào suy nghĩ; hiểu và suy luận với cảm xúc; điều khiển, quản lý cảm xúc của mình và của người khác” [9, tr.98]. Trong một cuốn sách xuất bản năm 1996, H. Steve cũng đưa ra định nghĩa tương đồng với các tác giả trên, theo đó: “Trí tuệ cảm xúc là sự kết hợp giữa sự nhạy cảm về cảm xúc có tính chất tự nhiên với các kỹ năng quản lý cảm xúc có được do tự học hỏi, nhằm giúp con người đạt được hạnh phúc trong cuộc sống” [11, tr.176]. Theo đó, ông cho rằng: trí tuệ cảm xúc là một tiềm năng bẩm sinh để cảm nhận, sử dụng, giao tiếp, nhận biết, ghi nhớ, mô tả, xác định, học hỏi, quản lý hiểu và giải thích cảm xúc [22]. Cùng với quan điểm trên, Boyatizis (1999) cho rằng: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết những tình cảm của mình và của người khác để tự thúc đẩy mình, kiểm soát, điều khiển cảm xúc của mình và của người khác” [9, tr.98]. Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu hỗn hợp R. Bar-On dựa trên cơ sở hiểu biết cảm xúc và xã hội có ảnh hưởng đến khả năng đối phó có hiệu quả của con người đối với môi trường và hoàn cảnh, ông cho rằng: “Trí tuệ cảm xúc là một dãy các năng lực phi nhận thức và những kỹ năng có ảnh hưởng đến khả năng thành công của một người trong hoàn cảnh người đó phải đương đầu với những yêu cầu và sức ép từ môi trường” [9, tr.98-99]. Theo cách tiếp cận trên, quan niệm của D. Goleman (1995) được biết đến một cách rộng rãi hơn: “Trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: tự kiềm chế, kiểm soát, nhiệt tình và năng lực tự thôi thúc mình” [9, tr.99]. Goleman nhận thức được rằng ông đang đi từ trí tuệ cảm xúc sang cái gì đó rộng lớn hơn khi cho rằng có một từ có vẻ lỗi thời cho một loạt các kỹ năng mà trí tuệ cảm xúc được xem là đại diện qua các kỹ năng này là: “tính nết”. [9, tr.106]
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2