intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Thành lập quỹ Bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

131
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: thành lập quỹ bảo hiểm xã hội thành phần ở bảo hiểm xã hội việt nam', luận văn - báo cáo, thạc sĩ - tiến sĩ - cao học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thành lập quỹ Bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam

  1. LUẬN VĂN: Thành lập quỹ Bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam
  2. Lời nói đầu Nền kinh tế nước ta mới chuyển đổi và đang có những bước phát triển mới. Song “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” (Trích văn kiện Đại hội Đảng lần VIII). Chính sách bảo hiểm xã hội đã phục vụ cho lợi ích của người lao động, thực sự vì sự công bằng, tiến bộ xã hội và được xác định là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta - Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt nam đã trải qua chặng đường hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành kể từ Nghị định 218/CP ngày 27.12.1961 ban hành Điều lệ tạm thời các chế độ bảo hiểm xã hội, đã phát huy được vai trò tích cực đối với xã hội, bình ổn đời sống người lao động, khẳng định được vai trò không thể thiếu trong hệ thống chính sách xã hội của nhà nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Chính sách bảo hiểm xã hội cũng được đổi mới thích ứng. Điều dó thể hiện rõ tại chương XII Bộ Luật lao động và Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26.01.1995 của Chính phủ. Một trong những nội dung đổi mới đó là: Thành lập quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với ngân sách nhà nước. Từ đây chúng ta đã có một quỹ bảo hiểm xã hội độc lập để từ đó phát huy được vai trò, tác dụng của chính sách bảo hiểm xã hội theo đúng nghĩa của nó trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nhìn lại chặng đường đã qua, ngành Bảo hiểm xã hội nói chung và quỹ bảo hiểm xã hội nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập mà trong khuôn khổ bài luận văn này xin được đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quỹ bảo hiểm xã hội. Đó là “Thành lập quỹ Bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam ”. Nội dung ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm ba chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm xã hội Chương II: Thực trạng tổ chức quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam hiện nay. Chương III: Thành lập quỹ Bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam.
  3. Việc thành lập quỹ bảo hiểm xã hội thành phần ở Việt nam hiện nay là một vấn đề lớn và hết sức mới mẻ. Hơn nữa, mặc dù rất tâm huyết với đề tài song do hạn chế về thời gian cũng như năng lực, do đó đã không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và những ai quan tâm đến đề tài.
  4. Chương I Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội và Quỹ bảo hiểm xã hội I. Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội (BHXH) 1. Bảo hiểm xã hội trong đời sống người lao động. Xã hội loài người phát triển thông qua quá trình lao động và sản xuất, thế nhưng chính quá trình ấy một mặt đã đưa con người tới bước phát triển vượt bậc, mặt khác lại là căn nguyên của những nỗi lo thường trực của con người vì trong quá trình lao động và sản xuất con người luôn đứng trước nguy cơ gặp phải rủi ro bất ngờ sảy ra ngoài mong đợi: Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, ở, mặc và đi lại ... để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để sản xuất ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng của họ. Thế nhưng, trong thực tế không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều phát sinh ngẫu nhiên làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ suy giảm... khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; Đi vay, đi xin hay dựa vào sự cứu trợ của nhà nước... song đó là những cách làm thụ động và không chắc chắn.
  5. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi sảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không mong muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro sảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ xung từ ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được bảo đảm ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Bảo hiểm xã hội ra đời đã giải quyết được mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ- thợ và kết hợp hài hoà lợi ích giữa các bên:  Đối với người lao động: Góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ kông may bị mất hoặc giảm thu nhập, tạo điều kiện cho họ yên tâm sản xuất và công tác, gắn bó lợi ích của mình và gắn bó lợi ích của chủ sử dụng lao động và lợi ích của nhà nước.  Đối với người sử dụng lao động: Giúp họ ổn định sản xuất kinh doanh tránh được những thiệt hại lớn khi phải chi ra những khoản tiền lớn khi không may người lao động mà mình thuê mướn gặp rủi ro trong lao động, đặc biệt thông qua bảo hiểm xã hội lợi ích của người sử dụng lao động với người lao động được giải quyết hài hoà tránh những căng thẳng không cần thiết.
  6.  Đối với xã hội: Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách bảo đảm an toàn cho xã hội, đặc biệt quỹ Bảo hiểm xã hội là một nguồn đầu tư rất lớn góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế, thông qua đó gắn bó lợi ích của tất cả các bên tham gia. 2. Khái niệm, đối tượng và chức năng của Bảo hiểm xã hội a, Khái niệm Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một nguồn quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao dộng và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. b, Đối tượng của bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội là một hệ thống bảo đảm khoản thu nhập bị giảm hoặc mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu... Chính vì vậy, đối tượng của bảo hiểm xã hội chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi của những người tham gia bảo hiểm xã hội. Chúng ta cũng cần phân biệt giữa đối tượng của bảo hiểm xã hội và đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, ở đây đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chính là những người lao động đứng trước nguy cơ mất an toàn về thu nhập và cả những người sử dụng lao động bị ràng buộc trách nhiệm trong quan hệ thuê mướn lao động. c, Chức năng của Bảo hiểm xã hội  Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập bị giảm của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra, vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của bảo hiểm xã hội. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết. Đây là chức năng cơ bản nhất của bảo hiểm xã hội, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của bảo hiểm xã hội.
  7.  Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nhiều nguồn: Người lao động, người sử dụng lao động và cả Nhà nước... Tuy nhiên chỉ những người lao động gặp phải các rủi ro biến cố được bảo hiểm mới được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Bảo hiểm xã hội thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập thông qua việc lấy sự đóng góp của số đông người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bù đắp cho số ít người lao động không may gặp các rủi ro trong quá trình lao động. Việc phân phối được thực hiện theo cả chiều dọc và chiều ngang: Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc... Thực hiện chức năng này có nghĩa là bảo hiểm xã hội đã góp phần thực hiện công bằng xã hội.  Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Có thể nói bảo hiểm xã hội đã làm triệt tiêu đi nỗi lo ngại của người lao động về bệnh tật, tai nạn lao động hay tuổi già... Bằng các khoản trợ cấp đủ để đảm bảo ổn định cuộc sống của người lao động, tạo nên tâm lý yên tâm cho người lao động, đặc biệt là với những người lao động làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ... Chức năng này biểu hiện như là một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động trong hoạt động lao động sản xuất.  Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Mâu thuẫn trong quan hệ chủ -thợ vốn là mâu thuẫn nội tại mà bản thân nó khó có thể giải quyết hoặc giải quyết với sự tiêu tốn lớn nguồn lực xã hội ( chẳng hạn như những cuộc biểu tình đòi quyền lợi gây đình trệ quá trình sản xuất... ) và cách thức dường như là tốt nhất để giải quyết mâu thuẫn này là tham gia bảo hiểm xã hội mà trong đó quyền lợi của cả hai bên đều được bảo vệ, từ đó góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được bình ổn và không ngừng phát triển. 3.Tính chất của Bảo hiểm xã hội  Tính tất yếu, khách quan trong đời sống xã hội: Chúng ta biết rằng bảo hiểm xã hội ra đời do xuất hiện những mâu thuẫn trong hệ chủ-thợ. Người lao động trong quá trình lao động khó có thể tránh được những biến cố,
  8. rủi ro, có những trường hợp rủi ro xảy ra như là một tất yếu. Khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình trạng khó khăn bởi sự gián đoạn trong sản xuất kinh doanh. Khi nền sản xuất càng phát triển thì những rủi ro trong lao động càng nhiều và trở lên phức tạp dẫn đến mối quan hệ chủ-thợ ngày càng căng thẳng và nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua bảo hiểm xã hội. Do đó, Bảo hiểm xã hội hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.  Tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian: Xuất phát từ những rủi ro mang tính ngẫu nhiên không lường trước được, khó có thể xác định được khi nào thì người lao động gặp rủi ro trong lao động và cũng không phải tất cả những người lao động đều gặp rủi ro vào cùng một thời điểm. Tính chất này thể hiện bản chất của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít.  Bảo hiểm xã hội vừa có tính kinh tế, vừa có tính dịch vụ: Xét dưới góc độ kinh tế, cả người lao động và người sử dụng lao động đều được lợi khi không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao động khi họ bị mất hoặc gảm thu nhập. Với nhà nước, bảo hiểm xã hội góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách, đồng thời quỹ bảo hiểm xã hội còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra bảo hiểm xã hội còn mang tính dịch vụ trong lĩnh vực tài chính bằng các hình thức phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.  Tính nhân đạo nhân văn cao cả: Thể hiện ở sự tương trợ, san xẻ lẫn nhau những rủi ro không mong đợi. Một người có thể đóng góp rất nhiều vào quỹ bảo hiểm xã hội mà không được hưởng trợ cấp hoặc hưởng rất ít mà thôi, nhưng không hề gì, bởi số tiền đó sẽ được chia sẻ cho những người khác. Chẳng hạn: Khi một người tham gia bảo hiểm xã hội đã đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí nhưng không may họ bị chết và chỉ được hưởng một khoản trợ cấp tử tuất ít ỏi so với công lao đóng góp của họ. Hay một minh chứng cụ thể hơn đó là việc quy định một tỷ lệ đóng góp như nhau song những người đàn ông chẳng hy vọng gì ở khoản trợ cấp thai sản. 4. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội
  9. Mục đích của bảo hiểm xã hội thường gắn liền với việc “đền bù” hậu quả của những sự kiện khác nhau xảy ra trong và ngoài quá trình lao động của những người lao động. Tập hợp những cố gắng tổ chức “ đền bù” cho những sự kiện đó là cơ sở chủ yếu của các chính sách bảo hiểm xã hội. Vì thế, năm 1952 Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã ra công ước 102 quy định tối thiểu về bảo hiểm xã hội và đã được 158 nước thành viên phê chuẩn. Theo công ước này, hệ thống bảo hiểm xã hội gồm các nhánh sau: 1. Chăm sóc y tế. 2. Trợ cấp ốm đau. 3. Trợ cấp thất nghiệp. 4. Trợ cấp tuổi già. 5. Trợ cấp tai nạn lao động _ bệnh nghề nghiệp. 6. Trợ cấp gia đình. 7. Trợ cấp thai sản. 8. Trợ cấp tàn tật. 9. Trợ cấp mất người nuôi dưỡng. ở từng nước, tuỳ theo điều kiện có thể thực hiện có thể thực hiện một số chế độ cơ bản hoặc mở rộng. Tuy nhiên, ILO quy định rằng các thành viên phê chuẩn công ước phải thực hiện ít nhất 3 trong 9 chế độ nêu trên, trong đó phải có ít nhất một trong các chế độ 3, 4, 5, 8 hoặc 9. Các chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay ở Việt nam bao gồm: 1.Trợ cấp ốm đau. 2.Trợ cấp thai sản. 1. Trợ cấp tai nạn lao động_ bệnh nghề nghiệp. 2. Trợ cấp hưu trí. 3. Trợ cấp tử tuất. Ngoài ra ở Châu âu, các thành viên của cộng đồng châu âu đã ký một đạo luật gọi là Đạo luật Châu âu về bảo hiểm xã hội. Đạo luật này về cơ bản tương tự như công ước 102 nhưng ở mức độ cao hơn và những điều kiện chặt chẽ hơn, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và xã hội của các nước thuộc cộng đồng châu âu.
  10. 5. Những quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội a, Mọi người lao động đứng trước nguy cơ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội Bởi vì bảo hiểm xã hội ra đời là để phục vụ quyền lợi của người lao động và mọi người lao động ở mọi ngành nghề thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đều đứng trước nguy cơ mất an toàn về thu nhập và đều có nhu cầu đước tham gia bảo hiểm xã hội. Hầu hết các nước khi mới thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, do các điều kiện kinh tế xã hội mà đối tượng thực hiện bảo hiểm xã hội chỉ là công nhân viên chức nhà nước và những người làm công hưởng lương. Việt nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động. Tuy nhiên việc tham gia bảo hiểm xã hội đã và sẽ được mở rộng đến tất cả người lao động bằng cả hình thức tự nguyện và bắt buộc. b, Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm xã hội đối với người lao động, người lao động phải có trách nhiệm tự bảo hiểm xã hội cho mình Bảo hiểm xã hội đem lại lợi ích cho cả người lao động, người sử dụng lao động và cả nhà nước: Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội và có đủ phương tiện, công cụ thực hiện chức năng đó, tuy nhiên không phải lúc nào chức năng đó cũng được phát huy tác dụng như mong muốn mà đôi khi đem lại những kết quả bất lợi làm ảnh hưởng đến đời sống người lao động. Khi đó dù không có bảo hiểm xã hội thì nhà nước vẫn phải chi ngân sách để giúp đỡ người lao động dưới một dạng khác. Đối với người sử dụng lao động cũng tương tự nhưng trên phạm vi xí nghiệp, đơn vị tổ chức sản xuất kinh doanh. Chỉ khi người sử dụng lao động chăm lo đến đời sống người lao động và có những ưu đãi xứng đáng thì người lao động mới yên tâm, tích cực lao động góp phần tăng năng suất lao động. Còn đối với người lao động, những rủi ro phát sinh suy cho cùng đều có một phần lỗi của người lao động (do ý thức, tay nghề...) và vì thế họ cũng phải gánh vác một phần trách nhiệm tự bảo hiểm xã hội cho mình.
  11. c, Bảo hiểm xã hội phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội độc lập, tập trung Nhờ sự đóng góp của các bên tham gia mà phương thức riêng có của bảo hiểm xã hội là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang mới được thực hiện. Hơn nữa, nó còn tạo ra mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ giữa quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên tham gia, góp phần tránh những hiện tượng tiêu cực như lợi dụng chế độ bảo hiểm xã hội. d, Phải lấy số đông bù số ít Bảo hiểm nói chung hoạt động trên cơ sở xác suất rủi ro theo quy luật số lớn, tức là lấy sự đóng góp của số đông người tham gia san xẻ cho số ít người không may gặp rủi ro. Trong số đông người tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội, chỉ những người lao động mới là đối tượng hưởng trợ cấp và trong số những người lao động lại chỉ có những người bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay tuổi già... có đủ các điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. e, Phải kết hợp hài hoà các lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng nhu cầu bảo hiểm xã hội Việc xác định lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm xã hội thì đã được làm rõ và quyền lợi luôn đi đôi với trách nhiệm, điều đó đòi hỏi phải có một sự cân đối giữa trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên tham gia, nghĩa là xác định mức đóng góp của mỗi bên tham gia phù hợp với lợi ích mà họ nhận được từ việc tham gia đó. Việc thực hiện bảo hiểm xã hội cho người lao động sẽ không được thực hiện nếu như gánh nặng thuộc về bất cứ bên nào làm triệt tiêu đi lợi ích mà họ đáng được hưởng. f, Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu Trong điều kiện bình thường, người lao động làm việc và nhận được mức tiền công thoả đáng. Khi gặp các biến cố rủi ro họ được hưởng trợ cấp và nếu như mức trợ cấp này lớn hơn hoặc bằng mức tiền công của họ thì không lý gì mà họ phải cố gắng làm việc và tích cực làm việc. Tuy nhiên do mục đích, bản chất và cách làm của bảo hiểm xã
  12. hội thì mức trợ cấp bảo hiểm xã hội thấp nhất cũng phải đủ để trang trải các chi phí cần thiết cho người lao động trong cuộc sống hàng ngày. g, Chính sách bảo hiểm xã hội là bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội đặt dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước ở nước ta, bảo hiểm xã hội nằm trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và nhà nước. Thực chất đây là một trong những chính sách nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu tối thiểu của con người: Nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội ... chính sách bảo hiểm xã hội còn thể hiện trình độ xã hội hoá của mỗi quốc gia ( trình độ văn minh, tiềm lực kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý xã hội ) và, trong một chừng mực nào đó, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Hơn nữa, nhà nước có chức năng quản lý vĩ mô mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội do đó bảo hiểm xã hội phải được đặt dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước. h, Bảo hiểm xã hội phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể Sự phát triển của bảo hiểm xã hội còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: Các điều kiện về kinh tế xã hội, trình độ quản lý của nhà nước hay sự hoàn chỉnh của nền pháp chế mỗi quốc gia. Việc thực hiện toàn bộ 9 chế độ trong công ước 102 của ILO là mong muốn và mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia, song không phải quốc gia nào cũng thực hiện được do sự hạn chế về nhiều mặt. Khi xã hội đã đạt tới một bước phát triển mới làm nảy sinh những vấn đề mà hệ thống bảo hiểm xã hội hiện thời không còn phù hợp thì yêu cầu đặt ra là sự đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội ( Cơ cấu các bộ phận của hệ thống, số lượng và cơ cấu các chế độ trợ cấp, mức đóng phí...) cho phù hợp với sự phát triển chung của toàn xã hội. ii. Bảo hiểm xã hội Việt nam trong nền kinh tế thị trường 1. Giai đoạn 1945- 1959 a, Văn bản pháp quy quy định Sau Cách mạng tháng 8-1945 Nhà nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà ra đời và mặc dù đang phải giải quyết trăm công ngàn việc quan trọng mang tính sống còn của đất nước nhưng Đảng và Nhà nước vẫn quan tâm đến công tác bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức khi ốm đau, thai sản, TNLĐ, tuổi già và tử tuất.
  13.  Tháng 12-1946 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân. Trong Hiến pháp có xác định quyền được trợ cấp của người tàn tật và người già.  Ngày 12-3-1947 Chủ tịch nước Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29/SL quy định chế độ trợ cấp cho công nhân.  Ngày 20-5-1950 Hồ chủ tịch ký hai Sắc lệnh số 76, 77 quy định thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ, công nhân viên chức. b, Đặc điểm của chính sách bảo hiểm xã hội Trong thời kỳ này thực dân pháp lại xâm chiếm Việt nam nên trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ việc thực hiện bảo hiểm xã hội rất hạn chế ( các loại trợ cấp đều được thực hiện bằng gạo ) tuy nhiên đã thể hiện được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước đối với chính sách bảo hiểm xã hội đánh dấu thời kỳ manh nha về bảo hiểm xã hội ở Việt nam. 2. Giai đoạn 1960-1994 a, Văn bản pháp quy quy định.  Tại điều 14 của Hiến pháp năm 1959 quy định “ Công nhân viên chức nhà nước có quyền được hưởng bảo hiểm xã hội ”.  Ngày 27-12-1961 Chính phủ ban hành Nghị định 218/CP kèm theo điều lệ tạm thời về BHXH, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1962. Bao gồm những nội dung cơ bản sau: - Đối tượng áp dụng: Cán bộ, công nhân viên chức nhà nước. - Hệ thống trợ cấp gồm 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí, tử tuất. - Nguồn tài chính BHXH: Các cơ quan, đơn vị đóng 4,7% so với tổng quỹ tiền lương vào quỹ BHXH nằm trong Ngân sách nhà nước. Chí phí về BHXH nếu vượt quá số lượng đóng góp thì được NSNN cấp bù. - Cơ quan quản lý thực hiện: Bộ lao động- Thương binh và Xã hội quản lý 3 chế độ MSLĐ, hưu trí, tử tuất. Tổng liên đoàn Lao động Việt nam quản lý thực hiện 3 chế độ là ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN.
  14. b, Đặc điểm của chính sách bảo hiểm xã hội. - Đã hình thành nên một khung hệ thống trợ cấp BHXH khá toàn diện bao gồm 6 chế độ. Đã giải quyết cho 1,3 triệu người hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động 50 vạn người, tử tuất là 25 vạn và hàng triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản. - Chính sách BHXH đã góp phần ổn định đời sống của cán bộ, công nhân viên chức góp phần xây dựng xã hội nhân văn, tiến bộ và góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. - Do hoàn cảnh của đất nước thời kỳ nay nền kinh tế còn kém phát triển và nhà nước thực hiện quản lý kinh tế xã hội theo cơ chế bao cấp nên việc thực hiện BHXH còn rất hạn hẹp ( mới chỉ thực hiện được với công nhân viên chức nhà nước) và nguồn tài chính chủ yếu để thực hiện trợ cấp các chế độ BHXH là do NSNN bảo đảm. 3. Giai đoạn 1995 đến nay a, Văn bản pháp quy quy định - Để thực hiện BHXH đối với người làm công ăn lương và phát triển các hình thức BHXH khác, ngay 23-6-1994 Quốc hội đã thông qua Bộ luật lao động trong đó có một chương quy định về BHXH . - Ngày 26-01-1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP kèm theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức và người lao động. - Ngày 15-7-1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 45/CP kèm theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội đối với quân nhân trong lực lượng vũ trang. Nội dung cơ bản của những văn bản pháp quy này: 1, Từng bước mở rộng đối tượng tham gia BHXH bằng hình thức kết hợp bắt buộc và tự nguyện đối với người lao động trong mọi thành phần kinh tế. 2, Hệ thống các chế độ trợ cấp BHXH gồm: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. 3, Hình thành quỹ BHXH độc lập, nằm ngoài NSNN. Quỹ BHXH hình thành chủ yếu từ 3 nguồn: Nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động. 4, Hình thành cơ quan chuyên trách về BHXH là Bảo hiểm xã hội Việt nam.
  15. b, Đặc điểm của chính sách bảo hiểm xã hội - Bảo hiểm xã hội đã được tổ chức và thực hiện phù hợp với điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. - Thực hiện sự công bằng về quyền được BHXH của mọi người lao động. - Thực hiện quan hệ giữa nghĩa vụ đóng góp và hưởng trợ cấp BHXH. - Thực hiện cơ chế quản lý thực hiện pháp luật BHXH chuyên trách. II. Tổng quan về quỹ bảo hiểm xã hội 1. Khái niệm, đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội a, Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Điều kiện tiên quyết để một hệ thống BHXH hoạt động được là phải hình thành được nguồn quỹ tiền tệ tập trung để rồi nguồn quỹ này được dùng để chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH. b, Đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản nhất của một quỹ, ngoài ra do đặc thù của BHXH mà quỹ BHXH có những đặc trưng riêng có sau:  Quỹ BHXH là quỹ an toàn về tài chính. Nghĩa là, phải có một sự cân đối giữa nguồn vào và nguồn ra của quỹ BHXH. Chức năng của bảo hiểm xã hội là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động và để thực hiện chức năng này, đến lượt nó, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Để tạo sự an toàn này, về nguyên tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ phải bằng tổng số tiền chi ra từ quỹ. Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là được dùng để chi trả ngay ( nếu vậy đã không tồn tại cái gọi là quỹ BHXH ) mà phải sau một khoảng thời gian nhất định, đôi khi tương đối dài ( như đối với chế độ hưu
  16. trí ) số tiền ấy mới được chi ra, cùng thời gian ấy đồng tiền luôn biến động và có thể bị giảm giá trị do lạm phát, điều này đặt ra yêu cầu quỹ BHXH không chỉ phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải bảo toàn về mặt giá trị. Điều đó lý giải tại sao trong điều 40 Điều lệ BHXH nước ta quy định “ Quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của chính phủ ”.  Tính tích luỹ. Quỹ BHXH là “ của để dành ” của người lao động phòng khi ốm đau, tuổi già... và đó là công sức đóng góp của cả quá trình lao động của người lao động. Trong quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi ở một thời điểm hiện tại để chi trả trong tương lai, khi người lao động có đủ các điều kiện cần thiết để được hưởng trợ cấp ( chẳng hạn như về thời gian và mức độ đóng góp BHXH ). Số lượng tiền trong quỹ có thể được tăng lên bởi sự đóng góp đều đặn của các bên tham gia và bởi thực hiện các biện pháp tăng trưởng quỹ.  Quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ BHXH là để chi trả trợ cấp cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro dẫn đến mất hay giảm thhu nhập. Do đó, người lao động là đối tượng đóng góp đồng thời cũng là đối tượng nhận trợ cấp. Tuy nhiên, thời gian, chế độ và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau, điều đó phụ thuộc vào những rủi ro mà họ gặp phải cũng như mức độ đóng góp và thời gian tham gia BHXH. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, mặc dù nguyên tắc của BHXH là có đóng- có hưởng, đóng ít- hưởng ít, đóng nhiều- hưởng nhiều nhưng như vậy không có nghĩa là những người có mức đóng góp như nhau sẽ chắc chắn đưọc hưởng một khoản trợ cấp như nhau. Trong thực tế, cùng tham gia BHXH nhưng có người được hưởng nhiều lần, có người được hưởng ít lần ( với chế độ ốm đau), thậm trí không được hưởng (chế độ thai sản). 2. Phân loại quỹ bảo hiểm xã hội Nhiệm vụ của các nhà làm công tác BHXH là phải thành lập nên quỹ BHXH theo cách thức phù hợp với trình độ tổ chức và thực hiện. Thế nhưng, đó lại là một vấn đề
  17. hết sức khó khăn và đôi khi không thống nhất quan điểm. Bởi vì theo nhiều cách tiếp cận khác nhau có các loại quỹ bảo hiểm xã hội khác nhau. a, Theo tính chất sử dụng quỹ  Quỹ dài hạn: Là quỹ được thành lập để dùng chi trả cho các chế độ đài hạn ( chế độ trợ cấp hưu trí ).  Quỹ ngắn hạn: Dùng chi trả cho các chế độ trợ cấp ngắn hạn (ốm đau, thai sản...) . b, Theo các trường hợp được BHXH Có thể thành lập ra các quỹ theo từng chế độ và mỗi quỹ sẽ dùng để chi trả cho từng chế độ tương ứng.  Quỹ hưu trí.  Quỹ TNLD-BNN.  Quỹ thất nghiệp.  ... Cách phân loại này giúp chúng ta có thể cân đối giữa mức hưởng và mức đóng góp đối với từng chế độ. c, Theo đối tượng quản lý, có:  Quỹ BHXH cho công chức nhà nước.  Quỹ BHXH lực lượng vũ trang.  Quỹ BHXH cho nông đân.  ... ở mỗi nước, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà có thể thành lập quỹ bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, trình độ quản lý nhà nước... Thông thường, khi mới thực hiện BHXH các nước thành lập một quỹ chung nhất cho mọi người lao động do: Trình độ tổ chức và quản lý còn hạn chế, đối tượng BHXH còn hạn hẹp và các chế độ bảo hiểm xã hội còn ít ( một vài chế độ ). Nhưng khi nền kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định, trình độ quản lý được nâng cao, đối tượng tham gia ngày càng
  18. lớn...thì xuất hiện những bất cập mà đòi hỏi phải thành lập ra các quỹ BHXH thành phần. ở Việt nam, nên chăng chúng ta cũng thành lập ra các quỹ BHXH thành phần và thành lập theo cách nào là tốt nhất. Việc thành lập theo cách tiếp cận thứ hai và thứ ba đối với Việt nam trong điều kiện hiện nay dường như không thích hợp vì như thế sẽ đẫn tới tình trạng quá phân tán nguồn đóng góp của các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ( theo cách tiếp cận thứ hai chúng ta phải thành lập ra 5 quỹ BHXH tương ứng với 5 chế độ BHXH hiện hành và theo cách tiếp cận thứ ba thì ít nhất cũng phải thành lập ra không dưới 5 quỹ BHXH). Trong điều kiện hiện nay, chúng ta nên thành lập ra các quỹ BHXH thành phần theo cách tiếp cận thứ nhất là hợp lý hơn cả và những lý do sẽ được trình bày ở phần sau. 3. Tạo nguồn a, Đối tượng tham gia và đóng góp. Những câu hỏi cơ bản nhất liên quan đến tài chính BHXH là: Ai đóng góp, đóng góp bao nhiêu và dựa trên cơ sở nào. Nói chung, các nguồn kinh phí của một hệ thống BHXH có thể liệt kê như sau: Sự tham gia của Nhà nước, sự tham gia của chính quyền các cấp ( chính quyền tỉnh và địa phương ); những khoản thuế đã được nhắm trước hoặc phân bổ cho BHXH; Đóng góp của người tham gia bảo hiểm xã hội, của chủ sử dụng lao động; Thu nhập từ đầu tư và các khoản thu nhập khác. Trong đó nguồn thu nhập chủ yếu của quỹ BHXH là từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước. Thông thường, để đảm bảo nguyên tắc có đóng có hưởng, tất cả những người lao động tham gia BHXH đều có nghĩa vụ đóng góp bảo hiểm xã hội, tuy nhiên việc xác định đối tượng tham gia ở mỗi quốc gia có khác nhau. Ban đầu, chương trình BHXH không có xu hướng bảo hiểm cho những người tự tạo việc làm, lao động nông nghiệp, người thất nghiệp và người chưa có việc làm. BHXH cũng không bảo hiểm cho những người làm việc bán thời gian và lao động trong các doanh nghiệp nhỏ. ở khu vực Châu á- Thái bình dương, các quốc gia công nghiệp (ôxtraylia, Hồng Kông, Nhật bản và Niu Di Lân) và các nước cộng hoà thuộc Liên xô (cũ) đang mở rộng sự bao phủ hệ thống an toàn xã hội đến toàn bộ dân chúng một cách toàn diện hơn.
  19. Trong khi đó, các nước còn lại chủ yếu tập trung các hệ thống của họ vào khu vực sử dụng lao động một cách chính quy tại các trung tâm đô thị trong khi làm ngơ một bộ phận đáng kể dân chúng đang nằm ngoài sự bảo trợ. Nguyên nhân của sự bỏ qua này là do sự khó khăn về mặt hành chính trong việc thúc đẩy sự mở rộng bắt buộc của họ cũng như không có khả năng về tài chính của các doanh nghiệp nhỏ để đóng góp vào hệ thống này. ở Giooc Đan Ni, thậm chí những trường hợp ban đầu được tham gia hệ thống an toàn xã hội nhưng sau đó lại bị bỏ qua như trường hợp của các nông dân, ngư dân, người tự lao động ( làm tư). ở các nước khác, một số nằm ngoài đã được cho phép tham gia vào chương trình trên cơ sở tự nguyện. b, Phương thức đóng góp  Đóng góp theo mức cố định: Đối tượng tham gia đóng một mức cố định không phụ thuộc vào mức thu nhập của họ, mặc dù vậy vẫn có có thể có những tỷ lệ đóng góp khác nhau ( ví dụ tỷ lệ đóng góp của người trẻ khác với của người già, của nam khác với nữ...) nhưng trong phạm vi một nhóm người thì mức đóng góp sẽ như nhau và không gắn với thu nhập của họ và khi đó mức hưởng cũng sẽ là một khoản được ấn định trước.  Đóng góp gắn với thu nhập: Theo phương thức này, mức đóng góp sẽ gắn với thu nhập của từng cá nhân và được ấn định bằng cách sử dụng cách tính phần trăm đơn giản so với thu nhập, khi hưởng trợ cấp thì mức trợ cấp cũng được căn cứ vào mức thu nhập khi còn làm việc của người lao động. Phương thức này được áp dụng phổ biến nhất trên thế giới.  Đóng góp theo nhóm tiền công: Trong từng nhóm tiền công có các mức tiền công và đối với mỗi mức tiền công sẽ có một mức đóng góp tương ứng theo mức độ luỹ tiến. Nhóm tiền công cũng có thể được sử dụng như là một công cụ thúc đẩy việc phân phối lại nguồn quỹ giữa các thành viên.  Đóng góp theo tỷ lệ đặc biệt: Một số nước dựa vào mức đóng góp theo một tỷ lệ đặc biệt dựa vào sự khác biệt giữa các công việc của người lao động. Chẳng hạn trong chế độ bảo hiểm tai nạn lao
  20. động, tỷ lệ đóng góp thay đổi tuỳ theo ngành công nghiệp và mức độ rủi ro của mỗi ngành nghề. c, Xác định mức đóng góp. Nói chung, xác định mức đóng góp BHXH dựa trên một cơ chế tài chính là cân đối giữa thu và chi. Có thể xác định mức đóng góp và, trên cơ sở đó xác định mức hưởng hoặc cũng có thể xác định mức hưởng trước rồi xác định mức đóng góp. Cho dù thực hiện theo cách nào thì vẫn phải đảm bảo sự cân đối giữa tổng số tiền hình thành quỹvà tổng số tiền được chi ra từ quỹ. Hệ thống “ trợ cấp xác định ” và hệ thống “ đóng góp xác định ”: - Hệ thống “ đóng góp xác định ”: Hệ thống này xác định người lao động nên giành bao nhiêu tiền cho tuổi già của mình chứ không phải là họ sẽ xứng đáng được nhận trợ cấp là bao nhiêu. Ưu điểm của hệ thống này là nó không phải chịu bất cứ sự mất cân bằng nào về tài chính và không bao giờ phải tăng mức đóng góp lên cả. Nhưng nhược điểm của nó là do có rất nhiều rủi ro nên một số hoặc tất cả mọi người lao động có thể bị chấm dứt được nhận trợ cấp tuổi già, mức trợ cấp này thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đã đặt ra. - Hệ thống “ trợ cấp xác định ”: Ưu điểm chính của hệ thống này là nó cho phép người lao động được bảo đảm về tài chính ở mức độ cao hơn ở tuổi già, tuy nhiên nhược điểm của hệ thống này là đôi lúc gặp phải rắc rối về tài chính mà vấn đề này cần thiết phải tăng mức đóng góp và hoặc giảm mức trợ cấp. Quốc gia nào áp dụng ?. Hệ thống bảo hiểm xã hội mà có chế độ tuổi già ở hầu hết các nước (trong đó có Việt Nam) là hệ thống bảo hiểm chế độ trợ cấp xác định. Trong khi đó hệ thống tiết kiệm hưu trí bắt buộc ở Chile và Quỹ dự trữ quốc gia ở các nước Malayxia và Singapore lại là những ví dụ điển hình về hệ thống bảo hiểm có mức đóng góp xác định. Nhiệm vụ của những người chịu trách nhiệm thực hiện là phải xác định được chính xác những khoản chi phí chính đáng trong tương lai sẽ chi ra từ quỹ nhưng điều đó dường như không thể bởi những thay đổi không tiên đoán trước được sẽ xảy ra. Do những ước tính là không thể thực hiện được nên khi xác định mức đóng góp người ta phải xác định thêm một lượng đủ để dự trữ cho các sự cố phát sinh làm tăng thêm các
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2