intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Tự ý thức của sinh viên tại một số trường đại học thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:131

216
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Tự ý thức của sinh viên tại một số trường đại học thành phố Hồ Chí Minh nêu lên cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp của việc ý thức của sinh viên tại một số trường đại học thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Tự ý thức của sinh viên tại một số trường đại học thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Thị Kim Thoa TỰ Ý THỨC CỦA SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Thị Kim Thoa TỰ Ý THỨC CỦA SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : TÂM LÝ HỌC Mã số : 60 31 04 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ XUÂN HỒNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đề tài “Tự ý thức của sinh viên tại một số trường đại học Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, các nội dung trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc và các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 09 năm 2013 Người cam đoan PHẠM THỊ KIM THOA 1
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến: - Ban giám hiệu Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh - Phòng KHCN – SĐH và các phòng ban của Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh. - Quí thầy cô trong khoa Tâm Lý – Giáo Dục Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh và quí thầy cô ở các khoa đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt khóa học. - TS. Lê Xuân Hồng đã tận tâm hướng dẫn và giảng dạy tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài cho tới nay. - Và các bạn cùng khóa học, đồng nghiệp, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong học tập cũng như trong khi tôi thực hiện luận văn này. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 09 năm 2013 Người cảm ơn PHẠM THỊ KIM THOA 2
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1 LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2 MỤC LỤC .................................................................................................................... 3 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................. 5 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 6 2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .............................................................................. 7 4. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 7 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................................... 7 6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 8 7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN .............................................................................. 10 1.1.1. Ở nước ngoài ......................................................................................................... 10 1.1.2. Ở Việt Nam ........................................................................................................... 12 1.2. Lý luận về ý thức, tự ý thức ...................................................................................... 15 1.2.1. Khái niệm về ý thức .............................................................................................. 15 1.2.2. Khái niệm về tự ý thức .......................................................................................... 18 1.2.3. Sự hình thành và phát triển tự ý thức cá nhân ....................................................... 25 1.2.4. Yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tự ý thức cá nhân ................... 29 1.3. Tự ý thức của sinh viên ............................................................................................. 33 1.3.1. Đặc điểm của sinh viên ......................................................................................... 33 1.3.2. Đặc điểm tự ý thức của sinh viên .......................................................................... 43 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỰ Ý THỨC CỦA SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................... 48 2.1. Cách thức nghiên cứu ............................................................................................... 48 2.1.1. Xây dựng bảng hỏi ................................................................................................ 48 2.1.2. Các thông số chung ............................................................................................... 49 2.2. Kết quả nghiên cứu ................................................................................................... 50 2.2.1. Tự ý thức của sinh viên biểu hiện ở tự nhận thức ................................................. 50 2.2.2. Tự ý thức của sinh viên biểu hiện ở sự tự đánh giá .............................................. 56 3
  6. 2.2.3. Tự ý thức của sinh viên biểu hiện ở sự tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác của sinh viên ........................................................................................ 68 2.2.4. Kết quả nghiên cứu về tự ý thức của sinh viên nói chung .................................... 75 2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tự ý thức của sinh viên ............................................... 78 2.2.6 Tương quan giữa các mặt cảu tự ý thức, nhóm nghiên cứu ................................... 87 2.3. Một số biện pháp giúp nâng cao tự ý thức của sinh viên....................................... 88 2.3.1. Khảo sát ý kiến của sinh viên về những biện pháp được gợi ý:............................ 88 2.3.2. Một số biện pháp nâng cao tự ý thức của sinh viên .............................................. 90 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 94 1. Kết luận ......................................................................................................................... 94 2. Kiến nghị ....................................................................................................................... 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 98 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 102 4
  7. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ĐHSP Đại học Sư phạm ĐLTC Độ lệch tiêu chuẩn ĐTB Điểm trung bình F Kiểm nghiệm F với K mẫu độc lập (giải tích biến lượng) HSTC Hệ số tin cậy KHXH&NV Khoa học xã hội và nhân văn Nxb Nhà xuất bản NC Nghiên cứu P. Mức ý nghĩa r: Hệ số tương quan Pearson SV Sinh viên T Kiểm nghiệm t với hai mẫu liên hệ TB Trung bình TDTT Thể dục thể thao TĐC Tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác TĐG Tự đánh giá THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TNT Tự nhận thức TP. Thành phố TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh TYT Tự ý thức 5
  8. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, nước ta do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, tình hình thất nghiệp ngày càng tăng nhất là ở giới trẻ. Và nước ta là nước có số lượng người trẻ tuổi thất nghiệp cao. Theo điều tra của Bộ Giáo dục năm 2011 số sinh viên thất nghiệp chiếm 63% trên tổng số sinh viên vừa tốt nghiệp (trong trao đổi của GS. Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo với báo Giáo dục Việt Nam). Do đó, mỗi sinh viên nếu muốn tìm được một công việc tốt phù hợp thì cần phải tự ý thức về bản thân mình, tự điều chỉnh và điểu khiển hành vi của mình, thể hiện mình có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc và của xã hội. Tự ý thức là mức độ phát triển cao nhất của ý thức. Tự ý thức bắt đầu hình thành từ tuổi lên ba. Tự ý thức và ý thức khác nhau ở đối tượng mà nó hướng vào. Đối tượng của tự ý thức không phải là thế giới khách quan mà là chính bản thân chủ thể ấy. Tự ý thức có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người vì: Thứ nhất, tự ý thức giúp con người tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội thông qua việc mỗi người tự trả lời những câu hỏi “tôi là ai?”, “tôi có vai trò gì?”, “tôi là người như thế nào?”, “tôi có thể làm được việc gì?”, “tôi phải trở thành người như thế nào?”...; thứ hai, từ việc nhận thức về mình, mỗi người sẽ tự tỏ thái độ, tự nhận xét, tự đánh giá bản thân bằng những rung cảm khác nhau; thứ ba, mỗi người tự định hướng, tự điều khiển, tự điều khiển hành vi của bản thân theo mục đích tự giác; cuối cùng là cá nhân có thể tự rèn luyện, tự giáo dục và hoàn thiện bản thân. Ở tuổi sinh viên, nhân cách phát triển khá toàn diện và phong phú. Trong đó có tự ý thức phát triển một cách mạnh mẽ và sâu sắc. Tự ý thức của sinh viên giúp họ có hiểu biết về bản thân mình: thái độ, hành vi, cử chỉ của mình để chủ động hướng hoạt động của mình đi theo những yêu cầu đòi hỏi của tập thể, của cộng đồng xã hội. Chính phẩm chất nhân cách bậc cao này có ý nghĩa rất lớn đối với việc tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực của những trí thức tương lai… Hơn nữa sự thể hiện tự ý thức ở mỗi sinh viên khác nhau về mức độ biểu hiện tự ý thức, về vấn đề biểu hiện, về luận cứ đánh giá bản thân… Tự ý thức là một vấn đề được quan tâm nhiều của các nhà khoa học. Có thể kể ra một vài nghiên cứu như: Trần Ninh Giang, (2005): “Vấn đề ý thức và tự ý thức trong tâm lý 6
  9. học”; Đỗ Long (2005): “Vấn đề tự ý thức trong tâm lý học tộc người”; Kiều Thị Thanh Trà (2010) “Biểu hiện tự ý thức của học sinh một số trường Trung học phổ thông tại Thành phố Hồ Chí Minh”… Tuy nhiên đề tài nghiên cứu tự ý thức của sinh viên vẫn chưa có mà chỉ có một vài đề tài nghiên cứu về tự đánh giá của sinh viên [4]. Về mặt lý luận tự ý thức của sinh viên phát triển ở mức cao. Nhưng trong thực tế cuộc sống hiện nay với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự hội nhập thế giới nên sinh viên tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau thì tự ý thức của sinh viên ra sao? Tự ý thức của sinh viên biểu hiện như thế nào? Sinh viên quan tâm đến bản thân ở những đặc điểm nào? Những yếu tố nào tác động và chi phối đến tự ý thức của sinh viên? Sinh viên khẳng định bản thân mình thông qua những gì? Khả năng tự giáo dục của sinh viên ra sao?... Tất cả đều là một ẩn số đang chờ chúng ta khám phá. Do đó cần thiết phải có một đề tài nghiên cứu về tự ý thức của sinh viên hiện nay. Từ những lý do trên người nghiên cứu xin lựa chọn đề tài: “Tự ý thức của sinh viên tại một số trường Đại học Thành phố Hồ Chí Minh”. 2. Mục đích nghiên cứu Khảo sát tự ý thức của sinh viên tại một số trường Đại học Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra giải pháp giúp nâng cao tự ý thức cho sinh viên. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: tự ý thức của sinh viên - Khách thể nghiên cứu: sinh viên tại một số trường Đại học thành phố Hồ Chí Minh 4. Giả thuyết nghiên cứu Biểu hiện tự ý thức của sinh viên tại một số trường Đại học Thành Phố Hồ Chí Minh đạt mức độ khá. Sinh viên vẫn chưa đánh giá chính xác về khả năng của mình từ đó dẫn tới việc thể hiện bản thân chưa phù hợp. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tự ý thức của sinh viên trong đó yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến tự ý thức là bạn bè và các kênh truyền thông. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa một số lí luận liên quan đến tự ý thức của sinh viên. 7
  10. Khảo sát thực trạng tự ý thức của sinh viên tại một số trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đề ra biện pháp giúp nâng cao tự ý thức cho sinh viên 6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 6.1. Nội dung Đề tài chỉ tập trung khảo sát thực trạng tự ý thức của sinh viên tại một số trường Đại học Thành phố Hồ Chí Minh ở các khía cạnh: một số biểu hiện tự ý thức của sinh viên, các yếu tố tác động đến tự ý thức. Đề ra một số giải pháp giúp nâng cao tự ý thức cho sinh viên 6.2. Khách thể Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu ở 3 trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh: - Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh - Trường Đại học Khoa học Xã Hội & Nhân Văn Thành phố Hồ Chí Minh - Trường Đại học Thể Dục Thể Thao Thành phố Hồ Chí Minh Số lượng khách thể: 514 sinh viên 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp luận nghiên cứu 7.1.1. Quan điểm hệ thống cấu trúc: vận dụng quan điểm hệ thống cấu trúc vào đề tài ta sẽ tìm hiểu tự ý thức của sinh viên diễn ra trên các mặt: tự nhận thức, tự đánh giá, tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi của bản thân theo mục đích tự giác. 7.1.2. Quan điểm thực tiễn: nghiên cứu tự ý thức của sinh viên xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, có ý nghĩa thực tiễn, và giúp giải quyết được những vấn đề của thực tiễn đề ra. 7.2. Phương pháp nghiên cứu 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận - Mục đích: Thu thập những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm làm rõ các vấn đề lý luận của đề tài cần nghiên cứu. - Cách thực hiện: Tham khảo các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, sách, tạp chí chuyên ngành, các thông tin … có liên quan đến đề tài. Hệ thống hóa những tài liệu nói trên để xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu của đề tài. 7.2.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 8
  11. 7.2.2.1. Phương pháp đều tra bằng bảng hỏi Đây là phương pháp chính của đề tài này. - Mục đích: Thu thập thông tin từ sinh viên nhằm tìm hiểu về sự biểu hiện tự ý thức của sinh viên. - Cách thực hiện: Phát cho sinh viên những phiếu thăm dò ý kiền. Yêu cầu sinh viên trả lời đầy đủ không bỏ sót câu nào. 7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn - Mục đích: nhằm thu thập thêm thông tin sâu hơn về vấn đề nghiên cứu. - Cách thực hiện: đặt câu hỏi cho sinh viên trả lời thông qua các bảng hỏi phỏng vấn 7.2.2.4. Phương pháp toán thống kê - Mục đích: xử lý, phân tích, đánh giá kết quả nghiên cứu - Cách thực hiện: Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu thu được. 9
  12. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Ở nước ngoài Tâm lý là thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao với khả năng phản ánh thực tại khách quan. Ý thức là thuộc tính tâm lý chỉ có ở con người và nó giúp phân biệt người với động vật, và nó được con người sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống, mọi khía cạnh của hoạt động nhằm cải tạo thế giới phục vụ cho lợi ích của mình. Ý thức vốn là một “đề tài kinh điển”. Và những vấn đề liên quan đến ý thức hầu như chỉ được nghiên cứu nhiều trong triết học và tâm lý học. Tâm lý học duy tâm xem ý thức như một cái gì đó ở ngoài tâm lý (siêu tâm lý), khép kín một cách thần bí. Tâm lý học duy tâm, tâm lý học hành vi cổ điển do J. Watson sáng lập đã loại trừ ý thức ra khỏi đối tượng nghiên cứu của trường phái này. Mặc dù sau này các nhà tâm lý học hành vi mới như E.C.Tolman, B.F. Skinner,... đã phần nào nhận ra rằng trong nghiên cứu hành vi không thể không tính đến ý thức. Song, về bản chất những nhà tâm lý học này cũng chỉ mới tạo thêm một số yếu tố làm phức tạp thêm công thức S - R, chứ chưa tạo ra một bước tiến mới về chất, chưa xem ý thức là vấn đề mấu chốt khi nghiên cứu hành vi con người. [22] Khác với chủ nghĩa hành vi, phân tâm học do S. Freud sáng lập lại cho rằng, trong đời sống tâm lý, ý thức chỉ là một phần rất nhỏ bé so với cái bản năng, cái vô thức (thuyết tảng băng trôi). Phân tâm học đi đến khẳng định động lực của đời sống tâm lý và sự phát triển nhân cách con người nằm ở tầng sâu vô thức. Với cách tiếp cận như vậy nên các nhà phân tâm học đã tập trung nghiên cứu vô thức mà xem nhẹ các vấn đề về ý thức cũng như vai trò của nó trong đời sống con người. Đầu thế kỷ XX, cùng với sự ra đời của tâm lý học Mác - xít được xây dựng trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thì vấn đề ý thức, tự ý thức mới dần được làm sáng tỏ và nghiên cứu triệt để. Những công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học Liên Xô, đứng đầu là L.X.Vugotxki, đã chỉ ra rằng ý thức cũng như các hiện tượng tâm lý khác, là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người, chứ không phải cái gì huyền bí vốn có từ bên trong con người phát ra hay do một đấng siêu nhiên nào đó sinh ra rồi “nhập” vào con người. Thành 10
  13. tựu này đã đặt tiền đề cho hàng loạt những công trình nghiên cứu tiếp theo về ý thức và tự ý thức. Các công trình của A.N.Leonchiev, V.A.Petrovxki, B.Ph.Lomov, K.K.Platonov, V.V.Stolin, I.I.Chetxnocova,... đã làm sáng tỏ các khái niệm, cấu trúc, chức năng cũng như sự hình thành và phát triển ý thức, tự ý thức. [9], [11], [22] Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu tự ý thức khác như: - Nhà tâm lý học người Đức, A.Pfender, đầu thế kỷ XX đã xây dựng khái niệm tự ý thức từ sự phân biệt “Cái tôi” và tự ý thức. Theo ông, tất cả các hiện tượng tâm lý là cảm xúc trực tiếp đồng nhất với ý thức, nhưng ý thức không được hiểu là sự phản ánh mà như cái bên trong có sẵn. Chủ thể tâm lý hình thành khả năng tự nhận thức về bản thân mình, hình ảnh của chính mình, hình ảnh này có hạt nhân và ngoại biên. Hạt nhân gồm có cuộc sống quá khứ của con người, ý thức về những khả năng hành động khác nhau. Ngoại biên gồm những gì nằm ngoài tâm lý như: quần áo, thân thể, tài sản. Khi chính hình ảnh đó của chủ thể tâm lý trở thành đối tượng, nội dung của ý thức cụ thể, xuất hiện ý thức tâm lý đặc biệt là tự ý thức [18]. Do đó, tự ý thức trong quan niệm của A.Pfenden giống như là màn ảnh, trên đó phóng chiếu biểu tượng về bản thân của chủ thể tâm lý. - Cùng nghiên cứu về tự ý thức, GS. Philippe Rochat, thuộc khoa Tâm lý học, Đại học Emory, Mỹ, đã có công trình về “Năm mức độ tự ý thức mà trẻ bộc lộc ở những năm đầu đời” [45]. Trong đó, ông đã phân tích năm mức độ tự ý thức của trẻ gồm có: Mức 0: Sự hỗn loạn; Mức 1: Sự khác biệt; Mức 2: Sự định vị; Mức 3: Sự nhận ra; Mức 4: Sự bền vững; Mức 5: Sự tự ý thức. Thông qua các bài tập thí nghiệm trên trẻ ở các độ tuổi từ 0 đến 5 tuổi với gương soi, tác giả đã khẳng định mức độ của tự ý thức xuất hiện theo thứ tự thời gian, tương ứng với độ tuổi của trẻ. Theo sự phát triển lứa tuổi, sự tự ý thức luôn luôn biến đổi ở các đối tượng có sự trải nghiệm khác nhau cho đến khi chết đi. Do đó, khi nghiên cứu về sự tự ý thức, tác giả đã rất xem trọng yếu tố trải nghiệm mà bỏ qua các yếu tố liên quan đến đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ, với vai trò là cơ sở. Nhà tâm lý học Pháp, P. Janet, đã có bước tiến đáng kể trong sự hiểu biết bản chất của tự ý thức. Quan niệm của Janet xuất phát từ việc tự thừa nhận tâm lý con người bị chế ước bởi quá trình tác động qua lại của xã hội. Trong hoạt động tập thể và giao tiếp con người nhập tâm những phương thức hành vi, quan hệ, thái độ đối với thế giới bên ngoài của người khác. Những phương thức hành vi được nhập tâm đó sẽ thể hiện thành phương thức hành vi của con người đó. Quan điểm của P.Janet về tự ý thức, như thuộc tính cơ bản của nhân cách được hình thành trong hệ thống các mối quan hệ xã hội phức tạp. Quan điểm đó 11
  14. đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển quan niệm duy vật về bản chất của tự ý thức [18]. Các công trình nghiên cứu đã khẳng định tầm quan trọng của ý thức, tự ý thức trong đời sống tâm lý con người, cần tiếp tục được đào sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, ý thức, tự ý thức vẫn là một lĩnh vực vô cùng phức tạp, cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và chính xác hóa. 1.1.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam ý thức, tự ý thức là lĩnh vực còn ít được nghiên cứu cả về mặt lý luận và nghiên cứu thực nghiệm - ứng dụng. Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, các nhà tâm lý học Việt Nam đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu về vấn đề này. Chúng ta có thể kể đến các công trình nghiên cứu lý luận của các tác giả như Lê Khanh (Bản chất của ý thức, năm 2003), Đỗ Long (Về vấn đề tự ý thức trong tâm lý học tộc người, năm 2005), Trần Ninh Giang (Vấn đề ý thức, tự ý thức trong tâm lý học, năm 2005), Vũ Dũng (Ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc và ý thức quốc gia, năm 2009),… Các nghiên cứu đã đi sâu vào các vấn đề lý luận, phương pháp luận về bản chất, cấu trúc của ý thức, tự ý thức trong quá trình phát triển tâm lý con người. Bên cạnh đó, các vấn đề về ý thức, tự ý thức trong tâm lý tộc người, ý thức môi trường cộng đồng, ý thức quốc gia dân tộc,... cũng được tiến hành nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu thực tiễn về ý thức và tự ý thức ở nước ta hiện nay cũng bắt đầu được quan tâm. Có thể kể ra như sau: - Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thạc về tự ý thức của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi được tiến hành trên 326 trẻ tại các trường mẫu giáo ở Hà Nội năm học 1998 – 2000. Kết quả nghiên cứu cho thấy tự ý thức của trẻ 5 - 6 tuổi thể hiện cao ở tất cả các mặt; đa số trẻ có mức độ đánh giá phù hợp cao. Tự ý thức của trẻ phát triển không đồng đều ở các mặt tự ý thức và ở từng cá nhân trẻ. Đồng thời, đề tài cũng đi đến khẳng định tự ý thức của trẻ em mẫu giáo mang tính trực quan. - Nghiên cứu của tác giả Phạm Thành Nghị về tự ý thức nghề nghiệp của sinh viên năm 2010 trên 320 sinh viên năm thứ ba, thứ tư và thứ năm của 3 trường đại học kỹ thuật trên địa bàn Hà Nội (Bách khoa, Xây dựng, Thủy lợi). Kết quả cho thấy sáu thành tố tự nhận thức và tự nhận thức nghề nghiệp đã được xác định trên cơ sở quan điểm rằng tự ý thức là công cụ tự điều chỉnh của chủ thể hoạt động. Các số liệu điều tra trên sinh viên cũng 12
  15. chỉ ra sự phát triển cao hơn của tự ý thức nghề nghiệp ở những sinh viên tham gia vào hoạt động nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động nghề nghiệp trong tương lai. - Đề tài của sinh viên Kiều Thị Thanh Trà: “Biểu hiện tự ý thức của học sinh một số trường THPT tại Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2010. Nghiên cứu được thực hiện trên 465 học sinh thuộc 4 trường: Trường Trung học thực hành Đại học Sư phạm TP.HCM, Trường THPT Hùng Vương, Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, Trường THPT Lê Thánh Tôn. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số học sinh THPT ở TP.HCM hiện nay có biểu hiện tự ý thức ở mức khá, có mối liên hệ ở mức trung bình giữa biểu hiện tự ý thức thể hiện trên ba mặt. Trong đó cặp nhận thức và thái độ có tương quan mạnh nhất. Và yếu tố giáo dục gia đình và bản thân các em là hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến tự ý thức của học sinh. Mặt khác, những khía cạnh khác nhau của tự ý thức như vấn đề “cái tôi”, tự nhận thức, tự đánh giá, … đã được quan tâm nghiên cứu khá nhiều. Có thể kể đến như: - Đề tài: “Nghiên cứu sự đánh giá bản thân của sinh viên trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh” của Cao Hải An năm 2010. Tác giả tiến hành nghiên cứu trên 200 sinh viên, 20 cán bộ Đoàn thanh niên và Hội sinh viên, 20 giáo viên chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu của luận văn cho thấy sinh viên trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh có mức độ đánh giá về bản thân ở mức trung bình. Và sự đánh giá về bản thân của sinh viên trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh có mối tương quan nhất định với kết quả học tập của sinh viên ở trường. [49] - Luận văn Thạc sĩ của tác giả Ngô Thị Đẹp, 2007, “Những yếu tố tác động đến tự đánh giá của sinh viên tại Thành phố Hồ Chí Minh” trên 234 sinh viên ba trường Đại học tại TP.HCM là Đại học Sư Phạm, Đại học Kinh Tế và trường Đại học dân lập Văn Hiến. Đề tài đã kết luận là tự đánh giá của sinh viên ở mức trung bình trong đó tự đánh giá sự “quan tâm của gia đình” là cao nhất. - Đáng chú ý nhất là các đề tài nghiên cứu về “cái Tôi” với tư cách là hạt nhân của tự ý thức trong công trình “Tính cộng đồng - tính cá nhân và “cái Tôi” của con người Việt Nam hiện nay” do Đỗ Long và Phan Thị Mai Hương làm chủ nhiệm. Đề tài đã xem xét, bổ sung những quan điểm truyền thống về tính cộng đồng - tính cá nhân cũng như khái niệm “cái Tôi” của người Việt Nam từ góc độ tâm lý học. - Nghiên cứu của Đỗ Ngọc Khanh về “Tự đánh giá của học sinh Trung học cơ sở ở Hà Nội”. Đề tài được thực hiện nghiên cứu 471 em học sinh đại diện cho 5 trường THCS 13
  16. (Chu Văn An, Giảng Võ, Nguyễn Trãi, Phương Liệt và Huy Vãn) tại 4 quận nội thành Hà Nội. Công cụ nghiên cứu là thang đo tự đánh giá được sử dụng rộng rãi nhất trong thời điểm hiện tại “Perceived compentence scale for children” được Susan Harter xây dựng năm 1979. Thang đo bao gồm 5 yếu tố: khả năng học tập, cảm xúc, khả năng giao tiếp xã hội, các hành vi đạo đức và thể chất phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS ở Việt Nam. Cuối cùng tác giả đã kết luận rằng học sinh THCS ở Hà Nội có mức độ tự đánh giá tổng thể ở mức độ trung bình. Nói chung, sự tự đánh giá về học tập, đạo đức, xã hội đạt mức trung bình cao. Sự tự đánh giá về mặt thể chất ở mức trung bình, trong đó các em học sinh đánh giá sức khỏe tích cực hơn đánh giá về hình dáng của bản thân. Sự tự đánh giá về cảm xúc đạt mức trung bình thấp. Các em có sự tự đánh giá về cảm xúc tiêu cực liên quan đến khía cạnh học tập, trong khi đó cảm xúc tích cực thường liên quan đến quan hệ xã hội. - Tác giả Bùi Thị Hồng Thắm với đề tài: “Khả năng tự đánh giá các phẩm chất ý chí của học sinh THPT” năm 2010. Đề tài được nghiên cứu trên 275 học sinh của 3 trường là: THPT chuyên Trần Hưng Đạo, THPT Phan Bội Châu, THPT dân lập Lê Lợi tại TP Phan Thiết... Kết quả nghiên cứu tác giả đã khẳng định đa phần các em chưa có khả năng tự đánh giá biểu hiện ở mối tương quan thấp giữa tự đánh giá phẩm chất ý chí với nhận thức và đánh giá của các bên thứ hai. - Đề tài “Tìm hiểu sự đánh giá bản thân ở trẻ 10-15 tuổi” do Văn Thị Kim Cúc thực hiện trên khách thể là 120 trẻ (60 nam - 60 nữ) ở một số trường THCS tại Hà Nội, bằng thang do Florence Sordes - Adler, Gvvenaelle Lévêque, Nathalie Oubravrie, Claire Sa fort - Mottay. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã cho thấy ở thanh thiếu niên 10 - 15 tuổi, sự tự đánh giá bản thân bộc lộ tính tích cực ở lĩnh vực học đường thể hiện rõ khả năng đáp ứng thích hợp của các em vào hoạt động chủ đạo, vào các quan hệ trong cuộc sống học đường ở lứa tuổi này. - Công trình nghiên cứu “Tự nhận thức bản thân của học sinh lớp 4, 5 tại trường tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành phố Hồ Chí Minh.” của tác giả Lê Ngọc Bảo Trâm. Tác giả tiến hành nghiên cứu trên 100 học sinh và kết quả cho thấy tự nhận thức của học sinh lớp 4, lớp 5 về các đặc điểm hình thức bên ngoài của mình và tính cách, năng lực học tập ở mức độ trên trung bình. Như vậy, các công trình nghiên cứu về ý thức, tự ý thức ở nước ta còn khá hạn chế, đặc biệt là các công trình nghiên cứu về thực trạng. Bên cạnh các công trình nghiên cứu về từng mặt riêng biệt trong nội dung của tự ý thức, vẫn chưa có công trình nào đề cập một 14
  17. cách cụ thể đến tự ý thức của thế hệ trẻ nói chung, của sinh viên nói riêng. Vì vậy, người nghiên cứu thực hiện đề tài theo hướng tìm hiểu tự ý thức của sinh sinh viên ở TP. Hồ Chí Minh trong thời điểm hiện tại và dự định phân tích ở các thành phần tự nhận thức; tự đánh giá; tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác của tự ý thức. 1.2. Lý luận về ý thức, tự ý thức 1.2.1. Khái niệm về ý thức 1.2.1.1. Định nghĩa A.N.Leonchiev, nhà tâm lý học người Nga nổi tiếng, khi bàn về ý thức - hình thức tâm lý cơ bản đặc trưng của con người, đã khẳng định tâm lý học con người nhất thiết phải là khoa học cụ thể về ý thức, vấn đề ý thức của con người phải là một bộ phận của đối tượng của tâm lý học. Ông tuyên bố: “Tâm lý học mà không có lý luận về ý thức thì còn tệ hơn cả chính trị kinh tế học không có học thuyết về giá trị thặng dư”. Có nhiều quan điểm về ý thức dưới các góc độ khác nhau: Theo nghĩa thông thường, ý thức dùng để chỉ những thái độ hay ứng xử của con người mà họ nhận biết được tính chất hợp lý, đúng đắn dựa trên sự tuân thủ những quy định của pháp luật hay chuẩn mực, yêu cầu của các nhóm xã hội, cộng đồng. Ý thức theo nghĩa này là có hiểu biết, tự giác và hành động phù hợp.[13] Theo quan điểm Triết học duy vật biện chứng, ý thức về mặt bản chất, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. [23] Theo Từ điển Tiếng Việt, ý thức được hiểu theo 3 nghĩa sau đây: - Khả năng của con người tái hiện hiện thực vào trong tư duy. - Sự nhận thức trực tiếp, tức thời về hoạt động tâm lý của bản thân sự hiểu biết trực tiếp những việc bản thân mình làm. - Sự nhận thức đúng đắn, biểu hiện bằng thái độ, hành động cần phải có. Từ điển Giáo dục học định nghĩa ý thức là: - Khả năng của con người phản ánh và tái hiện thực tiễn khách quan vào trong tư duy. Đây là hình thức phản ánh cao nhất của sự phản ánh tâm lý đặc trưng cho con người xã hội phát triển và có quan hệ trực tiếp với ngôn ngữ. - Sự nhận thức trực tiếp, tức thời của mỗi người về thế giới xung quanh, về những suy nghĩ, thái độ, hành động của mình đối với những sự vật bên ngoài và với bản thân. 15
  18. Trong tâm lý học ý thức là vấn đề cơ bản, quyết định của khoa học tâm lý. Do đó mà ý thức là một lĩnh vực nghiên cứu thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà Tâm lý học như: - Theo quan điểm của phân tâm học, ý thức là một trạng thái tỉnh thức với chức năng quan sát, ghi nhận, cảm nhận, nhận định đối với các sự vật bên ngoài cái tôi và đối với các suy tư, cảm xúc và hình ảnh bên trong cái tôi. Ý thức như thế có thể gọi là một quang năng nhận định và là một quang năng định hướng với bốn chức năng: chức năng cảm nhận, suy tư, đánh giá và trực kiến. Thể hiện các chức năng nói trên, ý thức phải liên hệ với cái Tôi như chủ thể, như động lực, như đầu não, như trung tâm. [21] Cũng theo quan điểm này, S. Freud đã đề cập đến ý thức trong quan hệ giữa hệ thống vô thức - ý thức trong đời sống tinh thần của con người. Ông đưa ra nhân tố “Cái tôi” được ví như là cán cân giữa “cái ấy” và “cái siêu tôi”, nó luôn cố gắng xử lý sự bướng bỉnh và nôn nóng của “cái ấy”, đối chiếu hành động của mình với hiện thực, giảm căng thẳng tâm lý và đồng thời đáp ứng với khát vọng thường xuyên vươn tới sự hoàn thiện của “cái siêu tôi”. Từ việc phân tích các nhân tố trong hệ thông cấu trúc trong bộ máy tâm thần, Freud ví ý thức như một cái máy chiếu quét sáng trên sân khấu, những gì nằm ngoài vùng sáng nhưng vẫn trong tầm chiếu của nó sẽ trở thành tiềm ý thức, và “cái tôi” có trách nhiệm điều khiển máy chiếu này.[27] - Theo V.N.Miaxisep nghiên cứu về thái độ, coi ý thức là sự thống nhất của phản ánh thực tại và thái độ tích cực, có mục đích của con người đối với hiện thực khách quan. - Theo E.V.Sorokhova, “Ý thức được đặc trưng bởi thái độ tích cực của con người đối với thực tại, với bản thân, với cử chỉ và hành vi, hoạt động của mình - hướng vào đạt mục đích đặt ra. Ý thức là năng lực (khả năng của con người) hiểu thế giới xung quanh, các quá trình diễn ra trong đó, các tư tưởng, hành động và thái độ của mình đối với thế giới cũng như với chính bản thân mình”. - Theo K.K.Platonov cho rằng, ý thức là sự thống nhất của mọi hình thức nhận thức, trải nghiệm của con người và thái độ của họ đối với cái mà họ phản ánh - là sự thống nhất của tất cả các quá trình, trạng thái, thuộc tính tâm lý của con người như là một nhân cách. - Theo X. L.Rubinstein, coi ý thức - đó không chỉ là sự phản ánh, mà còn là thái độ của con người đối với xung quanh. Ý thức là sự thống nhất giữa tri thức và trải nghiệm. [9] - Còn A.N.Leonchiev, nhà tâm lý học người Nga nổi tiếng cho rằng ý thức trực tiếp là bức tranh về thế giới bày ra trước chủ thể, hành động và trạng thái của chủ thể. Đối với người không thông thạo thì sự tồn tại của bức tranh chủ quan ấy ở chủ thể, dĩ nhiên, không đặt ra một vấn đề lý luận nào cả: trước mắt chủ thể là thế giới, chứ không phải thế giới là 16
  19. bức tranh về thế giới. [10] - Cùng quan điểm trên, tác giả Nguyễn Văn Đồng trong “Tâm lý học phát triển”, đã đưa ra khái niệm về ý thức dưới dạng ý thức xã hội là: nhận thức của cá nhân về suy nghĩ, động cơ, tình cảm và ứng xử của bản thân và của người khác. [6]. - Theo Phạm Minh Hạc thì ở một con người, ý thức là năng lực hiểu biết được các tri thức về thực tại khách quan nói riêng mà người đó tiếp thu được và năng lực hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân người đó. Từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên định nghĩa ý thức là “mức độ cao của sự phản ánh tâm lý, của khả năng tự điều chỉnh và chỉ có ở người như một sinh vật xã hội – lịch sử” Tóm lại, các tác giả đã đưa ra các quan điểm khác nhau về ý thức, song có thể hiểu ý thức: + Là năng lực hiểu được các tri thức về thế giới khách quan và năng lực hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân mình. + Là sự thống nhất của tất cả các quá trình, trạng thái và thuộc tính tâm lý của con người với tư cách là một nhân cách. + Là sự thống nhất của tất cả các hình thức nhận thức và trải nghiệm của con người cùng thái độ của người đó đối với cái được phản ánh. + Là sự tích lũy và sử dụng thông tin về xung quanh và về chính bản thân mình để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. [9] Trong phạm vi đề tài người nghiên cứu đồng ý với cách hiểu “Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng con người mới có, phản ánh bằng ngôn ngữ, là khả năng con người hiểu được những tri thức mà con người đã tiếp thu được (là tri thức về tri thức, phản ánh của phản ánh)”.[41] 1.2.1.2. Thuộc tính của ý thức Ý thức có các thuộc tính cơ bản sau: a. Ý thức thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người về thế giới. Đó là nhận thức các bản chất, nhận thức khái quát bằng ngôn ngữ. Và còn dự kiến trước kế hoạch hành vi, kết quả của nó, làm cho hành vi mang tính có chủ định. b. Ý thức thể hiện thái độ của con người đối với thế giới. Ý thức không chỉ nhận thức sâu sắc về thế giới mà còn thể hiện thái độ đối với nó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Ý thức tồn tại đối với tôi là tồn tại một thái độ nào đó đối với sự vật này hay sự vật khác, động 17
  20. vật không biết “tỏ thái độ” đối với sự vật nào cả…”. c. Ý thức thể hiện năng lực điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người. Trên cơ sở nhận thức bản chất khái quát và tỏ rõ thái độ với thế giới. Ý thức điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người đạt tới mục đích đã đề ra. Vì thế ý thức có khả năng sáng tạo. V.I.Lênin nói: “Ý thức của con người không chỉ phản ánh hiện thực khách quan mà còn sáng tạo nó”. d. Khả năng tự ý thức: con người không chỉ ý thức về thế giới mà còn, ở mức độ cao hơn, có khả năng tự ý thức, có nghĩa là khả năng tự nhận thức về mình, tự xác định thái độ đối với bản thân, tự điều khiển, điều chỉnh, tự hoàn thiện mình. Như vậy, ý thức là chức năng cao nhất của tâm lý. Ý thức tiếp nhận những thông tin trong môi trường và thông tin về bản thân, chọn lọc và biểu thị những rung cảm tương ứng, từ đó vạch ra kế hoạch hành động thích hợp và hiệu quả. Với những đặc điểm này, ý thức được coi là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi cao nhất của con người với thế giới – Khả năng tự ý thức. 1.2.2. Khái niệm về tự ý thức 1.2.2.1. Định nghĩa tự ý thức Trên phương diện Triết học duy vật biện chứng tự ý thức được xem xét ở việc con người tự tách mình ra khỏi thế giới khách quan, ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài, tự nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội, nhận thức các cử chỉ, hành động, tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng lợi ích của mình. Với vai trò là một hiện tượng tâm lý cá nhân, tự ý thức xuất hiện đồng thời với ý thức, là cái phát sinh của ý thức nhưng thể hiện ở một giai đoạn phát triển cao hơn, giúp con người nhận rõ bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Về mặt thuật ngữ: - Từ điển tiếng Anh của Oxford University định nghĩa tự ý thức (self-consciousness) là “ý thức về sự tồn tại những suy nghĩ và hành vi của mình”. - Trong tự điển của Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô, tự ý thức được định nghĩa là “sự hiểu biết đầy đủ về bản thân mình, về giá trị và vai trò của bản thân, trong cuộc sống, trong xã hội”. - Theo Từ điển Bách khoa toàn thư của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2