intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ nhìn từ quan điểm giới

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:116

36
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

luận văn nghiên cứu hình ảnh nam nhi trong sáng tác Nguyễn Công Trứ từ góc độ xem xét quan điểm của ông về trách nhiệm của người nam nhi, cách nhìn nhận người phụ nữ và lí giải dưới góc độ giới của họ. Qua đó tác giả mong muốn sẽ làm nổi bật lên sự chi phối của quan điểm giới trong nghiên cứu hình ảnh nam nhi nói chung của văn học trung đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ nhìn từ quan điểm giới

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN THỊ THU HIỀN HÌNH ẢNH NAM NHI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội- 2013
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN THỊ THU HIỀN HÌNH ẢNH NAM NHI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH : Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Nho Thìn Hà Nội - 2013 1
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3 1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................. 3 2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 4 3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .............................................................................. 5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 12 5. Phương pháp nghiên cứu . ........................................................................... 13 6. Bố cục của luận văn...................................................................................... 14 NỘI DUNG .......................................................................................................... 16 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU HÌNH ẢNH NAM NHI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ. ................................................................................................................. 16 1.1 Khái niệm về giới ( Gender)..................................................................... 16 1.2 Quan niệm nam giới trong văn học nhà nho .......................................... 22 1.3 Thân thế và thời đại Nguyễn Công Trứ .................................................. 35 1.4 Tiểu kết chương 1 .................................................................................... 41 CHƢƠNG 2: HÌNH ẢNH NAM NHI TRONG .............................................. 42 SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ ..................................................... 42 2.1 Quan niệm chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ ...................................... 42 2.2 Ý thức về vai trò, giá trị của con người cá nhân ..................................... 62 2.3 Tiểu kết chương 2 .................................................................................... 69 CHƢƠNG 3: SO SÁNH HÌNH ẢNH NAM NHI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ VỚI SÁNG TÁC CỦA NHÀ NHO CHÍNH THỐNG .......................................................................................................................... 71 3.1 Điểm giống nhau trong cách nhìn nhận người nam giới của Nguyễn Công Trứ so với các nhà nho chính thống. ................................................... 71 3.2 Sự khác biệt trong cách nhìn nhận người nam giới của Nguyễn Công Trứ so với các nhà nho chính thống. ............................................................ 96 3.3 Tiểu kết chương 3 .................................................................................. 109 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 112 2
  4. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Người nam nhi có một vai trò hết sức quan trọng trong xã hội nói chung và trong văn học nói riêng. Chính vì thế mà nghiên cứu về nam giới trở thành một đề tài khá phổ biến trong nghiên cứu văn học thời gian gần đây. Tuy rằng, xét về mặt số lượng thì hai giới đều chiếm một nửa dân số của toàn nhân loại, nhưng về mặt vị thế xã hội thì tương quan giữa người phụ nữ với người đàn ông trong lịch sử văn hóa và văn học lại không phải khi nào cũng bình đẳng với nhau. Như chúng ta đã biết trong suốt một thời gian dài của xã hội nam quyền phương Đông nói chung và xã hội nam quyền Việt Nam nói riêng, người đàn ông luôn giữ vai trò thống trị xã hội và có cách nhìn khắc kỉ với đức hạnh của người phụ nữ. Người đàn ông có trách nhiệm giữ vững kỷ cương phép nước, mang trong mình sứ mệnh cao cả là giáo hóa đạo đức cho nhân dân. Trong nền văn học nước nhà, nhân vật mà hầu hết các sáng tác văn chương đề cập đến là người nam giới - các đấng chính nhân quân tử; còn người phụ nữ rất ít được nhắc đến, hoặc có đề cập thì bị áp đặt dưới cách nhìn khắc nghiệt của xã hội nam quyền – coi sắc đẹp của người phụ nữ là nguồn gốc của cám dỗ, có thể đe dọa đến sự nghiệp của nam tử hán, đe dọa lí tưởng “tu, tề, trị, bình” của đấng trượng phu. Gần đây nhất đã có một số các công trình nghiên cứu về xã hội nam quyền cùng với sự ảnh hưởng của quan điểm giới đến hình ảnh nam nhi trong nghiên cứu văn học. Chính vì thế, để có một cách nhìn khái quát và sâu sắc nhất về quan điểm giới trong nghiên cứu văn học nói chung và trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ nói riêng, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ nhìn từ quan điểm giới”. 3
  5. Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy một sự thật không thể phủ nhận rằng chủ thể sáng tác và nhân vật xuất hiện trong các sáng tác văn chương chủ yếu là nam giới. Sẽ không quá lời khi nhiều nhà nghiên cứu nhận định phần lớn văn học trung đại Việt Nam là nền văn học của nam giới. Từ những tác giả văn học viết đầu tiên thuộc giới tăng lữ, quý tộc như Đỗ Pháp Thuận với Quốc tộ hay Trần Quang Khải với Tụng giá hoàn kinh sư cho tới những nhà nho cuối cùng Trần Tế Xương và Tản Đà hầu hết đều là những thành viên của “giới tính thứ nhất”. Nổi bật lên trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Công Trứ được xem là một trong những nhà nho tài tử với bản tính phóng túng mạnh mẽ, có triết lý sống ngoài khuôn khổ nhưng lại bị gò mình trong tư tưởng Nho giáo và cúi mình phục vụ triều đình phong kiến. Có thể nói, trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Công Trứ, mảng thơ Nôm, hát nói viết về “chí nam nhi” chiếm một vị trí quan trọng và đầy ý nghĩa. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Công Trứ nhưng hầu hết chỉ khám phá về mặt tư tưởng, phong cách nghệ thuật chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu hình tượng nam nhi trong thơ ông trên cơ sở quan điểm về giới. Đề tài luận văn: “Hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ nhìn từ quan điểm giới” sẽ góp thêm một phần công sức nhỏ bé trong nghiên cứu “giới tính thứ nhất” của xã hội nam quyền. 2. Mục đích nghiên cứu. Như chúng tôi đã khẳng định rõ lí do chọn đề tài ở mục trên, luận văn nghiên cứu hình ảnh nam nhi trong sáng tác Nguyễn Công Trứ từ góc độ xem xét quan điểm của ông về trách nhiệm của người nam nhi, cách nhìn nhận người phụ nữ và lí giải dưới góc độ giới của họ. Qua đó chúng tôi mong muốn 4
  6. sẽ làm nổi bật lên sự chi phối của quan điểm giới trong nghiên cứu hình ảnh nam nhi nói chung của văn học trung đại. Luận văn cũng làm sáng tỏ những hạn chế trong cách nhìn nhận về trinh tiết, phẩm hạnh của người phụ nữ theo quan điểm của xã hội nam quyền. Nghiên cứu và tìm hiểu hình tượng người nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ nhìn từ quan điểm giới trên cơ sở tiếp thu những ý kiến, những công trình nghiên cứu, những phát hiện tương đối mới mẻ của các nhà nghiên cứu trước đây, chúng tôi mong muốn đem đến một cái nhìn mới, cụ thể và sâu sắc hơn về vấn đề này. Đồng thời, nghiên cứu này của chúng tôi cũng góp phần hữu ích vào công việc phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu sau này. 3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. Nắm vững được lịch sử vấn đề đang nghiên cứu để tìm ra một hướng đi mới cho riêng mình là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết khi thực hiện đề tài luận văn: “Hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ nhìn từ quan điểm giới”. Đặc biệt trong thời gian gần đây, nghiên cứu thơ văn của Nguyễn Công Trứ qua các giai đoạn ngày càng có bước phát triển cả về số lượng, chất lượng và trở nên bộn bề theo thời gian. Qua nghiên cứu, tìm hiểu chúng tôi nhận thấy, nghiên cứu về nam nhi trong sáng tác của ông cũng là một vấn đề có bề dày lịch sử. Trong khuôn khổ của một đề tài luận văn, chúng tôi chỉ đề cập đến những công trình tiêu biểu có liên quan đến vấn đề mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu. Từ trước tới nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp thơ văn tác giả Nguyễn Công Trứ với quy mô lớn như: Trương Tửu, Trần Nho Thìn, Nguyễn Lộc, Vũ Ngọc Khánh…Phải nói rằng việc đánh giá 5
  7. về con người và thơ văn của Nguyễn Công Trứ còn có chỗ chưa thỏa đáng, cách nhìn nhận của các nhà nghiên cứu có lúc lên thác, xuống ghềnh, khen nhiều và chê cũng không ít. Chúng tôi đã tìm thấy một số công trình nghiên cứu về người nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ như: Sáng tác của Nguyễn Công Trứ (Phạm Thế Ngũ), Thơ văn Nguyễn Công Trứ (Nguyễn Lộc), Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Công Trứ (Trương Chính), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX ( Nguyễn Lộc), Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát ( Hồ Sỹ Hiệp, Lâm Quế Phong), Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử…Và ở một số các công trình nghiên cứu của các tác giả khác. Một nhà nghiên cứu thuộc thế hệ trí thức mới đã nghiên cứu Nguyễn Công Trứ theo một cách mới là Nguyễn Bách Khoa. Ông đã có một phát hiện khá lí thú khi đứng trên lập trường duy vật biện chứng, trên quan điểm giai cấp để phân tích tư tưởng và thơ văn Nguyễn Công trứ. Nguyễn Bách Khoa đã nhận ra cái điều mà sau này người ta gọi là “người anh hùng thời loạn”, thời loạn đã hun đúc nên những anh hùng điển hình như Cống Chỉnh, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh: Cống Chỉnh, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh đã đem thân thế và sự nghiệp mình làm chói lọi cái hình ảnh “nam nhi” giữa một thời loạn của đất nước. Họ đã trực tiếp đào tạo cho kẻ đương thời lòng sùng bái anh hùng và chí làm trượng phu hiển hách. Trạng thái ý thức này chính là căn nguyên lớn của cái “chí nam nhi” mà Nguyễn Công Trứ đã từng ôm ấp. [23; tr.229 -230]. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, có nhà nghiên cứu cũng đã để ý đến ảnh hưởng của những anh hùng thời loạn đến tâm lí trượng phu của Nguyễn Công Trứ: Tấm gương của Đặng Trần Thường, Võ Tánh, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành đi theo Nguyễn Ánh mà phất cờ lập công cũng không thể 6
  8. không tác động mạnh mẽ đến cá tính ưa hoạt động, thích công danh của Nguyễn Công Trứ. Năm 1978, Tác giả Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVII- nửa đầu thế kỉ XIX (tập 2) đã nhận định: Xét trong toàn bộ cuộc đời và thơ văn Nguyễn Công Trứ, phải thấy quan niệm công danh của nhà thơ trước hết có nghĩa là nhiệm vụ của người làm trai, là một món “nợ nần” phải trả. Nguyễn Công Trứ không có quan niệm nào khác là con người sống trong xã hội phải chiếm lấy một địa vị để trên cơ sở đó làm việc “trí quân, trạch dân” [24, tr.498-499]. Nguyễn Lộc cũng khẳng định: Cái ưu điểm trong quan niệm chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ là nó khẳng định một cách dứt khoát vai trò tích cực của con người trong xã hội…Nhưng mặt khác cũng cần vạch ra rằng “chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ không có tí liên hệ nào với quần chúng, nó coi thường quần chúng, thậm chí còn đi ngược lại với quyền lợi của quần chúng. [24, tr.504]. Và một chân lí nữa được nhà nghiên cứu khẳng định: Nguyễn Công Trứ làm việc tận tuỵ suốt đời. Trước đây nhiều lúc người ta thiên lệch khi nói đến nhân cách của Nguyễn Công Trứ. Họ chỉ thấy ở ông một con người phóng túng, ngông nghênh, về già còn lấy vợ trẻ mười tám, đôi mươi mà quên mất Nguyễn Công Trứ là một ông quan rất thanh liêm, chính trực.[24, tr.501]. Ông tán dương những bài thơ viết về chí nam nhi và nhận xét khá tinh tế rằng trong quan niệm về “chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ không chỉ có ý thức về bổn phận đối với “quân, thân” mà còn ý thức về vai trò giá trị của con người cá nhân. Tuy nhiên, khi chuyển sang phần thơ văn hành lạc thì Nguyễn Lộc lại có một cái nhìn thiên lệch và đánh giá chưa thoả đáng khi cho rằng: Quá trình diễn biến tư tưởng của Nguyễn Công Trứ từ quan niệm chí nam nhi đến triết lí hành lạc là quá trình sụp đổ hoàn toàn của lí tưởng xã hội của nhà thơ này. [24; tr.504]. 7
  9. Năm 1996, bài tiểu luận nghiên cứu về con người cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Công Trứ trong cuốn Nguyễn Công Trứ thơ và đời của tác giả Chu Trọng Huyến đã phát hiện ra: ông luôn lạc quan vì ông tin tưởng rằng mình có tài, rằng mình là “tú khí giang sơn chung đúc lại. [17, tr.67], ở đây ta thấy sự xuất hiện của cái tôi tự khẳng định mình, có lẽ đây là hình mẫu của nhà nho tài tử thời bấy giờ, họ tự hào mình là một người có tài năng. Đồng thời, Nguyễn Công Trứ cũng công khai thú hành lạc của mình, cũng như của các nhà nho cùng thời. Bài nghiên cứu của các tác giả Hồ Sỹ Hiệp, Lâm Quế Phong in trong cuốn Nguyễn Công Trứ - Cao Bá Quát viết: Những sáng tác của ông trong giai đoạn đầu phản ánh tâm trạng của họ. Ông đặc biệt ca ngợi con người hành động, con người trung hiếu, đề cao chí nam nhi, đề cao vai trò của kẻ sĩ theo tinh thần Nho giáo, đã kích Phật giáo và tràn trề tinh thần lạc quan tin tưởng [16, tr.19]. Đây là giai đoạn mà Nguyễn Công Trứ hăm hở, cái hăm hở của một nhà nho sau khi đỗ đạt ra phụng sự giúp vua cai trị đất nước. Nhưng càng về sau, do nhận ra bản chất của cái xã hội đen tối, bất công, nhận ra xã hội mà ông tôn thờ vốn không tốt đẹp như ông hằng nghĩ, nên tinh thần lạc quan càng giảm sút, tác giả cũng thừa nhận trong Nguyễn Công Trứ là con người hành động nhưng cũng là con người hành lạc. [16, tr.40]. Với bài viết của tác giả Lê Thước về Sự nghiệp và thơ văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, tuy ở bài viết này tác giả chưa có sự phát hiện mới về tư tưởng con người Nguyễn Công Trứ, nhưng đây là công trình biên khảo có ý nghĩa nền tảng làm tư liệu khi nghiên cứu. Lê Thước phân chia các giai đoạn trong cuộc đời và đánh giá nhà thơ theo tiêu chí lập công, lập đức và lập ngôn. 8
  10. Nguyễn Khắc Hoạch với bài viết Lý tưởng kẻ sĩ trong thi văn và ngoài cuộc đời Nguyễn Công Trứ. Bài viết không đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng của tác giả mà tìm hiểu quá trình trưởng thành cho đến cuối cuộc đời của nhà thơ. Mỗi giai đoạn như vậy có một lý tưởng, một cách sống riêng. Thời xuất chính ông tích cực hành đạo, thời ẩn dật ông lui vào hậu trường hưởng cuộc đời nhàn lạc của người đã làm tròn nhiệm vụ. Quan trọng hơn là tác giả Phạm Thế Ngũ nhìn từ khuynh hướng thời đại đi đến quan niệm sống của tác giả đã có cái nhìn tương đối toàn diện và sâu sắc, trong bài viết Sáng tác của Nguyễn Công Trứ cũng đề cập đến phương diện biểu hiện của con người như: chí nam nhi, quan niệm công danh, quan niệm hưởng lạc, triết lý nhân sinh. Đặc biệt tác giả còn thấy được điểm tương đồng và khác biệt giữa Nguyễn Công Trứ và một số nhà nho khác như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng…Phạm Vĩnh Cư khi bàn về Thơ hành lạc của Nguyễn Công Trứ với dòng thơ an lạc, xem đó là mảng sáng tác rất đặc sắc lâu nay vẫn được coi là thơ văn cầu nhàn hưởng lạc hay là thơ văn hành lạc chiếm một vị trí đáng kể. Tác giả khẳng định: Nhu cầu hưởng thụ của con người, nâng nó lên thành một triết lý có sức thu phục nhân tâm thì không mấy ai làm được như Nguyễn Công Trứ. Ở Nguyễn Công Trứ hành lạc lẫn hành đạo, cả sự hưởng thú vui lẫn việc thực hiện sứ mệnh của người anh hùng trên đời đều khát khao sự chơi, cuộc chơi. Tác giả cũng khẳng định rằng: Bậc trượng phu ấy vì vậy vừa khao khát công danh, vừa vô cầu yên sở ngộ, vừa hăng say nhập cuộc, vừa biết thanh thản xuất thế, vừa biết hành vừa biết tàng, coi hành tàng thực chất không khác gì nhau (“hành tàng bất nhị kì quan”) [5, tr.443]. Nguyễn Công Trứ luôn thể hiện cái khí phách cứng cỏi, bản lĩnh cao cường của mình trong thơ. Thơ ông vừa diễu cợt người đời, vừa diễu cợt bản thân mình. Trương Tửu cũng giải thích nguyên nhân của hoạt động xã hội của Nguyễn Công Trứ bằng tinh thần chống bọn “phú hộ” này. Hành lạc chỉ là 9
  11. cách chống tiêu cực, chính nhập thế mới là cách chiến đấu chống phú hộ tích cực. “Phú hộ ra làm quan là để kiếm lợi và đè nén. Còn nho sĩ (Nguyễn Công Trứ) ra làm quan là để thực hiện một lí tưởng, thỏa mãn một chí khí. Từ đây dẫn đến chí nam nhi”[18, tr.524]. Đó là nguồn gốc của hai hành vi tưởng như mâu thuẫn là hành đạo và hành lạc. Từ đó, Trương Tửu khái quát về kiểu nhân cách Nguyễn Công Trứ: Tính chất ấy là một tính chất hiếu thắng vậy. Người có tính chất ấy là người nuôi một quan niệm cực đoan về nhân sinh: không sống thì thôi đã sống phải “có danh với non sông”, không thi thì thôi đã thi thì phải “miếng khoa giáp ăn xanh phường sĩ tử”, không lập sự nghiệp thì thôi, đã lập thì phải “ba vạn anh hùng đè xuống dưới”. Đó là một người lúc nào cũng muốn làm hơn người, làm khác người, làm những cái lạ mà thiên hạ không ai làm được” [18; tr.534]. Trương Tửu cũng khẳng định quan niệm về chí nam nhi luôn được nhắc lại nhiều lần dưới ngòi bút của Nguyễn Công Trứ: Có cái quan niệm nào được nhắc đi nhắc lại luôn luôn dưới ngòi bút thi ca của Nguyễn Công Trứ lúc thanh niên, đó phải là quan niệm “chí nam nhi”. Trong đầu ông, chí nam nhi là một quan niệm mơ hồ về sự nghiệp cá nhân của kẻ làm trai, gồm đủ cả: chí anh hùng, nợ tang bồng hổ thỉ, khí tiết trượng phu, mộng công hầu khanh tướng và lòng tham muốn lưu danh thiên cổ. [18; tr.618]. Và nhà nghiên cứu cũng đã lí giải phần nào những yếu tố cấu tạo ra quan niệm đó ở Nguyễn Công Trứ là do: sự hun đúc của thời loạn lạc, tâm lí tự cao tự đại của quý tộc và khí thế trung hưng của sĩ phiệt. Nguyễn Đình Chú lại có một cách nghiên cứu riêng về Nguyên Công Trứ và cho rằng là con người – cá thể Nguyễn Công Trứ đã tự ý thức về mình: đã sống là phải ra sống “lí tưởng đó là chí làm trai, là chí và nợ tang bồng” [4; tr.28]. 10
  12. Trong bài viết Nguyễn Công Trứ và thời đại chúng ta, PGS.TS Trần Nho Thìn đã đề cập tới yếu tố hành lạc, triết lý cầu nhàn hưởng lạc biểu hiện rất rõ trong thơ Nguyễn Công Trứ và khẳng định chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ là sản phẩm của xã hội nam quyền. Trần Ngọc Vương cắt nghĩa chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ như là tia hồi quang - sự tiếp biến - của “người anh hùng thời loạn” trong hoàn cảnh chế độ chuyên chế nhà Nguyễn. Năm 2007, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na cho rằng: Tiếng nói chí nam nhi là chủ đề lớn nhất tập trung xuất hiện trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ thuở hàn vi và thời làm quan đắc chí. [28, tr.236]. Đồng thời, các tác giả cũng khẳng định công lao to lớn của ông: Nguyễn Công Trứ đã mang vào khái niệm chí nam nhi của Nho gia cái ý thức cá nhân về sự tự do phóng túng trong lối sống tạo nên nét riêng độc đáo và mang đến một màu sắc mới cho thời đại. Nguyễn Công Trứ nhất quán giữa con người trong mối quan hệ với cộng đồng và con người trong mối quan hệ với bản thân; giữa ý thức về trách nhiệm và ý thức về quyền lợi, giữa hành động và hưởng thụ. [28, tr.239]. Có thể khẳng định: các công trình và bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình đã đem lại một giá trị to lớn khi đánh giá, nhận xét thơ văn về chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Tuy mỗi người có một cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau nhưng tựu chung đều thấy được vẻ đẹp trong con người cũng như giá trị tư tưởng trong thơ văn của ông. Ngoài ra còn có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu khác như của: Chương Thâu, Vũ Ngọc Khánh, Kiêm Đạt, Nguyễn Minh, Nguyễn Tài Thư, Trần Mạnh Hảo, Trần Thị Băng Thanh.... 11
  13. Cho đến nay, công việc nghiên cứu về tác giả và tác phẩm Nguyễn Công Trứ vẫn tiếp tục phát triển nhưng còn nhiều khoảng trống. Chúng tôi nhận thấy rằng các công trình nghiên cứu đã có về sáng tác của Nguyễn Công Trứ chưa đặt vấn đề nghiên cứu hình ảnh nam nhi từ góc nhìn giới tính của họ. Đây không phải do hạn chế, yếu kém của các nhà nghiên cứu mà do trường quan sát của họ không bao hàm hoặc ít bao hàm vấn đề giới. Nghiên cứu “Hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ nhìn từ quan điểm giới” trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các tác giả đi trước, cùng với kiến thức và sự tìm tòi, nghiên cứu; chúng tôi tìm hiểu, khám phá cụ thể hơn nữa về hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ, góp phần hữu ích trên con đường nghiên cứu tác giả, tác phẩm thơ văn ông. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu. Luận văn của chúng tôi sẽ tìm hiểu về hình tượng người nam giới trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có sử dụng các công trình nghiên cứu về người nam nhi trong quan điểm của Nho giáo và một số bài thơ của một số tác giả khác như Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão, Phan Bội Châu, Nguyễn Du… Chúng tôi còn sử dụng một số tài liệu nghiên cứu về giới có liên quan đến đề tài. Từ đó, chúng tôi so sánh, đối chiếu để làm sáng rõ hơn điểm giống và khác trong cách nhìn nhận người nam nhi của Nguyễn Công Trứ với các sáng tác của nhà nho chính thống. Trong luận văn này chúng tôi đề xuất vận dụng cách tiếp cận nghiên cứu giới từ các góc độ như: quan niệm về giới tính nam trong văn học trung đại; cách nhìn hạn hẹp với người phụ nữ - coi người phụ nữ là sự khơi gợi ham muốn và hoàn toàn phụ thuộc vào người đàn ông…để so sánh một cách toàn diện sự ảnh hưởng của các quan điểm giới tới cách nhìn nhận, đánh giá vai trò, trách nhiệm người nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ. 12
  14. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu . Để hoàn thành tốt luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau : - Phương pháp khảo sát - thống kê. - Phương pháp tiếp cận văn hóa học. - Phương pháp phân tích - tổng hợp. - Phương pháp so sánh - đối chiếu. 5.1 Phương pháp khảo sát – thống kê. Mục tiêu của phương pháp này là chúng tôi khảo sát lại toàn bộ thông tin về hình ảnh nam nhi được Nguyễn Công Trứ nhắc đến trong các sáng tác của ông, tìm hiểu sâu sắc hơn trách nhiệm của một nam tử hán trong xã hội nam quyền và từ đó có cơ sở để so sánh với các sáng tác của nhà nho chính thống viết về người nam nhi. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê để xử lí thông tin các tư liệu văn học tìm được trong quá trình nghiên cứu, phục vụ cho công tác nghiên cứu luận văn. 5.2 Phương pháp tiếp cận văn hóa học. Xã hội thời trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, xét trên quan điểm giới là xã hội nam quyền; một kiểu xã hội trong đó trách nhiệm của nam nhi là phải gánh vác giang sơn, tu dưỡng đạo đức để trở thành những bậc thánh nhân, quân tử; các chuẩn mực đạo đức của người phụ nữ do người đàn ông áp đặt, người nam giới có quyền chủ động hơn người phụ nữ trong cuộc sống. Quan điểm nam quyền đã ăn sâu vào trong tư tưởng của các nhà Nho và chi phối đến cách xây dựng hình ảnh nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Chính vì vậy, chúng tôi sử dụng phương pháp văn hóa học, đặc biệt là 13
  15. dựa trên quan điểm giới nhằm mục đích giải mã hình tượng nam nhi, tìm ra nền tảng văn hóa của hình tượng này trong nền văn hóa phương Đông. 5.3 Phương pháp phân tích tổng hợp. Chúng tôi nghiên cứu các quan điểm có giá trị về hình ảnh nam nhi của nhà Nho nói chung và của Nguyễn Công Trứ nói riêng dưới góc độ nghiên cứu giới để từ đó rút ra các luận điểm, luận cứ có giá trị phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu. Đồng thời từ những luận điểm, luận cứ đã rút ra đó, chúng tôi tổng hợp lại để so sánh, lí giải vấn đề đang nghiên cứu. 5.4 Phương pháp so sánh - đối chiếu. Để thấy được những nét chung và nét riêng trong cách xây dựng hình ảnh nam nhi của Nguyễn Công Trứ so với sáng tác của nhà nho chính thống, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh – đối chiếu. Chúng tôi dự kiến sẽ so sánh hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ với các sáng tác trước, cùng thời và sau Nguyễn Công Trứ. Chúng tôi lựa chọn những tư liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu trong luận văn để tìm ra những mặt tiến bộ cũng như hạn chế trong tư tưởng của ông. 6. Bố cục của luận văn. Luận văn của chúng tôi gồm có ba phần chính. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung có ba chương chính như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ từ quan điểm giới. Trong chương 1, chúng tôi tập trung vào những vấn đề lí luận và thực tiễn để tìm ra cơ sở trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn. Những lí thuyết 14
  16. về giới sẽ là phương pháp luận mà chúng tôi sử dụng. Từ đó, chúng tôi có cơ sở để nghiên cứu hình ảnh nam nhi được thể hiện trong nền văn học trung đại nói riêng và trong xã hội phong kiến tập quyền nói chung. Chúng tôi cũng trình bày về cuộc đời cũng như thời đại mà Nguyễn Công Trứ sống đã ảnh hưởng rất lớn đến những sáng tác về chí nam nhi của ông. Chương 2: Hình ảnh nam nhi trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ. Trong chương 2, chúng tôi nghiên cứu quan niệm về chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Người nam nhi luôn mang trong mình khát vọng công danh cao đẹp, bổn phận quân thân, vì dân giúp nước. Người nam nhi không chỉ có bản lĩnh cao cường, vượt lên trên mọi khó khăn, gian khổ để thực hiện lí tưởng “trí quân trạch dân” mà người nam nhi còn có tinh thần cao khiết, sống thanh bạch, không hám lợi danh. Bên cạnh đó, Nguyễn Công Trứ còn có ý thức “cậy tài”, “khoe tài” mà ít nhà nho dám thể hiện. Chương 3: So sánh hình ảnh nam nhi của Nguyễn Công Trứ với sáng tác của nhà nho chính thống. Nội dung chủ yếu của chương 3 là so sánh và đối chiếu sáng tác của Nguyễn Công Trứ viết về chí nam nhi với các sáng tác của nhà nho chính thống để thấy được những nét chung và những nét độc đáo riêng của Nguyễn Công Trứ. Từ đó, chúng tôi từng bước lí giải sự độc đáo, táo bạo ấy. 15
  17. NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU HÌNH ẢNH NAM NHI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ.  Để nghiên cứu hình ảnh nam nhi trong các sáng tác của Nguyễn Công Trứ dưới sự ảnh hưởng của xã hội nam quyền, luận văn triển khai tìm hiểu một số vấn đề lí luận và thực tiễn về giới để tái hiện phần nào quan điểm văn hóa về người nam nhi trong xã hội nam quyền Việt Nam, đồng thời phác thảo qua nền văn học trung đại Việt Nam khi viết về người nam nhi theo quan điểm giới. Đây chính là cơ sở lí luận và thực tiễn để chúng tôi hoàn thành luận văn này. 1.1 Khái niệm về giới ( Gender). Giới là một khái niệm mới xuất hiện ở các nước nói tiếng Anh vào cuối những năm 60 và xuất hiện ở nước ta vào những năm 80 của thế kỷ XX. Cho đến nay thuật ngữ giới được hiểu chưa có sự thống nhất trong giới nghiên cứu và nhiều bằng chứng cho thấy còn không ít mơ hồ và sự nhầm lẫn trong cách hiểu về giới khi triển khai thực tế cũng như trong cuộc sống thường ngày. Giới không mang ý nghĩa là giới tính, cũng không mang ý nghĩa là phụ nữ. Giới là một thuật ngữ bắt nguồn từ ngành khoa học giới mới hình thành và đang thâm nhập vào nhiều ngành khoa học: tâm lí học xã hội, xã hội học, dân tộc học, văn hóa học... Người ta nghiên cứu giới theo quan điểm sinh lý, chỉ ra sự khác biệt về cấu tạo cơ thể, về sức khoẻ, về tính dục giữa nam và nữ để ứng dụng vào y học, sinh học… Người ta cũng có thể nghiên cứu về giới theo 16
  18. quan điểm xã hội để ứng dụng trong phân công lao động xã hội giữa nam và nữ, giải quyết vấn đề ngành nghề cho nam và nữ, so sánh và cân đối thu nhập giữa nam và nữ, đo lường độ tuổi nghỉ hưu phù hợp cho nam và nữ… Giới cũng có thể được nghiên cứu trong tâm lý học để chỉ ra được đặc trưng dị biệt trong tâm lý giữa phái nam và phái nữ…. Giới cũng có thể được nghiên cứu theo quan điểm văn hoá để chỉ ra cái nhìn về giới của nam và nữ đối với nhau, chỉ ra địa vị gia đình và xã hội của nam giới và nữ giới ...Đây cũng là lí do khiến thuật ngữ giới được hiểu với ít nhiều khác biệt tùy vào góc độ của mỗi ngành khoa học. Có thể đưa ra một số khái niệm, định nghĩa về giới như sau: - “Giới là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh xã hội cụ thể. Nói cách khác, nói đến giới là nói đến sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới từ giác độ xã hội” [10; tr.27]. - “Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ vọng liên quan đến nam và nữ” [10; tr.27]. - “Giới là sự tập hợp các hành vi học được từ xã hội và những kỳ vọng về các đặc điểm và năng lực được cân nhắc nhằm xác định thế nào là một nam giới hay một phụ nữ ( hoặc một cậu bé hay cô bé) trong một xã hội hay nền văn hóa nhất định. Giới cũng phản ánh các mối quan hệ giữa nam và nữ, ai cần làm gì và ai là người kiểm soát việc ra quyết định, tiếp cận các nguồn lực và hưởng lợi” [10; tr.28]. - “Giới là một phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Nói đên giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam giới và phụ nữ, liên quan tới hàng loạt vấn đề thuộc về thể chế và 17
  19. xã hội chứ không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một nam giới hay một phụ nữ nào” [10; tr.28]. Một số định nghĩa trên đây về giới cho phép ta hình dung cách tiếp cận đa dạng về thuật ngữ này. Tuy nhiên, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng: “Giới có thể dùng để chỉ vị thế xã hội của nam và nữ trong thực tế (tương quan về vị trí, vai trò xã hội của cả nam và nữ); có thể dùng để chỉ hành vi ứng xử xã hội của nam và nữ; cũng có thể dùng để chỉ các quan niệm, các kỳ vọng liên quan đến nam và nữ…Nói đến giới là nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho người nam và người nữ. Bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia nguồn lợi và tương quan về địa vị xã hội của nam giới và nữ giới trong một bối cảnh văn hóa xã hội cụ thể. Thuật ngữ giới đề cập đến những đặc tính và cơ hội về mặt kinh tế, xã hội, văn hóa và tâm lí gắn với việc là phụ nữ hay nam giới. Trong phần lớn các xã hội, là một người đàn ông hay là một người phụ nữ không chỉ có các đặc điểm sinh học khác nhau mà còn phải đối diện với những mong đợi khác nhau của xã hội về mặt ngoại hình, cách cư xử, tính cách và những công việc được cho là thích hợp đối với giới tính của người đó”. [10; tr.28]. Như vậy, giới là một thuật ngữ được dùng để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những đòi hỏi, yêu cầu đối với nam và nữ. Nó là sản phẩm của xã hội – văn hóa. Trong cuộc sống hằng ngày, khái niệm giới (gender) thường bị dùng lẫn lộn với giới tính (sex). Thực chất đây là hai phạm trù tương hỗ nhưng không đồng nhất. Giới tính là sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học, bao gồm sự khác nhau về giải phẫu ( kích thước, hình dạng cơ thể…), đặc điểm sinh lí ( hoạt động hormone, chức năng của các bộ phận). Giới tính có những đặc trưng cơ bản là bẩm sinh, đồng nhất, không biến đổi và không thể thay đổi. 18
  20. Như vậy, giới tính gần như là kiểu phân nhóm xã hội dễ nhận thấy nhất mà chúng ta có thể dùng để nhận dạng mình và người khác giới. Theo Keneth Clatterbaugh, có ba thành tố cấu thành nên khái niệm về giới tính nam (nam tính) là: “vai trò giới của người đàn ông, khuôn mẫu về nam tính, và lý tưởng về giới” [10; tr.4]. Theo ông, thành tố đầu tiên lý giải đàn ông là gì vì nó “là một tập hợp hành vi, thái độ và hoàn cảnh thường thấy ở những người đàn ông thuôc một nhóm xác định nào đó” [10; tr.4]. Thành tố thứ hai liên quan đến cái mà người ta nghĩ về đàn ông: “Một khuôn mẫu là ý tưởng chung về cái mà hầu hết mọi người đều xem là vai trò giới của đàn ông… Khuôn mẫu dựa trên định nghĩa về đàn ông và vai trò mà đàn ông thực sự đảm nhận không phải bàn cãi…” [10; tr.4]. Còn lý tưởng về giới là “một quan niệm phổ biến cho rằng vai trò giới của người đàn ông nên như thế nào” [10; tr.4]. Ông cũng lưu ý rằng giữa ba thành tố này có những mối quan hệ tương tác và vì thế những ranh giới rạch ròi là không thể vạch ra mà là một sự kết hợp biện chứng. Các nhà nghiên cứu về giới đều cho rằng không thể có một mẫu hình đàn ông chung cho mọi thời đại và mọi khu vực vì nam tính, với tư cách là một cấu trúc văn hóa, khó tránh khỏi thay đổi. Song Geng dẫn nhận định của Micheal Kimmel cho rằng: “nam tính có ý nghĩa khác nhau trong những thời điểm khác nhau đối với những người khác nhau. Chúng ta hiểu thế nào là một người đàn ông trong nền văn hóa của chúng ta bằng cách đặt những định nghĩa của chúng ta trong sự đối lập với một tập hợp của „những người khác‟ - những thiểu số về chủng tộc, về giới tính, và trên hết là phụ nữ” [34; tr. 4]. Vì thế, “Phản nữ tính (anti femininity) […] là trọng tâm của vấn đề nam tính thống trị ở phương Tây, tức là một người đàn ông thì có nghĩa là không giống 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2