intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

38
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cấu trúc của luận văn gồm phần Mở đầu, phần Kết luận, phần thư mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của luận văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1 - Tổng quan về vấn đề căn tính dân tộc và tác phẩm Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái; Chương 2 - Xác lập căn tính dân tộc qua sự đối kháng, giao lưu và tiếp nhận văn hoá Trung Hoa; Chương 3 - Xác lập căn tính dân tộc qua sự quay trở về với các yếu tố văn hoá bản địa. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ LÊ THỊ MINH THUÝ SỰ KIẾN TẠO CĂN TÍNH DÂN TỘC QUA VIỆT ĐIỆN U LINH VÀ LĨNH NAM CHÍCH QUÁI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội – 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ LÊ THỊ MINH THUÝ SỰ KIẾN TẠO CĂN TÍNH DÂN TỘC QUA VIỆT ĐIỆN U LINH VÀ LĨNH NAM CHÍCH QUÁI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8229030.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thu Hiền Hà Nội - 2020
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Đỗ Thu Hiền, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu, tập thể giảng viên, cán bộ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp đỡ, góp ý, tư vấn và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên cứu và học tập tại trường. Tôi xin tri ân sự động viên, khích lệ và ủng hộ của gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp tôi yên tâm và có thêm động lực để hoàn thành luận văn. Hà Nội, ngày …… tháng…….. năm……... Học viên cao học Lê Thị Minh Thuý
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi là Lê Thị Minh Thuý, học viên cao học lớp QH K 2018 – 2019, Khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội . Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu cá nhân dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Đỗ Thu Hiền, hiện là giảng viên khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn là sự trung thực, không sao chép ở bất cứ công trình nào khác. Vì vậy, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước cam kết cá nhân. Hà Nội, ngày ….. tháng ….. năm …… Học viên cao học Lê Thị Minh Thuý
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................3 2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................................5 3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................11 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................11 5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................12 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn...............................................................................13 7. Đóng góp của luận văn ..........................................................................................14 8. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................14 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ CĂN TÍNH DÂN TỘC VÀ TÁC PHẨM VIỆT ĐIỆN U LINH, LĨNH NAM CHÍCH QUÁI .................................15 1.1. Vấn đề căn tính dân tộc trong văn học trung đại Việt Nam ...............................15 1.1.1. Nội hàm về khái niệm căn tính dân tộc ...........................................................15 1.1.2. Căn tính dân tộc trong văn học .......................................................................17 1.1.3. Các biến động lịch sử và ý thức dân tộc .........................................................18 1.2. Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái trong sự vận động của lịch sử văn xuôi Việt Nam trung đại ....................................................................................................20 1.2.1. Khái lược về văn xuôi trung đại Việt Nam ......................................................20 1.2.2. Việt điện u linh và sự hình thành của nền văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại .........21 1.2.3. Lĩnh Nam chích quái và sự hình thành của nền văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại ...23 CHƢƠNG 2: XÁC LẬP CĂN TÍNH DÂN TỘC QUA SỰ ĐỐI KHÁNG, GIAO LƢU VÀ TIẾP NHẬN VĂN HOÁ TRUNG HOA ...............................................30 2.1. Sự giao lưu và tiếp nhận văn hóa Trung Hoa.....................................................30 2.1.1. Tư tưởng tôn giáo: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giao ........................................30 2.1.2. Nguồn gốc xuất thân các vị thần .....................................................................34 2.2. Tinh thần đối kháng với văn hóa Trung Hoa .....................................................36 2.2.1. Xác lập căn tính về nguồn gốc và giống nòi Việt Nam ...................................36 2.2.2. Diễn ngôn khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc .........................................41 2.3. Ý thức xây dựng đế chế và đạo sắc phong thần .................................................44 1
  6. 2.3.1. Ý thức xây dựng đế chế ...................................................................................44 2.3.2. Chiến đấu chống tà thần .................................................................................47 2.3.3. Thần quyền như một công cụ đắc lực duy trì quyền lực của giai cấp thống trị (âm phù) ....................................................................................................................52 2.3.4. Đạo sắc phong thần ........................................................................................56 3.1. Ảnh hưởng của văn hóa dân gian Việt Nam ......................................................62 3.1.1. Tín ngưỡng dân gian là một bộ phận của văn hóa dân gian ..........................62 3.1.2. Tín ngưỡng dân gian thờ nhân thần................................................................64 3.1.3. Tín ngưỡng dân gian thờ nhiên thần ...............................................................69 3.2. Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái trong mối quan hệ với Sử .................70 3.3. Sự quay trở về với yếu tố dân gian trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái nhìn từ yếu tố hình thức nghệ thuật...................................................................74 3.3.1. Type và motif dân gian ....................................................................................74 3.3.2. Yếu tố “linh” và “quái” ..................................................................................82 Tiểu kết Chương 3 .....................................................................................................85 KẾT LUẬN ..............................................................................................................87 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................91 2
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự bùng nổ công nghệ của thế kỷ XXI, chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc cách mạng công nghiệp 5.0. Thế giới giờ đây được coi như là một ngôi nhà chung và không có ranh giới đường biên. Vì thế những yếu tố thuộc về văn hoá truyền thống dân tộc, bản sắc dân tộc, căn tính dân tộc, tinh thần dân tộc... lại trở thành một vấn đề được quan tâm nhiều hơn trong thời gian gần đây. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành trung ương khoá VII đã khẳng định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là một động lực thúc đẩy vừa là một mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta. Vì thế tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều có nhiệm vụ nêu cao tinh thần dân tộc thể hiện ở việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tạo nên bản sắc văn hoá của dân tộc. Văn học, nghệ thuật cũng nằm trong quỹ đạo đó, đặc biệt lĩnh vực văn học có sứ mệnh thời đại quan trọng trong việc kiến tạo, duy trì, phát huy, gìn giữ tính dân tộc, bản sắc văn hoá dân tộc vì văn học chính là tư liệu, bằng chứng thể hiện tính cách, nhân cách, tâm hồn người Việt. Là những nhà Nho yêu nước với niềm tự hào về lịch sử, văn hoá của dân tộc mình, Lý Tế Xuyên và Trần Thế Pháp đã chép lại những câu chuyện về thần, người và đất Việt để con cháu đời sau ghi nhớ. Chính mục đích đó đã thôi thúc họ sưu tập và biên soạn nên hai cuốn sách có giá trị lớn lao: Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái. Việt điện u linh (cõi u linh của nước Việt) là công trình do Lý Tế Xuyên biên soạn tập hợp các truyền thuyết về các vị phúc thần được thờ ở đền, miếu nước ta. Lĩnh Nam chích quái (những truyện kỳ lạ thu góp được, lượm lặt được ở cõi Lĩnh Nam) do Trần Thế Pháp sưu tầm và biên soạn lại những truyền thuyết và cổ tích về cõi Lĩnh Nam được lưu hành trong dân gian. Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái là hai tác phẩm văn xuôi tự sự cổ nhất của nước ta mở đầu cho thời kỳ văn xuôi trung đại Việt Nam. Hai tác phẩm không chỉ có giá trị to lớn về văn học 3
  8. mà còn có giá trị lịch sử sâu sắc. Hơn nữa đây còn là hai tư liệụ vô giá phản ánh mọi mặt đời sống tinh thần của nhân dân ta từ thời tối cổ. Hai cuốn sách tồn tại như một hiện tượng “quý hiếm” với hai phạm trù lịch sử, hai phạm trù văn hóa đó là dân tộc và quốc gia. Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái là hai tác phẩm chứa đựng những yếu tố đặc trưng tính dân tộc Việt Nam vì chúng mang bề dày những chứng tích, trầm tích văn hóa dân gian về cội nguồn dân tộc, kết tinh sâu sắc của một nền văn hóa lâu đời, của một thời đại lịch sử, khái quát một cách toàn diện và sâu đậm những dấu ấn riêng về văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, hay tâm lí, tính cách con người Việt. Việc sưu tầm, biên soạn, sáng tác những truyện xưa, tích cũ có liên quan đến lịch sử dân tộc, văn hoá dân tộc, triều đại, dòng họ, thần tích, địa linh, đền miếu, anh tài nhân kiệt, đời sống tâm linh và sinh hoạt cộng đồng của người Việt cổ xưa,... đã khơi nguồn hồn cốt văn hoá và điểm tô diện mạo lịch sử dân tộc. Đồng thời trong từng thiên truyện của hai tác phẩm gửi gắm tình yêu tổ quốc, niềm tự hào, lòng tự tôn về tổ quốc. Với nguồn gốc giống nòi cao quý, sự hình thành quốc gia vững mạnh, ý thức xây dựng lãnh thổ rộng lớn, tinh thần khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc, những địa linh nhân kiệt xuất chúng, những giá trị văn hóa vật chất, giá trị văn hoá tinh thần,... đã chứng minh căn tính dân tộc Việt Nam không trộn lẫn với bất cứ quốc gia nào. Trở về với quá khứ lịch sử tức là trở về bản sắc dân tộc và cội nguồn tổ tiên. Nghiên cứu sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái chính là trở về cội nguồn dân tộc, các giá trị cố kết dân tộc. Những giá trị văn học, văn hoá, lịch sử của người đời xưa để lại chưa bao giờ vắng bóng trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt ngày nay và đã xuyên thấm trong tư tưởng, tình cảm của nhiều thế hệ, tạo nên một dòng chảy của lịch sử văn hóa dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm, hai cuốn sách này vẫn luôn là một trong những đề tài cuốn hút mạnh mẽ nhiều nhà học giả quan tâm. Từ trước đến nay, chúng được nhiều học giả hoài cổ lại, chấp bút “phục chế” lại trên những trang sách của mình. Hai tác phẩm được ghi chép, trùng bổ, khảo đính, biên dịch, giới thiệu, khảo cứu, nghiên cứu với mục đích bảo tồn, phát huy những truyền thống văn hóa dân tộc, thể hiện tình yêu và lòng tự hào Tổ quốc đồng thời phản ánh sự vận động tất yếu của 4
  9. tiến trình lịch sử, văn học nước nhà. Điều đó cho thấy giá trị to lớn, sức sống bất diệt và vị trí quan trọng của Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái. Thế nhưng, hai cuốn sách có sức sống mãnh liệt và giá trị quan trọng như vậy song vẫn có khoảng trống cho người viết nghiên cứu. Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết trên, chúng tôi quyết định lựa chọn “Sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái” làm đề tài cho luận văn của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Nghiên cứu về sự kiến tạo căn tính dân tộc qua hai tập Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái nói riêng gắn liền với nền văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại nói chung là một trong những đề tài được nhiều nhà học giả quan tâm và xoay quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau. Trong phần lịch sử vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước. Đã có nhiều công trình mang tính lý luận chung về hai tác phẩm Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái gắn liền với những tên tuổi của các tác giả: Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Đinh Gia Khánh, Trần Đình Sử, Nguyễn Đăng Na, Trần Nho Thìn, Nguyễn Hùng Vĩ, Tạ Chí Đại Trường,... Trước hết, chúng ta nhắc tới Vũ Quỳnh và Kiều Phú - hai người đầu tiên có công phát hiện và biên soạn Lĩnh Nam chích quái vì hai nhà sử gia đã nói lên niềm tự hào dân tộc trong những thiên truyện. Cách đây hơn năm trăm năm, trong bài tựa Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, Vũ Quỳnh đã viết:“.... Kẻ ngu tôi xin nghiên cứu gốc ngọn, trần thuật lại mà suy xét cho sáng tỏ ý người viết truyện. Xem Truyện Hồng Bàng thì hiểu rõ được việc lai do khai sáng nước Hoàng Việt; Truyện Dạ Thoa Vương lược thuật về điềm manh nha của nước Chiêm thành. Có Truyện Bạch Trĩ chép sự tích họ Việt Thường; Truyện Rùa Vàng chép sử vua An Dương Vương. Đồ sính lễ quý nhất nước Nam không gì bằng trầu cau cũng lấy đó mà biểu dương nghĩa vợ chồng, tình huynh đệ. Nước Nam Việt về mùa hạ không gì quý bằng quả dưa hấu cũng dùng nó mà kể truyện tự cậy vật báu của mình, quên cả ơn chúa. Truyện Bánh chưng ngợi khen lòng hiếu dưỡng; Truyện Ô Lôi răn dặn thói dâm ô, Đổng Thiên Vương phá giặc Ân, Lý Ông Trọng diệt Hung Nô, đủ để biết nước Nam 5
  10. có người tài giỏi. Chử Đồng Tử gá nghĩa cùng Tiên Dung, Thôi Vĩ tao phùng tiên khách cho nên ơn đức có thể thấy vậy. Những truyện Đạo Hạnh, Không Lộ khen việc báo được thù cha, các vị thần tăng ấy há có thể mai một sao? Những Truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh nêu rõ sức trừ yêu quái mà ơn đức Long Quân không thể quên được vậy! Hai Bà Trưng trung nghĩa, khi chết thành thần minh, treo cờ mà biểu dương, ai dám nói không được? Thần Tản Viên linh thiêng, trừ loài thủy tộc, nêu lên cho hiển hách, ai lại bảo không phải? Than ôi! Nam Chiếu là con cháu Triệu Vũ Đế, nước mất lại biết phục thù; Man Nương là mẹ Mộc Phật năm hạn làm được mưa rào; Tô Lịch là thần đất Long Đỗ; Xương Cuồng là thân cây chiên đàn; một đằng thì lập đàn tế lễ, dân được hưởng phúc, một đằng thì dùng trò vui mà trừ, dân được thoát hoạ, việc tuy kì dị mà không quái đản, văn tuy thần bí mà không nhảm nhí, tuy có phần hoang đường mà tông tích vẫn có phần bằng cứ, há chẳng phải chỉ cốt khuyên điều thiện, răn điều ác, bỏ giả theo thật để khuyến khích phong tục mà thôi ư!” [105, tr. 25]. Tuy trích dẫn hơi dài nhưng Vũ Quỳnh đã đưa ra những nhận xét vô cùng chính xác thâu tóm được cái thần, hồn của các thiên truyện. Nhận xét về mặt nội dung của hai tác phẩm, Đinh Gia Khánh có viết: “Viện điện u linh trước hết có giá trị lịch sử […] Việt điện u linh giúp ta tìm hiểu một phần nào đời sống tinh thần, tín ngưỡng, phong tục,... của một thời đại lịch sử rất xưa... Ngoài ra Việt điện u linh cũng mang những khía cạnh tích cực thuộc truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hầu hết các vị nhân quân, nhân thần đều là người nước ta, những công tích siêu việt của các vị đó há chẳng đáng cho dân tộc tự hào vì nhân vật nước ta hay sao? Các vị thần thuộc loại hạo khí anh linh há chẳng đủ biểu dương khí thiêng sông núi của đất nước ta hay sao?” [46, tr. 9]. Là người có công dịch Lĩnh Nam chích quái, ông cũng đưa ra một nhận xét rất sắc sảo tổng quát được nội dung cốt lõi của tác phẩm, đó là: “ít nhiều chúng ta vẫn thấy được ở các truyện ấy lòng yêu, ghét của nhân dân, yêu chính nghĩa, ghét phi nghĩa, yêu điều thiện, ghét điều ác, yêu cái gì có lợi cho nhân dân, ghét cái gì có hại cho nhân dân, đề cao những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người” [105, tr. 24]. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã có những nhận xét về Việt điện u linh như sau: “Việt điện u linh tập, một quyển, Lý Tế Xuyên đời Trần 6
  11. soạn, chép những truyện linh dị về các đền thần nước ta, chuyện nào cũng chép kỹ lưỡng.... Tập này chép những đế vương và bề tôi các đời, những người có tiếng anh linh, gồm 28 truyện” [80, tr. 45]. Trần Quốc Vượng trong công trình Văn hoá Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, ở mục “Từ việc nghiên cứu một số tên riêng trong các truyền thuyết nói về thời kỳ dựng nước” cụ thể là thời kỳ Hùng Vương – An Dương Vương đã nghiên cứu về một số thiên truyện trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái với mục đích khôi phục dần vốn từ vựng cơ bản và hệ thống ngữ âm tiếng Việt cổ nhằm khẳng định rằng tên riêng trong truyền thuyết là một nguồn tài liệu quý đối với ngôn ngữ học lịch sử đặc biệt đối với giai đoạn lịch sử trước thế kỷ X ở nước ta. Bên cạnh đó ông cũng cho rằng truyền thuyết có tính “dân gian hoá” và bản thân nó không phải lịch sử. Trần Đình Sử trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam cho rằng Việt điện u linh thuộc truyện thần linh còn Lĩnh Nam chích quái tiêu biểu cho truyện thần quái Việt Nam. Hai chữ “u linh” trong Việt điện u linh đã nói rõ đối tượng thể hiện trong truyện là các thần linh thông minh, chính trực được phong tặng danh hiệu và được thờ cúng dó có công đức với đất nước. Chính đặc điểm này làm cho tác phẩm thuần nhất, linh thiêng [108, tr. 340]. Ông còn cho rằng so với Việt điện u linh và Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái có sự đa dạng về nội dung và thể loại, có truyện thần, có truyện quái, có truyền thuyết lịch sử, có truyện cổ tích, truyện tình yêu, truyện tiên, truyện Phật, truyện trong nước, truyện ngoài nước,... Cái mới của Lĩnh Nam chích quái là thu thập được nhiều truyện quái lạ về cội nguồn dân tộc, anh hùng dân tộc, thần thiêng sông núi, về các phong tục độc đáo, về chiến công trừ hại của tiên nhân. Ý thức về dân tộc, dòng giống, quốc gia qua các truyện ấy là hết sức rõ rệt. Ngoài ra còn có truyện đền ơn, truyện dị nhân, truyện báo oán, thác sinh, truyện hiếu sắc... Tình tiết các truyện đã phức tạp hơn nhiều [108, tr. 344]. Nguyễn Đăng Na trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, dựa trên xu hướng phát triển của văn xuôi tự sự, ông xếp Lĩnh Nam chích quái vào xu hướng dân gian (sưu tầm, ghi chép, cải biên truyện dân gian) nhưng cũng có mầm 7
  12. mống của xu hướng thế tục và Việt điện u linh vào xu hướng lịch sử (sưu tầm, ghi chép về nhân kiệt địa linh đất Việt, bao gồm các nhân vật lịch sử (người, thần) và các sự kiện lịch sử) [59, tr. 34- 42]. Nguyễn Hùng Vĩ trong bài viết Lĩnh Nam chích quái từ điểm nhìn văn hoá, đăng trên Tạp chí nghiên cứu văn học (số 8), trang 98 - 112, năm 2006 cho rằng “Lĩnh Nam chích quái là một tượng đài tinh thần cổ kính vừa thiêng liêng vừa kì diệu. Đó là một kì quan văn hóa kết tụ qua thăng trầm của một lịch sử phức tạp nhưng đầy quyết tâm cho độc lập dân tộc, cho văn hiến bản địa... Về cấu trúc, Lĩnh Nam chích quái đã hướng hẳn về cội nguồn dân tộc, về phía nhân dân và văn hóa bản địa.” Đồng thời, ông nhấn mạnh tư tưởng ái quốc trong tác phẩm chính là kim chỉ nam cho mọi học giả dù tiếp cận tác phẩm dưới bất cứ phương pháp khoa học ngữ văn nào. Ông còn cho rằng với 22 cốt truyện, mỗi câu chuyện là một diễn ngôn lịch sử, “Lĩnh Nam chích quái trình diễn trước chúng ta ý thức về truyền thống lịch sử riêng của đất nước từ buổi hồng hoang đến những câu chuyện xảy ra ở thời đại nhà Trần. Sau này, các bậc túc nho giàu nhiệt huyết có bổ sung thêm bao nhiêu đi nữa thì vẫn theo tư tưởng đó: đây là những câu chuyện được truyền ở cõi Lĩnh Nam, khác với Trung Hoa.” Bên cạnh đó về mặt nghệ thuật, ông còn chỉ ra Lĩnh Nam chích quái là “sử trong truyện” với kiểu tự sự trầm tích và kết cấu các thiên truyện theo mạch thẳng của trình tự thời gian đồng dạng với kiểu chí quái, truyền kì. Tạ Chí Đại Trường trong Thần, người và Đất Việt, tác giả đã có những đóng góp về phương pháp nghiên cứu mới về tôn giáo và tín ngưỡng. Tác giả đã nhấn mạnh những biến chuyển văn hóa ẩn sâu dưới lớp hỗn độn của thần thoại, huyền sử và tín ngưỡng. Trong đó tác giả nhắc tới “Lĩnh Nam chích quái vì là truyện dân gian, chỉ cần có các dấu vết niên đại đủ làm nên khung truyện, còn nội dung thì dàn trải ra trong sự phô diễn phần ý thức xã hội…” [87, tr. 27]. Tác giả không chỉ dừng lại ở việc khảo sát hệ thống thần linh thủa sơ khai với các Nhiên thần: các thần Cây đá, thần Sông nước và các Nhân thần như Cao Lỗ, An Dương Vương, Hai Bà Trưng,… mà còn đặt những bước đi đầu tiên trong việc làm sáng tỏ chiều hướng kết tập thần linh mới. 8
  13. Trần Đăng Trung trong bài viết “Mối quan hệ giữa quyền lực và diễn ngôn văn chương qua trường hợp Lĩnh Nam chích quái” (2014), đăng trên tạp chí nghiên cứu Văn học (số 2), tr 88 – 98 chỉ ra rằng: “Lĩnh Nam chích quái không đơn thuần chỉ là sưu tầm, biên soạn hay bảo tồn các sáng tác dân gian, mà sâu xa hơn, tất cả các truyện kể ở đây đều nhằm tới việc xây dựng và củng cố quyền lực phong kiến trên hai bình diện chính: kiến tạo một ý niệm chính thống về vương quyền và độc tôn các giá trị của ý thức hệ Nho giáo, tất nhiên, theo những cách hết sức tinh vi và không dễ nhận ra.” Mặc dù 22 cốt truyện là những sáng tác truyền miệng đặc sắc dân gian, nhưng các quan điểm của học thuyết Nho giáo, hệ giá trị thuộc về tầng lớp thống trị khẳng định vị trí tối thượng của vua có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và xuyên suốt “như một quyền lực chi phối sự hình thành văn bản Lĩnh Nam chích quái. Hệ thống các yếu tố mang tính chất phong kiến ở đây phải được nhìn nhận như một trung tâm kiến tạo ý nghĩa của tác phẩm.” [97, tr. 88 -98] Bên cạnh đó, Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái còn là đối tượng tìm hiểu của các luận án, luận văn Thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp. Xu hướng chung của các công trình nghiên cứu là phương diện nghệ thuật của hai tác phẩm. Đào Phương Chi trong luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu văn bản Việt điện u linh và quá trình dịch chuyển văn bản ( 2006) đã khảo sát toàn bộ các văn bản Việt điện u linh hiện còn để tìm ra một văn bản gần với bản gốc nhất. Đào Phương Chi cũng cho rằng giữa Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái có sự khai thác một số nhân vật giống nhau ở các thiên truyện như: Lý Ông Trọng, Trương Hống, Trương Hát, thần Tô Lịch, thần Tản Viên nhưng mỗi tác phẩm có chức năng khác nhau. Tác giả luận án khẳng định Việt điện u linh là tác phẩm văn học chức năng lễ nghi được viết một cách tóm lược còn Lĩnh Nam chích quái là tác phẩm dân gian mang đặc trưng văn học nghệ thuật thiên về kể và khai thác tình tiết. Vũ Thị Hương trong luận án Nghiên cứu so sánh Sư thần ký (Trung Quốc) với một số truyện chí quái Việt Nam từ góc độ đặc trưng thể loại và ngôn ngữ Hán văn năm 2016 chỉ ra đặc trưng riêng thể loại chí quái của mỗi nước song về hình thức ngôn ngữ cơ bản là giống nhau. Bên cạnh đó, tác giả luận án chỉ ra một số hiện tượng ngữ pháp tiêu biểu cho thể loại chí quái. Đó là hiện tượng ngữ pháp bạch 9
  14. thoại thời kỳ đầu. Đồng thời chỉ ra câu tồn tại và câu phán đoán là hai loại câu tiêu biểu được sử dung làm câu mở đầu của chí quái như một khuôn mẫu nhất định. Kim Kỳ Hiền trong luận án Nhân vật trong truyền kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc dưới góc nhìn so sánh năm 2019 tiến hành phân tích hai kiểu nhân vật tuyến nhần vật kỳ ảo và tuyến nhân vật bình thường gắn bó chặt chẽ và thể hiện sinh động những vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn con người, những thuần phong mỹ tục, văn hoá truyền thống Việt Nam cũng như Hàn Quốc thời đại lúc bấy giờ. Nhìn chung, qua nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại của Việt Nam và Hàn Quốc, những chiều cạnh văn hoá được biểu hiện như văn hoá Phật giáo, văn hoá Nho giáo, văn hoá Lão – Trang. Đồng thời tác giả luận án cũng khẳng định truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc có quá trình hình thành, phát triển khá sớm dựa trên cơ sở tiếp thu truyền thống văn học dân gian của mỗi dân tộc. Bên cạnh đó còn có một số luận văn thạc sĩ: Đinh Thị Lệ Phương trong bài viết Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái năm 2017 đã phân tích một cách toàn diện và có hệ thống về thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái đồng thời chỉ ra những đặc trưng cơ bản của hệ biểu tượng này cũng như các phương thức cơ bản xây dựng biểu tượng. Nguyễn Thị Huyền Thu trong bài viết Phương thức thể hiện nhân vật kỳ ảo trong truyện chí quái Việt Nam (Qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái lục) năm 2017 đã chỉ ra và phân tích các phương thức xây dựng nhân vật kì ảo mà Lý Tế Xuyên, Trần Thế Pháp sử dụng. Từ đó, có thể thấy được những thành tựu trong xây dựng nhân vật kì ảo của Việt điện u linh tập và Lĩnh Nam chích quái lục. Nhận thức được những đặc điểm nghệ thuật của thể loại truyện chí quái Việt Nam giai đoạn đầu. Góp phần hình dung thêm về con đường hình thành và phát triển của văn xuôi kì ảo Việt Nam nói riêng và văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam nói chung. Như vậy, điểm qua đã có những nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái. Những công trình này chưa đi sâu vào sự kiến tạo căn tính dân tộc. Chính vì vậy, trên tinh thần tiếp thu kết quả và sự gợi ý của những công trình nghiên cứu đã có trước đây, trong luận văn này chúng tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu sự kiến tạo căn tính dân tộc trong hai tác phẩm 10
  15. trên nhằm đưa ra những phát hiện góp phần mở rộng và phát triển thêm giá trị của hai tác phẩm đầu tiên của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam. Bàn luận về sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái là một công việc có ý nghĩa. Chúng tôi mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình để tìm hiểu về tính dân tộc, cội nguồn dân tộc, tinh thần dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc thể hiện tâm hồn, tính cách, nhân cách con người Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Tiến hành nghiên cứu sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái, chúng tôi nhằm: - Chỉ ra vấn đề căn tính dân tộc trong văn học trung đại Việt Nam. - Nghiên cứu sự xác lập căn tính dân tộc qua sự đối kháng, giao lưu và tiếp nhận văn hóa Trung Hoa. - Nghiên cứu sự xác lập căn tính dân tộc qua sự quay trở về với các yếu tố văn hóa bản địa. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi sẽ nghiên cứu sự kiến tạo căn tính dân tộc được thể hiện trong hai tập Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái. Đồng thời chúng tôi sẽ tìm hiểu và tham khảo thêm nội dung các tài liệu sử học khác, các tài liệu văn học khác gắn liền với hai bộ phận văn học: văn học dân gian, văn học trung đại để thấy sự kiến tạo căn tính dân tộc biểu hiện trong hai tập Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh nói riêng và văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại nói chung. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong điều kiện còn khá nhiều dị bản và rất phức tạp trong quá trình truyền bản của hai tác phẩm, chúng tôi tập trung nghiên cứu và khảo sát các thiên truyện trong tập Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên do Trinh Đình Rư dịch theo bản A.751 của Thư viện Khoa học Xã hội được Đinh Gia Khánh giới thiệu, xuất bản năm 1960, nhà xuất bản Văn hoá. 11
  16. Về tác phẩm Lĩnh Nam chích quái, trong tình hình tài liệu hiện nay, việc tìm ra bản Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp là rất khó vậy nên chúng tôi khảo sát và nghiên cứu bản dịch của Vũ Quỳnh, Kiều Phú sưu tập biên soạn ở thế kỷ XV và Đinh Gia Khánh (chủ biên), Nguyễn Ngọc San biên khảo, giới thiệu in lần thứ hai có sửa chữa, bổ sung của nhà xuất bản Văn học Hà Nội năm 1990. Căn cứ vào nhu cầu thực tiễn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sự kiến tạo căn tính dân tộc qua hai tập Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh về những phương diện: đề tài, thi pháp, thể loại, khuynh hướng sáng tác, hình tượng nhân vật, motif và type, sự ảnh hưởng môi trường văn hóa, bản sắc dân tộc gắn liền với sự hình thành tín ngưỡng tâm linh của người Việt… nhằm có cái nhìn tổng thể và khái quát về sự kiến tạo căn tính dân tộc Việt Nam. Qua việc nghiên cứu và bàn luận về sự kiến tạo căn tính dân tộc trong văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam qua hai tập Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh chúng tôi muốn chỉ ra điểm đặc sắc trong cội rễ văn hoá, các giá trị cố kết dân tộc, nét truyền thống, sự kế thừa tinh hoa của nền văn học dân tộc. Đồng thời chỉ ra những sáng tạo, cách tân trong phương pháp, tư duy lý luận thực tiễn trong việc nghiên cứu của những học giả ngày nay khi tìm về những giá trị truyền thống văn hóa, văn học dân tộc. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn này chúng tôi sẽ sử dụng những phương pháp chủ yếu dưới đây: - Phương pháp tiếp cận thi pháp học: sử dụng phương pháp này để nghiên cứu sâu về phương diện nghệ thuật trong mối quan hệ với nội dung để chỉ ra những đặc trưng nghệ thuật, quá trình hình thành và phát triển của hai tác phẩm. - Phương pháp liên ngành: kết hợp giữa các phương pháp tiếp cận văn hoá học, phương pháp lịch sử, để giải quyết vấn đề một cách toàn diện, khách quan: + Phương pháp tiếp cận văn hoá học: vận dụng những tri thức về văn hoá để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp, nội dung của hai tác phẩm đồng thời thấy được tinh thần dân tộc, đời sống cộng đồng, đời sống tâm linh con người Việt Nam. + Phương pháp lịch sử: Văn học là một hình thái ý thức xã hội được đặt trong hệ quy chiếu của bối cảnh lịch sử xã hội. Nghiên cứu hai văn bản Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái không thể không đặt trong bối cảnh lịch sử ra đời của hai tác 12
  17. phẩm, những tác động của lịch sử trong quá trình hình thành và phát triển của hai văn bản. Bên cạnh đó, hai văn bản này có chứa đựng nhiều giá trị sử học nên cần phải xem xét nó trong mối quan hệ với lịch sử để khẳng định tính khách quan và xác thực. - Phương pháp tự sự học: nghiên cứu cấu trúc, đặc điểm nghệ thuật trần thuật của hai tác phẩm. Từ đó, chúng ta hình dung thêm về con đường hình thành và phát triển của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam. - Phương pháp phân tích – tổng hợp: đi sâu phân tích sự kiến tạo căn tính dân tộc Việt Nam trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái trên hai khía cạnh nội dung và thi pháp nghệ thuật. Sau khi đã nghiên cứu các chi tiết, sự kiện, nội dung của các thiên truyện, chúng tôi tiến hành kết luận, tổng hợp lại những nội dung, phương diện hình thành nên căn tính dân tộc Việt Nam qua hai tác phẩm. Ngoài ra, chúng tôi còn kết hợp với các thao tác: + So sánh: chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu hai tác phẩm. Đồng thời chúng tôi còn tiến hành so sánh các thể loại văn học với nhau, giữa truyền thuyết, thần thoại và sử ký để thấy được nét tương đồng và khác biệt. + Thống kê: các thiên truyện, các nhân vật, các vị thần, địa danh, tình tiết trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái để hình dung cụ thể về hệ thống nhân vật, các vị thần thánh trong hai tác phẩm. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Nếu thực hiện tốt luận văn chúng tôi sẽ xác lập được sự kiến tạo căn tính dân tộc được thể hiện qua hai tác phẩm Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái. Điều này sẽ hoàn thiện thêm cho việc tiếp cận hai tác phẩm này dưới góc độ nội dung, tư tưởng. Mặt khác, việc chỉ ra được cụ thể, rõ ràng sự phát triển giữa Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái sẽ góp phần vào việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam. Nghiên cứu “Sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái” còn cung cấp những tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy hai tác phẩm này. 13
  18. 7. Đóng góp của luận văn Luận văn Sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái sẽ đóng góp vào việc xác lập căn tính dân tộc Việt Nam qua Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái. Đồng thời giúp bạn đọc có cái nhìn toàn diện và thấu đáo hơn khi đánh giá hai tác phẩm và hiểu thêm về con đường đi của thể loại văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại. Thực hiện đề tài này, người viết chỉ mong được coi là đã đóng góp một phần công sức nhỏ bé trong hành trình trở về cội nguồn dân tộc. Đây cũng là một vấn đề không giản dị, đòi hỏi người viết phải có tri thức, kĩ năng thấu hiểu văn hoá, lịch sử và văn học nước nhà. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, phần thư mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của luận văn được bố cục thành 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Tổng quan về vấn đề căn tính dân tộc và tác phẩm Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái. Chương 2: Xác lập căn tính dân tộc qua sự đối kháng, giao lưu và tiếp nhận văn hoá Trung Hoa. Chương 3: Xác lập căn tính dân tộc qua sự quay trở về với các yếu tố văn hoá bản địa. 14
  19. CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ CĂN TÍNH DÂN TỘC VÀ TÁC PHẨM VIỆT ĐIỆN U LINH, LĨNH NAM CHÍCH QUÁI 1.1. Vấn đề căn tính dân tộc trong văn học trung đại Việt Nam 1.1.1. Nội hàm về khái niệm căn tính dân tộc Các khái niệm: Quốc gia/dân tộc/quốc gia tính/dân tộc tính/Căn tính dân tộc/bản sắc dân tộc (nation/nationality/nationalism) đều có sự giống nhau và cùng một trường từ vựng. Do đó việc định nghĩa những khái niệm này là vô cùng khó khăn. Vì thế trước khi đi vào bài nghiên cứu một cách chi tiết và cụ thể, chúng tôi sẽ xem xét vắn tắt về hai khái niệm “dân tộc” và “căn tính dân tộc” để đưa ra một định nghĩa hợp lí nhất. Trước hết chúng tôi bàn luận về khái niệm dân tộc (nation). Benedict Anderson trong công trình nghiên cứu Những cộng đồng tưởng tượng do Lưu Ngọc An dịch cho rằng: các khái niệm “dân tộc”, “căn tính dân tộc” được hình thành vào cuối thế kỷ XVIII như là một cấu trúc xã hội để thay thế các chế độ quân chủ, trật tự xã hội nặng về tôn giáo trước đây [2, tr. 29]. Với một tinh thần nhân học, Benedict Anderson nhận định: dân tộc là một cộng đồng chính trị tưởng tượng - được tưởng tượng có giới hạn và chủ quyền một cách cố hữu [2, tr. 23]. Nó được tưởng tượng nên bởi lẽ các thành viên của ngay cả những dân tộc nhỏ nhất cũng không bao giờ biết hết đồng bào của mình, gặp họ hay thậm chí nghe nói về họ, nhưng trong ý thức mỗi người vẫn duy trì một hình ảnh về cộng đồng mình”. Có nghĩa là, theo ông, cái gọi là quốc gia/dân tộc, không phải là điều gì có sẵn và có tính thực hữu, mà chỉ là một sự tưởng tượng - hay dùng thuật ngữ của ông: “một cộng đồng được tưởng tượng mà ra”. Những cộng đồng đó mang trong mình những “giới hạn” (mọi quốc gia dân tộc đều có biên giới), “chủ quyền” như một “cộng đồng” và có một dân số nhất định, chứ không phải một thực thể hữu cơ, vĩnh cửu [2, tr. 25]. Bên cạnh đó, cũng theo ông, các căn tính (indentity) của một dân tộc không phải là một thực thể tồn tại hoàn toàn khách quan tự nhiên mà là những tạo tác văn hóa có tính nhân tạo. Do vậy, căn tính dân tộc không phải là một yếu tố được hình thành một 15
  20. cách khách quan, lịch sử mà được hun đúc lên từ một loạt các yếu tố văn hóa dân tộc bắt đầu từ các huyền thoại về tổ quốc đến các nhân vật lịch sử. Dân tộc thuộc phạm trù lịch sử, phạm trù văn hóa. Có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về khái niệm dân tộc. Theo quan niệm của một số nhà sử học, “dân tộc” là những cộng đồng người được hình thành trong quá trình lịch sử, trên cở sở những chung đụng về giống nòi, ngôn ngữ, lãnh thổ, tổ chức đời sống chính trị, đời sống kinh tế và văn hoá, đặc biệt là về truyền thống văn hoá. Mỗi dân tộc đều có quá trình hình thành và phát triển không giống nhau gắn liền với điều kiện lịch sử, địa lý, văn hoá, tâm lý,... dân tộc ấy. Dân tộc khác với chủng tộc và giai cấp. Chủng tộc là cơ sở tập hợp dựa trên sự khác nhau của đặc tính di truyền về màu da, màu tóc, cấu tạo cơ thể hay các đặc tính về khuôn mặt. Cũng cần phân biệt dân tộc với bộ lạc, bộ lạc là một phạm trù nhân chủng chỉ có trong chế độ cộng sản nguyên thủy, còn dân tộc là một phạm trù lịch sử do những người thuộc nhiều chủng tộc, bộ lạc họp nhau lại mà thành. Còn giai cấp đề cập đến các bậc thứ khác nhau để phân biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người trong các xã hội hoặc các nền văn hóa dựa trên cơ sở địa vị khác nhau, sở hữu vật chất khác nhau và thành quả lao động khác nhau trong một hệ thống sản xuất, hình thái xã hội nhất định của giai đoạn lịch sử cụ thể. Dân tộc là một cộng đồng người, nó bao gồm nhiều giai cấp. Đặc tính dân tộc không thể và không phải là những gì chung cho mọi giai cấp, mọi người trên cùng một lãnh thổ. Về khái niệm căn tính dân tộc. Đó là đặc tính, tính chất riêng biệt chỉ có ở một dân tộc nào đó làm nổi bật lên bản sắc của dân tộc ấy. Đó là cái làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác dựa trên cơ sở những giá trị vốn có, sẵn có hay tái tạo và sáng tạo từ những giá trị văn hóa của dân tộc khác. Trong bài nghiên cứu này, căn tính dân tộc được hiểu là những nét tiêu biểu, đặc trưng về lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán, tổ chức đời sống sinh hoạt cộng đồng, đời sống tâm linh, thói quen, tính cách, tín ngưỡng,... của một dân tộc nào đó. Ở nhiều nước Âu - Mĩ , dân tộc sinh ra trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, còn ở Việt Nam, dân tộc được hình thành từ rất sớm, có thể bắt đầu có từ khi lập nước. Ðiều kiện để dân tộc Việt Nam hình thành sớm là do các cộng đồng người cần liên kết nhau lại để chống thiên tai, để sản xuất lúa nước, để 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2