intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:134

301
lượt xem
70
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu gồm có 3 chương, cụ thể chương 1 - Chủ thể trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu; chương 2 - Kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu; chương 3 - Lời văn và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ĐOÀN THỊ HUỆ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG THỊ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn, cùng với những nỗ lực của bản thân, người viết đã nhận được sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều người. Người viết xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS Hoàng Thị Văn – Giảng viên chính khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Cô đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn người viết trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Xin chân thành cảm ơn thầy cô giáo trong Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, TS Nguyễn Thị Anh Thảo – Giảng viên chính khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, phòng SĐH Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh, đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để người viết hoàn luận văn. Xin cảm ơn BGH, thầy cô giáo Trường THPT Long Kiến đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong công tác để người viết hoàn thành luận văn đúng thời hạn. Xin cảm ơn Cha Mẹ, chồng, đồng nghiệp và bạn bè đã động viên, khích lệ người viết trong suốt quá trình làm luận văn. Người viết xin chân thành cảm ơn! Tp Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2010 Người viết Đoàn Thị Huệ
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 1.1 Say mê trên hành trình tìm kiếm “hạt ngọc” ẩn chứa trong mỗi con người, Nguyễn Minh Châu đã yêu thương và tin tưởng, lặng lẽ và sẻ chia, thấu hiểu và dâng tặng đời bao tặng phẩm quý giá. Đó là những trang viết vừa giàu chất văn, chất thơ ở tình người cao đẹp vừa nồng mặn xót xa ở những dòng cảm nhận về cuộc sống đời thường nhiều bộn bề trăn trở. Trước 1975, người đọc đã biết đến Nguyễn Minh Châu qua Những vùng trời khác nhau, Mảnh trăng cuối rừng, Cửa sông, Dấu chân người lính…những tác phẩm ghi nhận sinh động bức tranh về hiện thực cuộc sống và chiến đấu của quân dân Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước hào hùng. Sau 1975, nhất là sau công cuộc đổi mới đất nước, với Bức tranh, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Phiên chợ Giát…, Nguyễn Minh Châu và các sáng tác của ông một lần nữa có sức hấp dẫn đặc biệt đối với bạn đọc. Và mọi người đã nghĩ nhiều đến Nguyễn Minh Châu hơn với tư cách “nhà văn sớm nhất có sự trăn trở, khát khao đổi mới văn học” [48;tr 5], là một trong “những người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất.” [52; tr 256] Từ chiến tranh về hòa bình, từ chiến trường về hậu phương nhưng tác phẩm Nguyễn Minh Châu vẫn không hề đứt đoạn trong cảm hứng sáng tạo, trong việc thể hiện tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả. Nhà văn đã nhận chân được ở đây một gương mặt thật của hậu phương nhưng vẫn tiếp tục là chiến trường trong cuộc sống đời thường không khói súng. Bên cạnh đó, không thể không kể đến một sự tiếp nối và cách tân khác đã góp phần không nhỏ trong việc khẳng định cái riêng, cái đặc sắc của trang sáng tác Nguyễn Minh Châu. Đó là sự tiếp nối và cách tân chính trong nghệ thuật kể chuyện, trong “cái duyên kể chuyện” của tác giả. 1.2 Có thể nói, so với những sáng tác ở thể loại tiểu thuyết, thì mảng truyện ngắn và bút ký của Nguyễn Minh Châu được các nhà nghiên cứu chú ý muộn hơn. Nhưng không vì thế mà thành tựu của những trang viết sau này của tác giả mất đi sự quan tâm, ưu ái và đánh giá cao của bạn đọc. Ngược lại, có nhà nghiên cứu còn nhận diện được ở đây sự hiện thân đầy đủ cho quá trình sống còn của trang viết nhà văn “Nguyễn Minh Châu viết nhiều tiểu thuyết. Từ Cửa sông đến Mảnh đất tình yêu, tất cả 8 cuốn (…). Nhưng cái mà nhà văn để lại cho đời không phải là những tác phẩm dài hơi ấy mà là dăm ba truyện ngắn in rải rác trên báo chí, trong các tập truyện cuối đời của anh.” [38; tr 346]. Riêng Nguyễn Minh Châu cũng đã một lần nói rõ sự tâm đắc của mình đối với thể loại sáng tác này “…có thể viết một truyện vừa hay một truyện dài nhưng tôi lại đem cô đúc tất cả vào trong một truyện ngắn vì tôi không thích viết dài.” [38; tr 306] và cũng đã từng ngậm ngùi mà hạnh phúc
  4. tự đánh giá “Mình viết văn, cả đời tràng giang đại hải có khi chỉ còn lại vài cái truyện ngắn.” [38; tr 259] Khi xét ở phương diện nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm, thì những sáng tác thuộc thể loại truyện ngắn của nhà văn có những đặc trưng riêng rất đáng được khảo sát và tìm hiểu. Đó là đặc trưng ở sự hạn định của câu chữ, sự lựa chọn đề tài, tạo tình huống truyện, kết cấu trần thuật… Những điều này vừa quy định cũng vừa được thể hiện một cách sinh động, cụ thể qua việc chọn điểm nhìn, xác định chủ thể trần thuật, tổ chức, sắp xếp các sự kiện, tình tiết câu chuyện cũng như việc lựa chọn dạng lời văn với giọng điệu trần thuật phù hợp. Đây chính là những yếu tố quan trọng góp phần làm nên cái riêng, cái độc đáo của nghệ thuật trần thuật của tác giả. 1.3 Đa dạng ở lĩnh vực sáng tác (tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình tiểu luận), phong phú ở tầng vỉa ý nghĩa trên từng trang viết, sáng tác Nguyễn Minh Châu cả trước và sau 1975, đặc biệt là những năm cuối thập niên 80, luôn nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình. Mỗi bài viết, mỗi công trình nghiên cứu là một cách nhìn, một tiếng nói, một suy nghĩ, một cảm nhận riêng của người viết xoay quanh vấn đề con người và tác phẩm của nhà văn. Trong những bài viết đó, ít nhiều các vấn đề về điểm nhìn trần thuật, nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong sáng tác Nguyễn Minh Châu đã được đề cập và lý giải. Nhưng thật sự chưa có công trình khoa học nào lấy việc tìm hiểu về “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” làm đối tượng nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc. Với tất cả những lý do đó, trên cơ sở kế thừa thành tựu của người đi trước, người viết mong trong giới hạn nhất định, đề tài mà luận văn đã chọn - “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” sẽ là cơ hội để người viết tiến hành tìm hiểu các yếu tố nghệ thuật làm nên nghệ thuật trần thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trên tinh thần khoa học và toàn diện nhất có thể, để từ đó hướng đến một cách hiểu và cách lý giải thuyết phục về cái hay, cái độc đáo và hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là dưới góc độ thi pháp trần thuật. Hy vọng việc tìm hiểu tính nghệ thuật trong “cái duyên kể chuyện” của Nguyễn Minh Châu là một đóng góp của người viết trong việc làm đầy đặn hơn chân dung của một tài năng lớn về văn học nghệ thuật của dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề: Theo thống kê của một số nhà nghiên cứu thì “từ truyện ngắn đầu tiên Sau một buổi tập in trên Văn nghệ quân đội số 10/1960 đến truyện ngắn cuối cùng Phiên chợ Giát và những ghi chép Ngồi buồi viết mà chơi hoàn thành trong những ngày cuối cùng trên giường bệnh thì Nguyễn Minh Châu đã có 29 năm cầm bút với 13 tập văn xuôi và 1 tập tiểu luận phê bình” [48; tr 13]. Thành tựu đó thể hiện rõ quá trình lao động không mệt mỏi của nhà văn trong nỗ lực vươn tới những tác phẩm
  5. có khả năng chuyển tải được những vấn đề bức xúc thuộc về tầng tâm của cuộc sống con người ngày ấy và hôm nay. Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Minh Châu và các sáng tác của ông, đặc biệt ở mảng truyện ngắn, đến nay đã có nhiều bài viết, nhiều công trình khoa học gắn liền với nhiều tên tuổi lớn như: Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Văn Long, Huỳnh Như Phương, Trịnh Thu Tuyết, Tôn Phương Lan,… Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một cảm nhận riêng. Trong giới hạn nhất định, người viết tập trung vào các ý kiến nổi bật trong bài viết có liên quan đến mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn. 2.1 Những nhận xét về cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: Ngay từ rất sớm, khi tiếp xúc những sáng tác thuộc giai đoạn đầu của Nguyễn Minh Châu, trên báo Văn nghệ số 364 - năm 1970 các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá đã đưa ra nhận định “Chưa có thành tựu nào thật tài hoa, xuất sắc. Nhưng bước đi của anh – dù sao cũng đã 10 năm rồi, nói chung là chắc chắn. Từ những bút ký, truyện ngắn đến Cửa sông, anh cứ tiến dần từng bước rõ ràng về con đường mình đi, với thái độ cần cù, thận trọng của một con người không chủ quan, tự mãn.” [38; tr 27]. Sau 1975, tiếp tục tự khẳng định mình qua loạt tác phẩm ra đời sau đó, Nguyễn Minh Châu và các sáng tác của ông, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn đã không ngừng thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Điển hình nhất phải kể đến Hội thảo “Trao đổi về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu những năm gần đây” do Tuần báo Văn nghệ tổ chức vào tháng 6 năm 1985. Xem xét truyện ngắn Nguyễn Minh Châu từ nhiều phương diện khác nhau, có người đã lên tiếng khẳng định và ủng hộ những dấu hiện tích cực trong bước đường cách tân nghệ thuật của nhà văn. Phan Cự Đệ đã đưa ra nhận xét khái quát về hai giai đoạn sác tác của Nguyễn Minh Châu: “Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của ta. (…). Truyện ngắn của ta sau bảy năm có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng cao hơn. Truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu cũng có những ưu điểm ấy. Nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý tiềm thức. Nguyễn Minh Châu muốn đóng góp vào sự thức tỉnh con người từ phần sâu kín bên trong của bạn đọc.” [38;tr 292]. Cùng với Phan Cự Đệ thì Tô Hoài và Xuân Thiều đồng cảm nhận được nét cộng hưởng đáng quý giữa con người thật và câu chuyện hiện diện trên trang viết Nguyễn Minh Châu. Tô Hoài khẳng định: “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý” [38;tr 295]. Xuân Thiều khi làm cuộc đối sánh
  6. trang sách và trang đời của nhà văn, cũng đã không quá lời khi khẳng định: “Nguyễn Minh Châu có thiên hướng tìm cái đẹp trong đời sống bình thường, những con người bình thường ngay từ lúc cầm bút viết văn. (…). Nguyễn Minh Châu sống như thế nào thì những trang sách của anh thể hiện như thế ấy, bản lĩnh ngòi bút của anh được khẳng định. [38;tr 396]. Riêng với Lê Lựu, tác giả của một Thời xa vắng thì cái tài văn của Nguyễn Minh Châu xét đến cùng được quy lại hai điều đáng kể: “Điều thứ nhất: anh là một trong những nhà văn duy trì sự tìm tòi, góp phần làm cho văn học không nhạt, giúp cho văn học có cái để bàn. Điều thứ hai là anh nhìn đâu cũng ra truyện ngắn. Đến gần đây sự thể hiện của Nguyễn Minh Châu đã thành công. Trước đây, nếu như truyện Giao thừa còn ương thì nay truyện của anh đã chín.” [38; tr 298-299]. Tiếp tục nhìn nhận giá trị về tư tưởng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Phong Lê cũng đã chỉ ra tính “không dễ hiểu ”, tính “đa thanh phức điệu” của truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trong sự cảm nhận của độc giả “Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu không dễ hiểu. (…). Trong truyện của anh, mọi cái đã vỡ ra tạo nên những khoảng trống, phải nghi ngờ, phải nghĩ”. [38; tr 299]. Và tác giả bài viết cũng chỉ ra rằng cái khoảng trống ấy đã được lấp dần bởi tài năng sáng tạo của Nguyễn Minh Châu khi mà “Nguyễn Minh Châu dần tạo ra một thế giới nghệ thuật của anh: cái quyết định không phải ở đề tài (…). Trên chặng đường đi tìm, Nguyễn Minh Châu đào sâu vào tầng tâm, tham gia vào cuộc đấu tranh giữa các xấu và cái tốt. Trong cái mấp mé hằng ngày, giữa cái xấu và cái tốt, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giúp níu chúng ta lại.” [38; tr 299]. Nguyễn Kiên cũng góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị tích cực mang tính định hướng mở đường của truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là những tác phẩm ra đời ở giai đoạn sau. Tác giả viết: “Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu phù hợp với nhu cầu phát triển chung. Nó vượt ra một cái gì gọi là chuyện riêng của Nguyễn Minh Châu. Sáng tác của anh để chúng ta bàn bạc được nhiền vấn đề lớn hơn” [38; tr 300]. … Nhìn chung thì nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng ủng hộ sự tìm tòi đổi mới của Nguyễn Minh Châu, khẳng định một tài năng đã được định hình và càng dần về sau càng vươn tới độ chín cần thiết. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có nhiều ý kiến tỏ ra băn khoăn lo ngại về sự tự bứt mình sang một cương thổ sáng tạo mới của nhà văn. Phong Lê khi khẳng định văn tài của Nguyễn Minh Châu cũng đã chỉ ra những điều khó hiểu trong tác phẩm “Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu không dễ hiểu. Tôi cũng có lúc nghi ngờ cả sự hiểu của chính mình. Đọc Khách ở quê ra, tôi khó khăn tự hỏi rồi phải liệt kê ra một loạt ý tưởng của truyện… nhưng rốt cuộc vẫn không biết đâu là vấn đề của truyện.” [38; tr 299]
  7. Và Bùi Hiển, ông đánh giá cao bước tiến trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ở “ý nghĩa rõ, thái độ dứt khoát, nội dung ấy lại được phục vụ bằng những tình tiết khá đắt và tập trung, những chi tiết độc đáo, sắc sảo” nhưng đồng thời cũng tỏ ra quan ngại khi cho rằng “Về một số truyện ngắn khác nữa, trong đó anh đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm, về hình ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa hẳn là sâu sắc hơn. Đặc biệt tôi nghĩ đến Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Khách ở quê ra [38;tr 291]. Cùng đề cập đến phần “không dễ hiểu” của truyện ngắn Khách ở quê ra, Vũ Tú Nam cũng không ngại nêu lên ý kiến: “Một vài truyện của anh Châu bị rối, có phần khó hiểu.(…). Ở một vài truyện anh tìm chưa tới, chưa đạt.” [38; tr 302]. Với Triều Dương thì điều khiến ông quan tâm khi tiếp xúc truyện ngắn Nguyễn Minh Châu chính là một phong cách viết hơn “lạ” của nhà văn mà theo ông thì “Ngay cả trong một truyện ngắn sau đó, truyện Hai con nhóc Nguyễn Minh Châu lại bộc lộ lối viết ấy, rối rắm, lan man, để người đọc không bắt được chủ đích hoặc muốn hiểu thế nào cũng được” và “Gần đây anh lại cho in truyện ngắn Khách ở quê ra vẫn lại lối biểu hiện ấy nhưng do độ dài và dung lượng của truyện, sự rối rắm càng tăng lên.” [38; tr 303]. Từ đây có thể thấy trong cuộc Hội thảo đã cùng lúc xuất hiện hai luồng ý kiến có vẻ trái chiều nhau nhưng điều thú vị là cả hai đều đồng khẳng định cái mới (dù là rối rắm hay khó hiểu đi nữa) trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là trong dăm bảy năm gần đây. Cái mới đó trước hết phải kể đến “những vệt tư tưởng mà tư duy nghệ thuật và sáng tác của ông đã để lại khá sâu đậm trong văn học Việt Nam đương đại” [38;tr 513] và sau đó là “những nỗ lực cách tân sâu sắc và toàn diện về nghệ thuật biểu đạt, từ nhân vật đến cốt truyện, tình huống, từ giọng điệu ngôn ngữ đến điểm nhìn trần thuật …của nhà văn”[38;tr 513]. Và đây cũng là những yếu tố chính góp phần khẳng định “một phong cách trần thuật có chiều sâu” được bắt nguồn từ giai đoạn trước và càng dần về sau càng vươn đến độ chín của tác giả. 2.2 Những nhận xét về Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975: Có thể nói từ trước đến nay vấn đề về Nguyễn Minh Châu và các sáng tác truyện ngắn của ông đã được các nhà nghiên cứu xem xét khá kỹ lưỡng ở từng tác phẩm cụ thể, ở từng giai đoạn sáng tác gắn liền với quá trình trăn trở tìm tòi, với nhu cầu tự đổi mới mình trong cách nghĩ và cách viết của nhà văn. Trong giới hạn nào đó, các bài viết này đã ít nhiều đề cập đến “nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu” ở một vài khía cạnh cụ thể nhất của nó. Trong một bài viết của mình, Nguyễn Thanh Tú đã cập đến vấn đề “chủ thể trần thuật” khi tiến hành khảo sát “Nghệ thuật kể chuyện trong Mảnh trăng cuối rừng”. Ở đây, tác giả đã phân tích và lý giải khái niệm kịch hóa nhân vật người kể chuyện để từ đó chỉ ra hiệu quả nghệ thuật mà dạng
  8. chủ thể trần thuật này trực tiếp mang lại cho câu chuyện kể. Đó là khả năng “tăng cường tính thời sự cho câu chuyện được kể, thời điểm kể rất gần so với thời điểm câu chuyện được kể xảy ra, chất thời sự vẫn nóng hổi, mọi chi tiết vẫn tươi nguyên sự sống” [38; tr 164]. Và Nguyễn Thanh Hùng khi tìm hiểu về “Cái hay và cái đẹp của Mảnh trăng cuối rừng” cũng đã phát hiện: “Với Mảnh trăng cuối rừng, mỗi thi pháp trong phương thức kể đều thể hiện kết quả tìm tòi nghệ thuật sáng tạo của Nguyễn Minh Châu” [38; tr 144]. Theo tác giả, việc Nguyễn Minh Châu để câu chuyện được tái hiện qua lời kể của nhiều chủ thể trần thuật khác nhau chính là biểu hiện cụ thể của “biện pháp phục khuyết (catalyse) trong nghệ thuật kể chuyện”[38; tr145]. Xét cụ thể ở Mảnh trăng cuối rừng, tác giả bài viết đã chỉ ra hiệu quả nghệ thuật của biện pháp phục khuyết này “Người này bổ sung cho người kia những lãng quên và chưa rõ ràng để làm đầy dần câu chuyện. Mỗi người kể là một người người nghe, theo dõi khắc khoải không kém gì nhân vật Lãm. Chỉ có một người biết tất cả đó là chúng ta - những người đọc” [38; tr 145]. Để sau đó tác giả bài viết đi đến khẳng định “Chẳng lẽ chỗ này không phải là cái mới trong cách kể của Nguyễn Minh Châu đó sao?” [38; tr 145]. Như vậy ngay từ Mảnh trăng cuối rừng thì cách kể chuyện lôi cuốn thể hiện rõ sự dụng công sáng tạo của Nguyễn Minh Châu trong việc xây dựng những dạng chủ thể trần thuật sinh động đã thực sự chinh phục được sự mến yêu của độc giả. Đến sau 1975, hàng loạt tác phẩm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu như Bến quê, Người đàn bà trên chuyến trên tàu tốc hành, Phiên chợ Giát… lại tiếp tục gây xôn xao dư luận bởi những bước đi tiên phong nhưng chắc chắn của nhà văn. Tập truyện ngắn Bến quê thực sự làm hài lòng nhà nghiên cứu Trần Đình Sử bởi “một phong cách trần thuật có chiều sâu”. Và ông đã không ngại khẳng định rằng: “Trong số những nhà văn trăn trở tìm tòi đổi mới tư duy nghệ thuật và tiếng nói nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu là một ngòi bút gây được nhiều hứng thú. Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh, rồi tập Người đàn bà trên chuyến trên tàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu xuất hiện như một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới” [38; tr 188]. Tôn Phương Lan khi tiến hành khảo sát hàng loạt sáng tác Nguyễn Minh Châu (bao gồm tiểu thuyết và truyện ngắn) cũng đã đồng khẳng định quan niệm trên của Trần Đình Sử khi cho rằng “Trước những năm 80, điểm nhìn trần thuật của Nguyễn Minh Châu cơ bản theo xu thế đối ngoại” [48; tr145]. Nhưng càng dần về sau khi hiện thực cuộc sống thay đổi thì quan niệm nghệ thuật của nhà văn cũng dần thay đổi theo: “Từ quan điểm trần thuật sử thi, Nguyễn Minh Châu đã dần chuyển sang quan điểm đời tư thế sự, do vậy mà các hình thức trần thuật của ông cũng có những chuyển đổi” [48; tr 146]. Cũng trong công trình nghiên cứu này, khi tìm hiểu về giọng điệu chủ đạo trong sáng tác Nguyễn Minh Châu, Tôn Phương Lan đã khẳng định “Có một giọng điệu trữ tình xuyên suốt nhiều
  9. sáng tác của Nguyễn Minh Châu mà điểm nhìn trần thuật của lối tư duy sử thi đã góp phần thi vị hóa những khó khăn gian khổ” [48; tr 161]. Nhưng đến càng dần về sau, khi những điều triết lý giản dị mà sâu sắc dần thay thế cho những yếu tố chính luận gắn liền với những bước đi lớn của thời đại thì mặc dù vẫn đi về trong giọng điệu trữ tình quen thuộc nhưng giờ đây truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trầm lắng hơn, đượm nhiều trắc ẩn hơn trong dòng cảm nhận, suy tư về cuộc đời của tác giả. Cùng quan tâm đến vấn đề giọng điệu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Lê Thành Nghị cũng cho rằng: “Trong những thiên truyện gần đây của Nguyễn Minh Châu, một phong cách tưởng đã định hình đang tự biến đổi. Tác giả thay đổi chất giọng, ngôn ngữ, thay đổi góc nhìn phần lớn để truy tìm đến tận cùng những biểu hiện tâm lý phức tạp” [38;tr 301]. Còn với Phong Lê thì ngòi bút Nguyễn Minh Châu cơ hồ đã tỏ hết vẻ đẹp thiên phú của nó khi chuyển tải được cái muôn vàn phức tạp của thanh âm cuộc sống vào tất cả những khoảng trống phải nghi ngờ, phải nghĩ trong tác phẩm. Tác giả viết: “Đúng là Nguyễn Minh Châu là người có giọng điệu riêng, mà nói đúng hơn anh là người đa giọng điệu. Cái đa giọng điệu, cái đa thanh của cuộc đời đã vào anh. Tất cả các cung bật có trong cuộc đời: cái cao thượng, cái ti tiện, cả cái bi lẫn cái hài, anh đều đưa vào truyện (…). Trong truyện của anh mọi cái đang vỡ ra tạo nên những khoảng trống phải nghi ngờ, phải nghĩ” [38;tr 299]. Kế đó, Nguyễn Tri Nguyên trong “Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975” cũng đã dành không ít sự quan tâm vào việc tìm hiểu giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Tác giả viết: “Giọng kể của tác giả không còn đơn thanh điệu nữa mà đã chuyển sang đa thanh điệu và phức điệu. [38tr 245]. Và sự đa thanh phức điệu này cũng được tác giả chỉ ra những sắc điệu cụ thể “lúc thì thân tình suồng sã, lúc hài hước kín đáo, lúc thì nghiêm nghị đến khe khắt nhưng cũng có lúc đôn hậu ấm áp”. [38;tr 245]. Bên cạnh chủ thể trần thuật và giọng điệu trần thuật thì vấn đề về lời văn trần thuật và kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng được nhắc đến khá nhiều trên các bài viết, các công trình nghiên cứu ở một vài nét sơ lược của nó. Nguyễn Trọng Hoàn trong “Truyện ngắn Bức tranh – sự đối diện và thức tỉnh lương tâm …” đã có cái nhìn khái quát về ngôn ngữ trần thuật, cách thức trần thuật, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu khi cho rằng: “Ở Nguyễn Minh Châu còn phải kể đến sự kết hợp nhuần nhị giữa ngôn ngữ đa thanh và thời gian, không gian đồng hiện. Khi lùi vào độc thoại nội tâm, lúc chuyển sang đối thoại trực tiếp, lúc cắt ngang bình luận ngoại đề, sự đan xen linh hoạt đó khiến cho ngôn ngữ tác phẩm có một giọng điệu phức hợp, tạo nên hiệu quả cá biệt hóa hình tượng nhân vật từ bình diện điểm nhìn trần thuật” [38; tr 171]. Ở một trường hợp khác, lời văn trần thuật tinh tế hấp dẫn trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng được Nguyễn Thanh Hùng đề cập đến trong một tác phẩm cụ thể: “Ngoài ánh trăng kỳ
  10. ảo, Mảnh trăng cuối rừng còn chứa đựng chất thơ trong lời kể tinh tế và chân xác. Nguyễn Minh Châu đã kết hợp kể với tả. Tả như mơ, như siêu thoát, không bao giờ tát cạn.” [38;tr 148]. Hay một kết cấu trần thuật “rất lạ” của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng được Nguyễn Trung Hiếu nhận diện “một trong những cái lạ của Nguyễn Minh Châu là Người đàn bà trên chuyến trên tàu tốc hành: lạ về nhân vật, lạ kết cấu và lạ cả về logic của truyện”. [38; tr 185]. Riêng Trần Đình Sử thì thấy được biệt tài của nhà văn trong việc sử dụng ngôn ngữ trần thuật làm cơ sở hình thành hệ thống giọng điệu trần thuật sinh động, phong phú và đa dạng. Tác giả viết: “Anh là nhà văn có biệt tài sử dụng chi tiết, miêu tả chân dung, môi trường, khắc họa tâm lý… Anh lại sành vận dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp, dựng lại được những giọng điệu khác nhau của nhân vật, chẳng hạn như Khách ở quê ra, Hương và Phai …”[38; tr192]. Bên cạnh đó, khi tìm hiểu về cái hay, cái đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu các nhà nghiên cứu đã không quên đề cập đến vấn đề kết cấu truyện ngắn của nhà văn khi xem đây là một trong những yếu tố chính làm nên nét riêng không trộn lẫn của ông trong bước đường cách tân nghệ thuật văn chương ở giai đoạn đầu còn nhiều băn khoăn, bỡ ngỡ. Hoàng Thị Văn trong “Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90”, khi đặt truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu bên cạnh truyện ngắn của nhiều cây bút khác đã cho rằng “Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu hầu như không có kiểu kết thúc mở. Khép lại những câu chuyện đời, nhà văn đều bày tỏ thái độ hoặc dẫn dắt bạn đọc hướng đến một cách cảm nhận và biểu thị thái độ đối với cuộc đời, với một số phận con người.”[89; tr165]. Kiểu kết cấu này phần lớn tương ứng với một loại truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mà ở đó tính luận đề của nó hiện thị trên trang viết tương đối rõ. Và trong một lần tham gia Hội thảo, Nguyễn Minh Châu cũng đã không ngại nói rõ chủ kiến của mình “Mỗi truyện ngắn tôi nêu ra một trường hợp cụ thể và xen vào mạch kể chuyện, tôi bàn bạc về quan niệm sống hoặc báo động một điều gì”[ 38; tr 295]. Nguyễn Trọng Hoàn trong nhiều bài viết của mình đã chỉ ra những biểu hiện cụ trong nghệ thuật xây dựng câu chuyện của nhà văn “Cốt truyện trong Bến quê là cốt truyện tâm lý. Ở đây có sự nghịch lý trong sự tự ý thức cao độ của nhân vật”. [38; tr 139]. Còn “Ở Bức tranh tác giả đã sử dụng kết cấu trùng điệp có tính liên khúc”. [38;tr 171]. Văn Chinh khi khảo sát tập truyện ngắn Cỏ Lau đã chỉ ra dấu vết của tiểu thuyết ẩn trong vài câu chuyện ngắn ngủi của nhà văn: “Cỏ lau gồm ba truyện ngắn bị phá cách để thích nghi thời điểm hiếm hoi của người hiện đại dành cho tiểu thuyết văn chương (…). Mỗi truyện từ trên dưới 60 trang, dày đặc chi tiết, cuồn cuộn sức vóc và điệp trùng ý nghĩa.” [38; tr 224] Có lẽ cũng bởi sự điệp trùng ý nghĩa này mà truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thường tạo ra được nhiều cách hiểu từ phía bạn đọc. Từ đó cũng dễ dẫn đến nhiều luồng ý kiến khác nhau thậm
  11. chí là trái chiều nhau khi đánh giá về nét đặc sắc, độc đáo của truyện ngắn của nhà văn. Nhưng điều thú vị là dù có thể tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về ý nghĩa tác phẩm nhưng đến nay hầu hết mọi người đều phải thừa nhận rằng trong sự tìm kiếm, nâng niu và gìn giữ “hạt ngọc” ẩn chứa trong mỗi con người thì Nguyễn Minh Châu đã không ngừng nâng mình lên khỏi những lối mòn quen thuộc để trở thành một đại diện tiêu biểu “thực hiện được những thay đổi khi cần phải đổi thay và thực hiện được những chuyển biến bước đầu xuất sắc.” [38; tr 281] Tóm lại có thể thấy rằng: Từ trước đến nay, vấn đề về Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không ngừng thu hút được sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu, các giới phê bình văn học trong và ngoài nước. Có người đã hướng sự quan tâm của mình đến nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Minh Châu ở một trường hợp cụ thể (Nguyễn Mạnh Hùng với Mảnh trăng cuối rừng; Nguyễn Trọng Hoàn với Bến quê…). Có người tập trung làm rõ chất thơ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, chỉ ra cái hay và biệt tài của nhà văn trong việc kịch hóa nhân vật người kể chuyện (Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Thanh Tú…). Hoặc có người lấy việc khảo sát các kiểu cấu trúc và tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu làm đối tượng nghiên cứu (Bùi Việt Thắng). Và trong đó, không thể không kể đến Tôn Phương Lan với chuyên luận khoa học của mình - tìm hiểu về “Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu”. Ở đây, tác giả bài viết đã tiến hành khảo sát trên toàn bộ các sáng tác của Nguyễn Minh Châu dưới góc nhìn phong cách học để tìm hiểu và chứng minh về sự tồn tại một phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu ở các phương diện: Tư tưởng nghệ thuật, nhân vật, tình huống và điểm nhìn trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ trong các sáng tác của nhà văn. Cũng chính ở những bài viết và các chuyên luận khoa học này mà một số phương diện trong nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã được đề cập và lý giải. Nhưng trong giới hạn nhất định, do tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau nên sự quan tâm ở những bài viết này mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát; hoặc thu hẹp khi khảo sát một tác phẩm cụ thể hoặc khái quát khi tiến hành khảo sát trên toàn bộ sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất nhiên khi các bài viết này chưa có điều kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về các đặc điểm và nét riêng trong Nghệ thuật trần thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Và người viết cũng được biết rằng đến nay, chưa có một công trình khoa học nào lấy vấn đề tìm hiểu về Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đặt dưới góc nhìn thi pháp học làm đối tượng nghiên cứu của đề tài. Người viết rất mong trong giới hạn nhất định, đề tài mà luận văn đã chọn - Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sẽ là cơ hội để người viết tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích và lý
  12. giải các yếu tố nghệ thuật làm nên nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu trên tinh thần khoa học và toàn diện nhất có thể. Nguyễn Minh Châu đã từng nói: “Bất cứ một cây bút nào cũng không thể làm công việc của cả một nền văn học. Miễn là mỗi người với tất cả tấm lòng chân thành đối với cuộc sống, hãy in cho thật sâu đậm dấu vết bản sắc tư tưởng cùng tiếng nói nghệ thuật riêng của mình – tức cũng đã là chút đóng góp” [38; tr 307]. Hy vọng kết quả nghiên cứu này cũng sẽ là một đóng góp nhỏ bé của người viết trong việc đưa đến một cách hiểu, một cách nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về giá trị của những thành quả lao động nghệ thuật mà Nguyễn Minh Châu đã cống hiến cho đời, đặc biệt khi xét ở phương diện nghệ thuật trần thuật của nhà văn khuôn lại ở thể loại truyện ngắn và trải dài ở hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975. 3. Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn tập trung vào mảng sáng tác của Nguyễn Minh Châu ở lĩnh vực truyện ngắn trong cả hai giai đoạn trước và sau 1975. Đây là mảng sáng tác thể hiện rõ sự dụng công và tài năng sáng tạo của nhà văn trong nỗ lực vươn tới những cách tân, đổi mới về tư duy nghệ thuật tự sự. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn tập trung tìm hiểu những yếu tố nghệ thuật chính làm nên một phong cách riêng về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Từ đó, luận văn hy vọng đưa ra những lý giải mang tính thuyết phục về cái hay, cái hấp dẫn trong “nghệ thuật kể chuyện” của Nguyễn Minh Châu trải qua bao thế hệ bạn đọc. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích đặt ra trong phạm vi tự giới hạn, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng phối hợp một số phương pháp chính sau: 4.1 Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng với tần suất cao trong luận văn. Đi từ việc khảo sát phân tích từng tác phẩm, người viết chú ý đến những yếu tố nghệ thuật chính làm nên nét riêng trong nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu như chủ thể trần thuật, kết cấu trần thuật, lời văn và giọng điệu trần thuật. Từ việc phân tích đó, người viết hướng đến tìm nhận những kết luận mang tính tổng hợp nhất, khái quát nhất làm nên một ngòi bút Nguyễn Minh Châu sẵn “cái duyên kể chuyện”. 4.2 Phương pháp hệ thống: Người viết sử dụng phương pháp hệ thống trong quá trình nghiên cứu để từ đó có được một cái nhìn hệ thống về những yếu tố nghệ thuật tương đồng, gần gũi, những yếu tố mang tính “ổn định” góp phần hình thành phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, đặc biệt tập trung ở mảng truyện ngắn, soi chiếu dưới góc nhìn của thi pháp trần thuật.
  13. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi đánh giá vấn đề, trong quá trình nghiên cứu người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, đối chiếu… với chừng mực nhất định mà mục đích cuối cùng là làm rõ những yếu tố nghệ thuật làm nên nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Song song với việc vận dụng phối hợp các phương pháp trên, người viết còn vận dụng những kiến thức học được về các khoa học liên ngành như: lý luận văn học, thi pháp học, phong cách học, phương pháp luận nghiên cứu văn học… để phục vụ hiệu quả vấn đề người viết chọn làm đề tài cho chuyên luận. 5 Đóng góp của luận văn: Người viết hy vọng kết quả mà luận văn gặt hái được là những đóng góp hữu ích về: - Khảo sát và lý giải một cách có hệ thống, thuyết phục đối với những yếu tố nghệ thuật chính làm nên tính hấp dẫn của “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu”. - Khẳng định có sự tiếp nối và cách tân trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt ở lĩnh vực truyện ngắn. Đây luôn được xem là một trong những yếu tố nghệ thuật chính khiến nhà văn có thể trụ vững và thật sự đã rất thành công ở cả hai giai đoạn sáng tác. - Nguyễn Minh Châu còn là một trong những tác giả có tác phẩm được chọn giảng ở trường Phổ thông nên kết quả luận văn nghiên cứu sẽ có những đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu và giảng dạy của người giáo viên đứng lớp sau này. 6 Kết cấu luận văn: Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu tạo gồm 3 chương: Chương 1: Chủ thể trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu Chương 2: Kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu Chương 3: Lời văn và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
  14. Chương 1: CHỦ THỂ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU 1.1 Chủ thể trần thuật và các hình thức xuất hiện chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự nói chung: 1.1.1 Khái niệm “chủ thể trần thuật” trong tác phẩm tự sự : Về chủ thể trần thuật hay người trần thuật trong tác phẩm tự sự, Lê Bá Hán trong Từ điển thuật ngữ văn học có định nghĩa: “Người trần thuật là một nhân vật hư cấu hoặc có thật mà văn bản tự sự do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành (…). Nó bị trừu tượng hóa đi, trở thành một nhân vật hoặc ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự sự” [31; tr221-222] Theo định nghĩa trên, người trần thuật trước hết là một hình tượng nghệ thuật được nhà văn sáng tạo ra để thay mình làm nhiệm vụ kể lại một câu chuyện hay một sự việc nào đó. Và thông qua hành vi kể chuyện này mà chủ thể trần thuật có thể lộ diện hoặc ẩn tàng, rõ ràng hay tiềm ẩn trong suốt quá trình trò chuyện cùng độc giả. Trong văn tự sự, khái niệm “người trần thuật” còn có thể được gọi dưới những tên gọi khác như “người kể chuyện” (Lê Ngọc Trà), hay “hình tượng tác giả” (Huỳnh Như Phương)… “Người kể chuyện”, theo Lê Ngọc Trà, đó là “chủ thể của lời kể chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học” [81; tr 89]. Còn với Huỳnh Như Phương, khái niệm này được hiểu dưới hình thức diễn đạt là “hình tượng tác giả”. Tác giả viết: “Khái niệm hình tượng tác giả nói lên bản chất của tác phẩm nghệ thuật và là nơi tập trung sự thống nhất về tư tưởng, kết cấu, hình tượng và ngôn từ của tác phẩm” [34; tr 215] Đây chỉ là những biểu hiện sinh động của hình thức tên gọi còn về chức năng, vai trò của chủ thể trần thuật, người kể chuyện hay hình tượng tác giả đều như nhau trong văn tự sự. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học đã chỉ ra được vai trò “trung giới” của khái niệm này. Tác giả viết: “Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi kể được gọi là người trần thuật – một loại trung giới giữa cái được miêu tả và thính giả (độc giả), loại người chứng kiến và giải thích những gì đã xảy ra” [2; tr 360] Rõ ràng, nếu không có người kể chuyện thì câu chuyện mới chỉ dừng lại ở những hành động, sự kiện tạo nên vật liệu thô cho tác phẩm. Và nó cũng chỉ có thể tồn tại đâu đó trong miền nhận thức của tác giả, chưa thể lên trang để trở thành cốt truyện, kết quả của sự trần thuật câu chuyện đó trong tác phẩm. Vì vậy, người kể chuyện cùng hành vi kể chuyện giữ một vai trò cầu
  15. nối quan trọng trong mối quan hệ giữa câu chuyện được kể và người được nghe kể câu chuyện đó. Ngoài chức năng “trung giới”, người kể chuyện hay người trần thuật còn có một vai trò quan trọng khác trong việc tổ chức các yếu tố làm nên kết cấu của một văn bản tự sự. Vai trò này được Timofeev khẳng định “Hình tượng này có một vai trò hết sức to lớn trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra. Cách đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân người kể chuyện” [18; tr 44]. “Việc xây dựng tác phẩm…” đó chính là một cách nói khác của tác giả về việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Huỳnh Như Phương cũng đã đồng nhận định: “Khái niệm hình tượng tác giả (…), là một phạm trù thi pháp cao nhất quy định đặc điểm và nội dung của cấu trúc tác phẩm, cả tính khuynh hướng và sự triển khai của tác phẩm đó” [34; tr 215]. Chung quy lại, ta có thể hiểu rằng chủ thể trần thuật là người thay tác giả thực hiện hành vi trần thuật lại câu chuyện trong tác phẩm. Vì vậy mà chủ thể trần thuật có vai trò quan trọng trong việc làm cầu nối trong mối quan hệ “tác giả - câu chuyện – người kể chuyện hay người trần thuật và độc giả” Có được vai trò quan trọng như vậy là vì so với các hình tượng nghệ thuật khác được tạo ra trong tác phẩm thì hình tượng nghệ thuật – chủ thể trần thuật có mối liên hệ đặc biệt đối với tác giả. Nó là đại diện phát ngôn cho những điều tác giả muốn gửi gắm đến cuộc đời thông qua câu chuyện kể đồng thời lại là chủ thể có đời sống riêng tương đối độc lập với thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả, người sáng tạo ra nó. Vì “Tác giả không bao giờ hiện diện trong tác phẩm như một người kể, người phát ngôn. (…). Tác giả thực sự xuất hiện chỉ như người ghi, người sao lục lời kể, hoặc là người nghe trộm người kể. Người trần thuật là kẻ sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của người trần thuật đó mà sản phẩm là văn bản tự sự” [70, tr 7]. Là chủ thể tạo ra lời trần thuật, chủ thể trần thuật cũng đồng thời đảm nhận vai trò quy định việc lựa chọn điểm nhìn, sắp xếp bố cục những sự kiện, sự việc cũng như tìm lời trần thuật và giọng điệu trần thuật phù hợp nhất đối với câu chuyện sẽ được trần thuật. Mà sự lựa chọn này trước hết được thể hiện qua Các hình thức xuất hiện của chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự. 1.1.2 Các hình thức xuất hiện chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự: Như trên đã nói, một đặc điểm quan trọng của tác phẩm tự sự là tính “có chuyện” và “hành vi kể chuyện”. Và để thực hiện hành vi kể chuyện này đòi hỏi có sự xuất hiện của một chủ thể. Có nhiều cách và nhiều mức độ để chủ thể ấy hoặc “bộc lộ” hoặc “ẩn giấu” vai trò của mình trong suốt câu chuyện kể. Trong giới hạn nhất định, người viết chỉ dừng lại tìm hiểu hai hình thức xuất hiện chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự:
  16. 1.1.2.1 Chủ thể trần thuật ngôi thứ ba với phương thức trần thuật khách quan – chủ quan hóa: Có thể nói chủ thể trần thuật ngôi thứ ba (vô nhân xưng) là hình thức chủ thể trần thuật xuất hiện sớm nhất trong loại hình văn bản tự sự. Dấu vết của nó đã có từ trong các câu chuyện kể dân gian đậm tính “ẩn mình”, “không để lại dấu vết” và thậm chí là “tập thể” thay nhau thực hiện hành vi kể, được bắt đầu từ những “Ngày xửa, ngày xưa…” Với phương thức trần thuật khách quan hoá, chủ thể trần thuật có điều kiện thuận lợi để tạo nên độ tin cậy cho độc giả về tính khách quan của câu chuyện. Một khoảng cách luôn có giữa nhà văn và nhân vật cũng như giữa chủ thể trần thuật và sự việc được trần thuật. Khoảng cách này được tạo nên bởi điểm nhìn hướng ngoại mà chủ thể lựa chọn khi thuật kể. Từ đó, nó quy định lợi thế của người trần thuật bởi một góc nhìn rộng, bao quát đối với các vấn đề được kể. Và dù vẫn biết rằng nhân vật và sự kiện trong tác phẩm luôn được miêu tả theo quan điểm của tác giả nhưng với hình thức trần thuật ở ngôi thứ ba này, tác giả sẽ tạo cho người đọc cảm giác tin cậy hơn về độ “khách quan” của câu chuyện. Như thế sự tồn tại và vận động của chuỗi sự kiện, sự việc được thuật kể trong tác phẩm cũng hợp lý hơn và giàu tính thuyết phục hơn. Hơn nữa, khi lựa chọn vai kể ở ngôi thứ ba, chủ thể trần thuật đã tách mình khỏi câu chuyện, đứng ngoài câu chuyện và anh ta chỉ thực hiện hành vi kể lại câu chuyện bằng lời lẽ của mình theo đúng những gì tự nó đã diễn ra. Với cách kể này, người kể có thể kiềm chế được thái độ, tình cảm của mình khi phải thuật lại những câu chuyện, sự kiện nào đó làm nên biến cố, cuộc đời nhân vật. Từ đó, người kể có điều kiện hướng sự quan tâm của độc giả đến những sự kiện cùng tính chất của nó trong câu chuyện thông qua việc tạo cho độc giả cảm giác về sự vận động tự nhiên, vốn dĩ là thế trong đời sống của nhân vật gắn liền với tính cách và hoàn cảnh sống cụ thể của nó. Bakhtin, nhà nghiên cứu người Nga, trong một bài viết của mình đã đề cập đến tính “độc lập đặc thù” trong đời sống riêng của nhân vật. Theo Bakhtin, “Nhân vật trong tác phẩm cần được đặt ngang hàng với tác giả và nó nên được phối hợp trong một hình thức đặc biệt với lời lẽ của tác giả và giọng điệu của những nhân vật khác, những cái có giá trị toàn thể tương đương” [9; tr 29]. Nếu không quan tâm đến đặc điểm này của nhân vật, tác giả hay người kể gắn cho nhân vật những tính cách, để cho nhân vật hành động và xử lý những việc không phù hợp với mình thì tất họ sẽ phải gặp sự kháng cự của nhân vật. Và đó cũng là yếu tố làm nên những vết nối vụng về trong mắt xích logic nghệ thuật. Từ lý thuyết của Bakhtin ta thấy được vai trò đặc biệt quan trọng của sự tạo ra khoảng cách độc lập tương đối giữa tác giả và sự vận động tự thân của nhân vật trong câu chuyện kể. Và sự lựa
  17. chọn ngôi thứ ba cho hình thức xuất hiện của chủ thể trần thuật sẽ đem lại hiệu quả tích cực cho việc tạo ra những khoảng cách cần thiết đó. Tuy nhiên, cũng có những lúc, với vai kể ở ngôi thứ ba, chủ thể tham gia vào câu chuyện chỉ trong vai trò của một khán giả thay vì một nhà biên kịch có khả năng biết hết và hiểu hết. Như một nhận định của Wikipedia “Một câu chuyện hay phải có một người kể xác đinh rõ và kiên định (…). Người kể là một thực thể đơn nhất và giới hạn. Người kể không thể truyền đạt bất cứ điều gì mà anh ta không đối mặt với nó. Nói một cách khác, người kể nhìn câu chuyện từ điểm nhìn của anh ta trong thế giới hư cấu” [19; tr 27]. Điều này thật đúng với hình thức xuất hiện chủ thể trần thuật ngôi thứ ba nhưng theo hướng chủ quan hóa. Ở đây, chủ thể trần thuật sẽ vẫn giữ vai kể ở ngôi thứ ba nhưng đã chuyển điểm nhìn từ không tiêu điểm với “cái nhìn biết tuốt” và điểm nhìn từ bên ngoài với “cái nhìn thuần túy khách quan không thuộc về ai” sang điểm nhìn bên trong. Đó là điểm nhìn của nhân vật với “ý thức của một chủ thể làm chứng” [19; tr 27] Ở phương thức trần thuật này vì vẫn ở ngôi thứ ba nên chủ thể trần thuật vẫn giữ được một khoảng cách nhất định với nhân vật thông qua ngôi kể. Nhưng không cố định hẳn ở vai trần thuật của một người ngoài cuộc hoàn toàn mà trong những trường hợp nhất định chủ thể trần thuật sẽ di chuyển điểm nhìn của mình vào điểm nhìn của một nhân vật nào đó để quan sát sự việc hiện tượng từ điểm nhìn của nhân vật. Khi đó, điểm nhìn của chủ thể trần thuật sẽ hết sức linh hoạt, có lúc rất bàng quan trong việc che giấu cảm xúc, thái độ đánh giá nhưng cũng có lúc nhập hẳn vào nội tâm nhân vật, nói lên tiếng nói tự bên trong của nhân vật ấy. Xuất hiện ở phương thức trần thuật này, chủ thể trần thuật thường sử dụng lời gián tiếp hai giọng, còn gọi là lời nửa trực tiếp để trần thuật. Và trong văn tự sự, lời văn nửa trực tiếp này “không chỉ thể hiện được cái được kể mà còn tái hiện người kể. Nó mang dấu ấn về cách nói, cách cảm thụ thế giới và cuối cùng là mang tư chất trí tuệ và tình cảm của người trần thuật” [63; tr 288]. Cùng với lời văn gián tiếp một giọng thì lời văn nửa trực tiếp này sẽ góp phần làm cho lời thuật kể của chủ thể trần thuật trở nên sinh động hơn đồng thời cũng rút ngắn được khoảng cách giữa nhân vật, chuyện được kể và độc giả là người tiếp nhận câu chuyện kể đó. 1.1.2.2 Chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất với phương thức trần thuật chủ quan hóa: Thực hiện hành vi trần thuật bắt đầu từ điểm nhìn của người xưng Tôi trong tác phẩm, chủ thể trần thuật đã là một trong những nhân vật hiện diện trong tác phẩm. Bằng cách này, chủ thể trần thuật không chỉ thực hiện hành vi kể mà còn có thể trực tiếp tham gia vào tiến trình câu chuyện. Khoảng cách giữa chủ thể trần thuật và các nhân vật khác trong tác phẩm được rút ngắn đến mức tối đa. Chủ thể trần thuật đồng thời là nhân vật nên điểm nhìn được di chuyển vào bên trong. Từ đó, nó có được những điều kiện thuận lợi nhất để đi vào thế giới nội tâm của nhân vật,
  18. phân tích đến tận cùng những ngóc ngách ẩn khuất thuộc về cái riêng tư thầm kín của mỗi cá nhân cá thể. Nghĩa là với ngôi trần thuật này, chủ thể trần thuật có thể “nhìn thấy được tất cả mọi sự việc và có khả năng đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật” [34; tr 202]. Mà nói như Romanh Rolang “Đời sống đích thực là đời sống nội tâm” và Gorki “Lịch sử đích thực là lịch sử cá nhân” [38; tr 262] thì việc để chủ thể trần thuật xuất hiện trong tác phẩm với ngôi kể xưng Tôi, ngòi bút của tác giả đã chạm đến được phần cốt lõi nhất của cuộc sống, cái phần đích thực nhất trong “cõi nhân gian bé tí” mà ngoài văn học ra không có ngành khoa học nào vươn tới được. 1.2 Chủ thể trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu Chủ thể trần thuật Ngôi thứ III Ngôi thứ I (người kể xưng Hướng Tôi trong câu chuyện kể) nội Hướng (Điểm ngoại nhìn tập ST Tên tác phẩm (Điểm trung T Nhân nhìn tập bên Nhân Hỗn vật trung trong và chứng hợp chính bên Điểm ngoài) nhìn phức hợp) 1 Sau một buổi tập x 2 Con đường đến trường x học 3 Buổi tập cuối năm x 4 Gốc sắn x 5 Đôi đũa trúc x 6 Đất rừng x 7 Đất quê ta x 8 Trên vùng đất sỏi x 9 Những hạt thóc lép x 10 Vùng sáng ở chân trời x 11 Câu chuyện trên trận x địa 12 Mùa hè năm ấy x 13 Nguồn suối x 14 Nhành mai x 15 Những vùng trời khác x nhau 16 Chuyện đại đội x 17 Người mẹ xóm nhà thờ x 18 Mảnh trăng cuối rừng x 19 Lá thư vui x 20 Chú chim x 21 Chợ tết x
  19. 22 Sân cỏ ở Tây Ban Nha x 23 Hạng x 24 Giao thừa x 25 Bên đường chiến x tranh 26 Bức tranh x 27 Người đàn bà trên x chuyến tàu tốc hành 28 Cơn giông x 29 Mẹ con chị Hằng x 30 Đứa ăn cắp x 31 Sắm vai x 32 Hương và Phai x 33 Lũ trẻ ở dãy K x 34 Dấu vết nghề nghiệp x 35 Bến quê x 36 Chiếc thuyền ngoài xa x 37 Một lần đối chứng x 38 Khách ở quê ra x 39 Sống mãi với cây xanh x 40 Cỏ lau x 41 Mùa trái cóc ở miền x Nam 42 Phiên chợ Giát x Tổng số 5 15 10 9 3 Tỉ lệ 11.9% 35.7% 23.8% 21.4% 7.2% 1.2.1 Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu với chủ thể trần thuật ở ngôi thứ ba (người kể là tác giả không xưng danh hoặc là nhân vật trong tác phẩm) 1.2.1.1 Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu với chủ thể trần thuật ngôi thứ ba theo hướng khách quan hóa (điểm nhìn tập trung bên ngoài): Dạng thức trần thuật này xuất hiện khá khiêm tốn trong các truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 5/42 tác phẩm (11.90%). Trước năm 1975 là Mùa hè năm ấy, Chuyện đại đội và sau 1975 là Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K. Hiện lên trên trang văn và trong câu chuyện kể, người đọc nhận ra ở đây một chủ thể trần thuật đang cố làm rắn lòng mình lại trong vai trò của một quan sát viên, rất vô tư và công tâm thuật kể lại những điều mà “có vẻ” như anh đã tai nghe mắt thấy. Và như thế sự xuất hiện của chủ thể trần thuật là tương đối mờ nhạt và gần như vô hình. Chủ thể trần thuật ẩn mình trong lời kể khách quan trung tính với điểm nhìn hướng ngoại để nhân vật tự bộc lộ tính cách của mình qua lời nói, cử chỉ, việc làm và các mối quan hệ ứng xử khác đối với những người xung quanh.
  20. Ở Mùa hè năm ấy phẩm chất anh hùng đáng mến và dễ gần của người chiến sĩ cao xạ được thể hiện qua ánh nhìn với tất cả sự quan tâm thương yêu và thấu hiểu của họ dành cho những con người ở phía dưới phố xá kia, cũng là dưới vùng trời mà ngày đêm họ phải bảo vệ. Một đoạn đối thoại giữa Thịnh và Đảm: “- Đảm, cậu thử đoán cô bé kia đi đâu? - Cậu hỏi tớ con bé mặc áo cánh màu gụ, tóc đuôi gà, đang xách chiếc cặp lồng đi dưới gốc cây sữa sát tường ngồi nhà 3 tầng dưới kia phải không? Phải, buổi trưa nào mình cũng nhìn thấy con bé ấy đi dưới chân tường, nó sắp vượt qua đường tàu điện để vào con đường phố tít xa trong kia cho mà xem. - Dạo này đôi khi cậu cũng biết đảo mắt nhìn ra chung quanh đây. - Thế cô bé ấy đi đâu vậy? - Thánh mà biết được. - Thử đoán xem. Sau lại không thể biết? - Biết để làm gì kia chứ? – “Pháo ngủ” gắt. - Chẳng lẽ cậu chỉ cần biết độc một cái việc vác băng đạn chạy vòng quanh chân pháo mà thôi ư? Ít ra thì chúng mình cũng cần biết chúng mình đứng đây để bảo vệ cho cái gì chứ? Hãy nghe đây? Cô bé ấy mang cơm cho mẹ cô ta, nghe không? Mẹ cô ta là công nhân xưởng quân nhu – dãy nhà mái tôn sơn đỏ có hai cánh cổng sắt sơn xanh màu nước biển kia! Đấy là xưởng đóng dép lốp cao su cho bộ đội. Một đôi lần mình đã trông thấy mẹ cô ta từ nhà đi đến xưởng. Biết đâu đấy, đôi dép dưới chân cậu chẳng do chính tay mẹ cô ta đóng?” [11, tr 830]. Thu vào tầm mắt của Thịnh không chỉ là các ngôi nhà, góc phố với các bức tường san sát nhau mà còn là một cô bé Phi với “đôi mắt đen và những vẩy tro trắng bám trên hai vai áo màu cánh gụ” [11;tr 833] và cả cái gia đình ấm cúng của cô và đặc biệt là tính cách đảm đang, giỏi giang, chứa chan nhiệt thành yêu nước của người con gái mới lớn. Thịnh đã cảm nhận được lòng nhiệt thành của cô gái trẻ ấy trong cái “giận dữ” rất chính đáng của cô khi nhận được tin báo sắp đi học nước ngoài “lại còn đi học mãi, lại còn ra nước ngoài nữa cơ à? Sao không cho tôi ra mặt trận như mọi người”[11;tr 827] và cả cái băn khoăn, nghiêm trang của cô khi đứng trước anh mà nói về ước muốn được nhập ngũ của mình: “Cô gái hỏi người lính bằng giọng nghiêm nghị: - Giá cháu không đi học nữa, bây giờ cháu đã có thể xin đi thanh niên xung phong hay đi bộ đội được chưa? - Chưa đâu! Ngừng một lát người lính nói tiếp: - Công việc của cô bây giờ là đi học …
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0