intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Tốt nghiệp Bác sĩ nội trú: Nghiên cứu biểu hiện lâm sàng, điện tim, siêu âm tim và kết quả chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch vành ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:177

59
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, điện tim, siêu âm tim một số bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Đánh giá kết quả chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch vành ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính có nguy cơ tim mạch cao và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Tốt nghiệp Bác sĩ nội trú: Nghiên cứu biểu hiện lâm sàng, điện tim, siêu âm tim và kết quả chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch vành ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là nguyên nhân gây tử vong hàng thứ tƣ trên thế giới sau các bệnh tim, ung thƣ và đột quỵ não và theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO- World Health Organization) dự đoán vào năm 2020, BPTNMT sẽ là thứ ba trong số các nguyên nhân bệnh lý mạn tính gây tử vong, sau nhồi máu cơ tim và đột quỵ não. Năm 2012 có hơn 3 triệu ngƣời chết vì BPTNMT, chiếm 6% số ca tử vong trên toàn cầu [1],[2]. Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ mắc BPTNMT đứng hàng đầu khu vực Châu Á Thái Bình Dƣơng, tần suất bệnh ở Việt Nam là 6,7% cao nhất trong 12 nƣớc ở vùng này [3]. Mặc dù BPTNMT gây ảnh hƣởng chủ yếu tại phổi, song nó cũng gây ra hoặc phối hợp với nhiều bệnh lý toàn thân đặc biệt là bệnh lý tim mạch [4]: bệnh không những gây tổn thƣơng tim phải mà còn ảnh hƣởng đến tim trái, các rối loạn nhịp, thiếu máu cục bộ cơ tim, tắc mạch…[5], [6]. Nhiều tác giả trên thế giới cho rằng bệnh nhân bị mắc BPTNMT và bệnh lý tim mạch (BLTM) có chung yếu tố nguy cơ hút thuốc lá, tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của bệnh tim mạch cũng cao hơn ở bệnh nhân đồng mắc BPTNMT [7]. Những ảnh hƣởng về BLTM do BPTNMT gây nên và khi có kết hợp BLTM với BPTNMT càng làm tăng thêm mức độ trầm trọng của bệnh, tăng biến chứng, tăng tỷ lệ tử vong và trong đó bệnh mạch vành là nguyên nhân hàng đầu của tử vong do BLTM [8]. Trƣớc đây, để phát hiện tổn thƣơng động mạch vành (ĐMV) ngƣời ta dựa vào kết quả điện tim và siêu âm tim để phát hiện thiếu máu cơ tim nhƣng thƣờng những phát hiện này đều ở giai đoạn muộn. Muốn phát hiện ở giai đoạn sớm hơn cần phải chụp ĐMV chọn lọc. Đây đƣợc coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh mạch vành (BMV) với độ phân giải cao, tuy nhiên đây là một phƣơng pháp xâm lấn nên có một số tai biến nhất định và khi thực hiện kỹ thuật này trên bệnh nhân BPTNMT còn gặp nhiều khó khăn. Sự ra đời của phƣơng pháp chụp cắt lớp vi tính (CLVT) ĐMV đƣợc xem nhƣ một giải pháp cho việc chẩn đoán các tổn
  2. 2 thƣơng ĐMV. Trong các kỹ thuật chụp ĐMV không xâm lấn, chụp cắt lớp vi tính đa dãy (Multi Detector Computed Tomography - MDCT hay Multislice Spiral Computed Tomography - MSCT) là kỹ thuật CLVT bƣớc ngoặt trong tạo ảnh mạch vành, với những thế mạnh vƣợt trội so với các thế hệ máy trƣớc, việc khảo sát hệ thống ĐMV đã trở nên đơn giản hơn và đặc biệt các tổn thƣơng đã đƣợc tìm hiểu một cách chi tiết và rõ ràng hơn. Trong những năm gần đây, đã có khá nhiều nghiên cứu về BPTNMT ở Việt Nam, đề cập đến nhiều khía cạnh của bệnh nhƣ về triệu chứng lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh, chức năng hô hấp, các phƣơng pháp điều trị. Về phƣơng diện BLTM ở bệnh nhân BPTNMT cũng đã có một số nghiên cứu về điện tâm đồ, đánh giá tăng áp lực động mạch phổi, sự thay đổi hình thái và chức năng thất phải qua siêu âm tim…Nhƣng chƣa thấy có công trình nghiên cứu cụ thể và chi tiết nào về đặc điểm tổn thƣơng ĐMV ở bệnh nhân BPTNMT. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu đặc điểm BLTM ở bệnh nhân BPTNMT đặc biệt là nghiên cứu tổn thƣơng ĐMV trên phim chụp CLVT ở nhóm có nguy cơ tim mạch cao và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng BPTNMT là cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cần thiết nhằm nâng cao sự hiểu biết BLTM đặc biệt là tổn thƣơng ĐMV ở bệnh nhân mắc BPTNMT và mối liên quan giữa chúng góp phần trong chẩn đoán, tiên lƣợng, nâng cao hiệu quả điều trị và giảm tỷ lệ tử vong. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Nghiên cứu biểu hiện lâm sàng, điện tim, siêu âm tim và kết quả chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch vành ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ” nhằm hai mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, điện tim, siêu âm tim một số bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân BPTNMT. 2. Đánh giá kết quả chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch vành ở bệnh nhân BPTNMT có nguy cơ tim mạch cao và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của BPTNMT.
  3. 3 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH 1.1.1. Định nghĩa Theo Chiến lƣợc toàn cầu về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (GOLD- Global initiative for chronic Obstructive Lung Disease) năm 2016: BPTNMT là bệnh lý phổ biến, có thể dự phòng và điều trị đƣợc, đặc trƣng bởi sự giới hạn luồng khí dai dẳng, thƣờng tiến triển và kết hợp với sự gia tăng đáp ứng viêm mạn tính của đƣờng hô hấp và trong phổi với bụi hay khí độc hại. Các đợt bùng phát và các bệnh lý khác góp phần vào mức độ nặng của từng bệnh nhân [9]. Tắc nghẽn luồng khí thở mạn tính trong BPTNMT gây ra bởi sự kết hợp giữa bệnh lý đƣờng thở nhỏ (viêm tiểu phế quản tắc nghẽn) và phá hủy nhu mô phổi (khí phế thũng), vai trò của từng cơ chế bệnh sinh khác nhau ở từng cá thể. Những sự biến đổi này thƣờng không xuất hiện cùng lúc và tiến triển ở các mức độ khác nhau theo thời gian. Viêm mạn tính gây ra những thay đổi cấu trúc, làm hẹp đƣờng thở nhỏ và phá hủy nhu mô phổi dẫn đến mất sự liên kết của phế nang với đƣờng thở nhỏ và giảm đàn hồi phổi. Điều này dẫn đến giảm khả năng duy trì sự thông thoáng của đƣờng dẫn khí trong suốt thì thở ra. Sự phá hủy đƣờng thở nhỏ cũng có thể góp phần làm hạn chế dòng khí thở và rối loạn chức năng tiết nhày là một đặc điểm đặc trƣng của bệnh [1]. 1.1.2. Dịch tễ học và yếu tố nguy cơ Theo các tác giả ở các nƣớc khác nhau trên thế giới, tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong của BPTNMT rất khác nhau, thay đổi tùy từng vùng. Tỷ lệ khác nhau này là do quan điểm còn khác nhau về BPTNMT và do liên quan rất nhiều đến tình hình hút thuốc lá của mỗi cộng đồng. Trong cộng đồng, có thể
  4. 4 nhiều ngƣời mắc BPTNMT nhƣng không đƣợc chẩn đoán và chỉ có 25% số trƣờng hợp đƣợc phát hiện. Ở Châu Âu, chỉ số lƣu hành BPTNMT từ 23- 41% ở ngƣời hút thuốc lá, tỷ lệ nam/nữ là 10/1. Ở Pháp, con số tử vong do BPTNMT là 20.000 ngƣời/năm [10]. Theo nghiên cứu về dịch tễ học BPTNMT tại các nƣớc ở khu vực Châu Á, ƣớc tính tỷ lệ BPTNMT dựa trên tỷ lệ hút thuốc ở mỗi nƣớc, cho thấy tỷ lệ BPTNMT thấp nhất ở Hồng Kông và Singapore (khoảng 3,5%) và cao nhất ở Trung Quốc (6,5%) và ở Việt Nam (6,7%) [3],[11]. Theo thống kê mới của WHO, năm 2007 có tới 210 triệu ngƣời mắc BPTNMT trên toàn thế giới. Tỷ lệ tử vong do BPTNMT trên toàn cầu có xu hƣớng gia tăng. Tỷ lệ gây tử vong do BPTNMT năm 1990 đứng thứ 6 và dự kiến đến năm 2030 đứng thứ 4 trong 10 bệnh chính gây tử vong trên toàn thế giới, với số tử vong tăng khoảng 30% trong 10 năm tới, đang là một thách thức trong dự phòng và điều trị [9]. Theo Chƣơng trình gánh nặng của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BOLD-The Burden of Obstructive Lung Disease) và các nghiên cứu dịch tễ học lớn khác, có khoảng 385 triệu ca mắc BPTNMT vào năm 2010, với tỷ lệ mắc trên thế giới là 11,7%. Trên toàn cầu, có khoảng 3 triệu ca tử vong hàng năm [1],[12]. Với sự gia tăng tỷ lệ hút thuốc lá tại các nƣớc đang phát triển và già hóa dân số ở những nƣớc có thu nhập cao, tỷ lệ mắc BPTNMT đƣợc dự đoán sẽ tăng cao trong 30 năm tới và đến năm 2030 có thể đến 4,5 triệu ca tử vong hàng năm do BPTNMT và các tình trạng liên quan [1]. Những nghiên cứu dịch tễ học BPTNMT ở Việt Nam chƣa nhiều và cũng chƣa toàn diện nên chƣa có con số chính xác về tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong. Theo kết quả nghiên cứu đƣợc thực hiện trên gần 2600 ngƣời Hà Nội thì có tới 6,8% số ngƣời trên 40 tuổi mắc BPTNMT. Tại Trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch Mai, BPTNMT là bệnh hay gặp nhất trong các bệnh về hô hấp (từ 1996-2000), chiếm tỷ lệ 25,1% [14].
  5. 5 Cũng tại Việt Nam, theo nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc (từ năm 2006-2007) thấy: tỷ lệ mắc BPTNMT trong cộng đồng dân cƣ từ 25 tuổi trở lên là 2,2%, nam là 3,5% và nữ là 1,1%. Tập trung chủ yếu ở lứa tuổi từ 40 tuổi trở lên với tỷ lệ là 4,2%, trong khi đó tuổi từ 15-40 chỉ là 0,4%. Đặc biệt theo khu vực, tỷ lệ mắc bệnh ở nông thôn (2,6%) cao hơn thành thị (1,9%) và miền núi (1,6%). Miền Bắc có tỷ lệ mắc BPTNMT cao nhất (3%), cao hơn Miền Trung (2,3%) và cao hơn hẳn Miền Nam (1%) [3]. Hiện nay chƣa có thống kê về tỷ lệ tử vong do BPTNMT trong cộng đồng ở Việt Nam. 1.1.3. Chẩn đoán xác định bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính Nên nghĩ tới ở tất cả các bệnh nhân có bất kỳ triệu chứng nào sau đây [1],[15], [16],[17]: - Trong tiền sử và/ hoặc hiện tại có tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ gây bệnh: yếu tố cơ địa, khói thuốc, hóa chất, nghề nghiệp, ô nhiễm môi trƣờng và trong nhà. - Khó thở, ho, khạc đờm mạn tính. - Lâm sàng: rì rào phế nang giảm là dấu hiệu thƣờng gặp nhất. Các dấu hiệu khác có thể thấy bao gồm: lồng ngực hình thùng, gõ vang, ran rít, ran ngáy, ran ẩm, ran nổ. Giai đoạn muộn có thể thấy các dấu hiệu của suy tim phải (gan to, tĩnh mạch cổ nổi, phù chân...). - Đo chức năng thông khí (CNTK) phổi là yêu cầu bắt buộc để chẩn đoán trên bệnh cảnh lâm sàng nhƣ vậy. Chỉ số FEV1/FVC< 0,7 sau test phục hồi phế quản, đây là tiêu chuẩn để khẳng định chẩn đoán.
  6. 6 Các triệu chứng lâm sàng Các yếu tố nguy cơ - Khó thở - Yếu tố cơ địa - Ho mạn tính - Khói thuốc - Khạc đờm mạn tính - Nghề nghiệp - Ô nhiễm môi trƣờng và trong nhà. Đo CNTK phổi: RLTK tắc nghẽn không hồi phục Chỉ số FEV1/ FVC< 0,7 sau test phục hồi phế quản. Sơ đồ 1.1. Sơ đồ chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính Ho thƣờng là triệu chứng đầu tiên trong tiến triển của BPTNMT, là một chỉ điểm quan trọng trong chẩn đoán bệnh. Khi ho với số lƣợng đờm nhiều cần nghĩ đến có giãn phế quản, đờm chuyển đục là dấu hiệu cho thấy hiện tƣợng viêm tăng lên và có thể là biểu hiện khởi đầu của một đợt cấp, khi đợt cấp thì đờm lẫn mủ. Theo Stockley R.A. và cộng sự (2000), trong đợt cấp của BPTNMT, cấy vi khuẩn dƣơng tính ở 38% trƣờng hợp có tăng tiết đờm, trong khi đó 84% trƣờng hợp cấy đờm dƣơng tính khi có mủ trong đờm [18] và theo nghiên cứu của Steer J. và cộng sự (2012) với 920 bệnh nhân đợt cấp BPTNMT phải nhập viện, tỷ lệ có đờm đục (51,3%) [19]. Khó thở là triệu chứng quan trọng nhất và hay gặp nhất của BPTNMT và là lý do mà hầu hết bệnh nhân phải đi khám bệnh. Mức độ khó thở có thể đƣợc đánh giá bởi bộ câu hỏi đƣợc sửa đổi của Hội đồng Y khoa Anh (The Medical Research Council- mMRC) để đánh giá mức độ nặng của khó thở [1],[9],[13],[20],[21]. Theo Jan G.S. và cộng sự (2014), nghiên cứu hồi cứu 354 bệnh nhân ở 6 bệnh viện lớn ở Canada, nhận thấy lý do chủ yếu khiến
  7. 7 bệnh nhân phải nhập viện khẩn cấp trong đợt cấp là do khó thở (76,6%). Các nguyên nhân khác gặp với tỷ lệ thấp: đau ngực (9,6%), sốt (2,1%) [22]. 1.1.4. Phân loại mức độ nặng của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính GOLD- 2016 không phân chia giai đoạn bệnh của BPTNMT thành các giai đoạn I, II, III, IV mà phân loại mức độ nặng của giới hạn đƣờng thở ở bệnh nhân BPTNMT dựa vào FEV1 sau nghiệm pháp hồi phục phế quản và phân các giai đoạn thành GOLD 1, 2, 3, 4 nhƣ sau [1], [9], [10]: Bảng 1.1: Phân loại mức độ nặng ở bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính dựa vào FEV1 sau nghiệm pháp hồi phục phế quản Ở bệnh nhân có chỉ số FEV1/FVC < 0,7 Mức độ RLTK tắc nghẽn Giá trị FEV1 sau nghiệm pháp hồi phục phế quản GOLD 1 : nhẹ FEV1 ≥ 80% trị số lý thuyết GOLD 2 : vừa 50% ≤ FEV1 < 80% trị số lý thuyết GOLD 1 : nặng 30% ≤ FEV1 < 50% trị số lý thuyết GOLD 1 : rất nặng FEV1 < 30% trị số lý thuyết *Nguồn: theo GOLD 2016 [9] * Đo chức năng thông khí: Đo CNTK phổi bằng phế dung kế đƣợc coi là cách đánh giá khách quan sự tắc nghẽn lƣu lƣợng thở và giúp phát hiện bệnh trong giai đoạn sớm. Chính vì vậy nên tiến hành đo chức năng thông khí cho tất cả bệnh nhân có ho, khạc đờm mạn tính mặc dù chƣa có khó thở. Khi đo CNTK cần đánh giá các thông số: FVC, FEV1/VC và FEV1/FVC (chỉ số Gaensler). Dựa vào chỉ số FEV1 và Gaensler có thể đánh giá mức độ nặng của BPTNMT [10],[ 23], [24]. - Thông khí phổi có vai trò trong chẩn đoán xác định BPTNMT, giai đoạn bệnh, theo dõi kết quả điều trị, tiến triển và tiên lƣợng bệnh; đo thông
  8. 8 khí phổi cho bệnh nhân có ho, khạc đờm mạn tính hoặc những bệnh nhân có tiếp xúc với những yếu tố nguy cơ cho phép chẩn đoán sớm BPTNMT. - Tiêu chuẩn để xác định có giới hạn lƣu lƣợng khí thở khi đo hô hấp ký là chỉ số FEV1/FVC< 0,7 sau test hồi phục phế quản. Tiêu chuẩn này đơn giản và độc lập với các giá trị tham chiếu nên đã đƣợc sử dụng ở rất nhiều các thử nghiệm lâm sàng, từ đó hình thành các cơ sở bằng chứng mà hầu hết các khuyến cáo điều trị [10]. Hình 1.1. Giản đồ hô hấp ký của Hình 1.2. Giản đồ hô hấp ký của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ngƣời bình thƣờng *Nguồn: theo Miller MR và cộng sự 2005[1] Ngày nay, các tổ chức về hô hấp lớn trên thế giới khuyến cáo cần thiết phải đánh giá CNTK phổi bằng phế dung kế lƣu lƣợng nhằm chẩn đoán sớm ở các đối tƣợng có yếu tố nguy cơ bệnh và cho những ngƣời hút thuốc lá tuổi trên 40 nhƣ: Hội chăm sóc bệnh hô hấp Hoa Kỳ (American Association for Respiratory Care: AARC), Chƣơng trình quốc gia giáo dục chăm sóc bệnh phổi Hoa Kỳ (The National Lung Healthy Education Program: NLHEP), Quỹ BPTNMT (COPD Foundation)… [25]. Theo Nguyễn Huy Lực (2010), qua nghiên cứu đặc điểm thông khí phổi ở bệnh nhân BPTNMT điều trị tại Bệnh viện Quân y 103 thấy: rối loạn
  9. 9 thông khí hỗn hợp chiếm ƣu thế (84%), rối loạn thông khí tắc nghẽn ít hơn (16%). Phân loại mức độ tắc nghẽn theo GOLD: 100% bệnh nhân ở giai đoạn II, III và IV; trong đó chủ yếu là giai đoạn III và IV (68%) [26]. 1.2. MỘT SỐ BỆNH LÝ TIM MẠCH HAY GẶP Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH 1.2.1. Tỷ lệ bệnh lý tim mạch BPTNMT thƣờng tồn tại với các bệnh lý khác (bệnh đồng mắc) và các bệnh này có thể tác động đáng kể đến tiên lƣợng. Một số bệnh phát sinh độc lập với BPTNMT, một số khác có thể có liên quan đến các yếu tố nguy cơ chung với BPTNMT hoặc bệnh này làm tăng nguy cơ trầm trọng của bệnh kia. Nguy cơ mắc bệnh đồng mắc có thể tăng do hậu quả của BPTNMT. Bệnh tim mạch (BTM) là bệnh đồng mắc thƣờng gặp và nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân BPTNMT. Hiểu rõ hơn về cơ chế nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân BPTNMT là cần thiết để cải thiện kết quả lâm sàng, với các bệnh chính: bệnh tim thiếu máu cục bộ (30,2%), suy tim (15,7%), loạn nhịp tim (rung nhĩ, cuồng nhĩ 13%) và tăng huyết áp [13], [27] [28],[29]. Biểu hiện tim mạch ở bệnh nhân BPTNMT rất phong phú và chuỗi biểu hiện đó đã đƣợc công nhận trong vài thập kỷ. BPTNMT làm tăng nguy cơ mắc BTM cao hơn 3 lần so với ngƣời khỏe mạnh và tỉ lệ tử vong do BTM khoảng 50% trong tổng số nguyên nhân gây tử vong ở bệnh nhân BPTNMT. Tỷ lệ tăng áp lực động mạch phổi (ALĐMP), suy tim phải và ảnh hƣởng tới tim trái, tăng huyết áp (THA), rối loạn nhịp tim (RLNT), bệnh tim thiếu máu cục bộ (BTTMCB) ở bệnh nhân BPTNMT cao hơn bệnh nhân không mắc BPTNMT. Tỷ lệ lƣu hành BPTNMT ở bệnh nhân suy tim thay đổi từ 11% đến 52% ở Mỹ và từ 9% đến 41% ở Châu Âu, trong khi tỷ lệ mắc bệnh tim ở bệnh nhân mắc BPTNMT thay đổi từ 14% đến 33% [30].
  10. 10 Một số nghiên cứu bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính: *Trên thế giới: - Ở Mỹ, BPTNMT là bệnh thƣờng gặp có ảnh hƣởng tới 5-10% dân số. Theo Bhatt S.P. và cộng sự tỷ lệ lƣu hành tùy lứa tuổi ở BMV là 6% và khoảng 1,7% dân số măc bệnh suy tim [31]. - Theo nghiên cứu của Burgel P-R. (2011) tỷ lệ BLTM nhƣ sau: 35% THA, 19% BMV, 13% suy tim, 7% mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ, khoảng 20% suy dinh dƣỡng, 18% béo phì [32]. - De Luca - Ramos P. và cộng sự nghiên cứu trên 572 bệnh nhân mắc BPTNMT cho thấy tỷ lệ BLTM ở nhóm bệnh nhân này nhƣ sau: 53% THA, 6,4% BTTMCB, 7% bệnh mạch não, 17% bệnh mạch ngoại biên [33]. *Việt Nam: - Ngô Quý Châu và cộng sự (2010) nghiên cứu trên 102 bệnh nhân BPTNMT thì tỷ lệ BLTM: RLNT 18,6%; rối loạn dẫn truyền 12,7%; BTTMCB 7,8%; ALĐMPtt tăng 75,8%; tâm phế mạn 70,6%; THA 30,4%; suy tim 40,1% (suy tim phải 21,5%; suy tim trái 5,9%; suy tim toàn bộ 12,7%) [34]. Cũng theo Ngô Quý Châu và cộng sự (2011) nghiên cứu BLTM và rối loạn chuyển hóa ở bệnh nhân BPTNMT cho thấy tỷ lệ tim mạch gặp phần lớn và làm nặng thêm mức độ trầm trọng của bệnh. Ở các bệnh nhân có BLTM có nguy cơ vào viện vì đợt cấp nhiều hơn và chi phí điều trị cao hơn hẳn so với bệnh nhân BPTNMT không có bất thƣờng tim mạch [35]. - Tại Khoa Tim mạch tổng quát- Bệnh viện Nhân Dân 115 khi nghiên cứu trên 96 bệnh nhân BPTNMT tỷ lệ BLTM nhƣ sau: RLNT 70,8%; THA 66,7%; BMV 48,9%; Tổn thƣơng van tim 43,8%; tăng ALĐMPtt 27,1%; nhồi máu não 3%; suy tim trái 18,8% [36].
  11. 11 1.2.2. Yếu tố nguy cơ chung của bệnh tim mạch và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính Tuy mối liên quan giữa BPTNMT và các biểu hiện tim mạch còn chƣa đƣợc biết đầy đủ, cơ chế bệnh sinh của biểu hiện tim mạch ở bệnh nhân BPTNMT chƣa đƣợc biết rõ, nhƣng ngƣời ta thấy có những yếu tố nguy cơ chung của bệnh tim mạch và BPTNMT nhƣ sau: + Cùng chung yếu tố nguy cơ là hút thuốc lá. Thuốc lá là nguyên nhân của BPTNMT và BLTM. Những ngƣời hút thuốc lá sống ít hơn 7 năm so với ngƣời không hút thuốc lá. Với những ngƣời hút thuốc lá trên 15 bao/năm thì có nguy cơ mắc BPTNMT cao gấp 6,7 lần so với những ngƣời không hút thuốc hoặc hút dƣới 15 bao/năm. Nguy cơ tim mạch của ngƣời không hút thuốc ít hơn 3 lần ngƣời hút thuốc lá. Những ngƣời hút thuốc bằng tẩu và xì gà có bệnh suất và tử suất cao hơn ngƣời không hút thuốc lá, mặc dù tần suất thấp hơn so với ngƣời hút thuốc lá điếu [37]. + Ở bệnh nhân BPTNMT hiện tƣợng điều hòa thần kinh thể dịch bị rối loạn dẫn đến sự gia tăng quá mức hoạt tính của thần kinh giao cảm và giảm trƣơng lực phế vị. Do đó, bệnh nhân BPTNMT có biểu hiện tăng tần số tim, tăng nguy cơ rối loạn nhịp. Những thuốc giãn phế quản cũng góp phần làm cho cơ chế điều hòa tự động rối loạn nặng thêm. RLNT dƣờng nhƣ là hậu quả của sự rối loạn điều hòa tự động hơn là hậu quả của biến chứng thiếu máu cơ tim. + Phản ứng viêm hệ thống ở bệnh nhân BPTNMT đƣợc thể hiện qua những maker gây viêm gây viêm nhƣ tăng CRP gấp 2 lần so với bình thƣờng, Khi BPTNMT có tắc nghẽn đƣờng dẫn khí nặng (FEV1< 50%) có một sự gia tăng CRP gấp 2,18 lần so với ngƣời có chức năng phổi bình thƣờng. Tƣơng tự nhƣ vậy với fibrinogen huyết tƣơng, tiểu cầu và bạch cầu trong máu đều tăng ở bệnh nhân BPTNMT giai đoạn nặng. Các yếu tố viêm sẽ thúc đẩy quá trình xơ vữa động mạch vành dẫn tới BTTMCB.
  12. 12 Chính những ảnh hƣởng của BPTNMT đến hệ tim mạch và sự kết hợp của những BLTM kèm theo càng làm nặng thêm mức độ trầm trọng của bệnh, tăng biến chứng cũng nhƣ tỷ lệ tử vong. Theo Sin D.D. và cộng sự (2005) trong nghiên cứu ảnh hƣởng của BPTNMT đối với tỷ lệ bệnh tật và tử vong của tim mạch đã nhận thấy nếu bệnh nhân có các triệu chứng của BPTNMT thì sẽ làm tăng nguy cơ tử vong đối với BMV lên 50% và những trƣờng hợp bệnh nhân có loạn nhịp thất nguy cơ tử vong cũng tăng lên gấp đôi. Tìm hiểu về mối liên quan giữa BPTNMT và tỷ lệ tử vong của bệnh tim mạch (BTM), các tác giả thấy rằng nếu FEV1 giảm đi 10% thì các nguyên nhân gây tử vong sẽ tăng lên 14% và tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch sẽ tăng lên 28% [8]. Cần khám xét kỹ cả lâm sàng và cận lâm sàng (điện tâm đồ, siêu âm tim mạch, X-quang) đối với nhóm bệnh nhân BPTNMT nhằm mục đích phát hiện sớm các biểu hiện tim mạch để theo dõi, quản lý, tiên lƣợng và điều trị. Theo GOLD, việc can thiệp vào giai đoạn sớm của bệnh sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ biến chứng tim mạch và hạn chế tỷ lệ tàn phế cho bệnh nhân BPTNMT. 1.2.3. Suy tim Các BTM là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong trên thế giới. Trong đó suy tim là một vấn đề quan trọng vì tỷ lệ nhập viện và tử vong do suy tim ngày càng tăng cao ở các nƣớc phát triển và các nƣớc đang phát triển. Nhiều chuyên gia dự đoán suy tim sẽ là BTM chủ yếu trên toàn thế giới vào thập kỷ tới. Tỷ lệ mắc suy tim tăng, một phần do tuổi thọ chung tăng trên toàn cầu, phần khác nhờ những tiến bộ trong điều trị nhồi máu cơ tim. Tại Mỹ trên 5 triệu ngƣời bị suy tim, trong đó xấp xỉ 2% dân số trƣởng thành và có 400.000 ca mới đƣợc phát hiện mỗi năm [38],[39].Tại Châu Âu, với trên 500 triệu dân, tần suất suy tim khoảng 0,4 – 2%, do đó có 2- 10 triệu ngƣời suy tim [40]. Tại Việt Nam, theo thống kê của Viện Tim mạch Việt Nam từ năm 2003-2007, suy tim là một trong những nguyên nhân nhập viện hàng đầu ở Viện Tim mạch Việt Nam, tỷ lệ suy tim là 19,8% và số lƣợng bệnh nhân suy tim ngày càng tăng lên trong những năm gần đây [38].
  13. 13 Suy tim cũng nhƣ BPTNMT đã trở thành vấn đề thời sự trên thế giới, tỷ lệ mắc bệnh cao và có xu hƣớng gia tăng (đặc biệt là ở các nƣớc phát triển), tỷ lệ tử vong cao, là hai trong bốn nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới (BTM, ung thƣ, tai biến mạch máu não và BPTNMT). BPTNMT và suy tim đều là tình trạng nguy hiểm cho sức khỏe và chúng thƣờng xảy ra độc lập, điều quan trọng là phải hiểu đƣợc mối liên quan giữa hai bệnh này. Nếu bệnh nhân đã đƣợc chẩn đoán BPTNMT thì nên biết về nguy cơ suy tim và nếu bệnh nhân có tiền sử hút thuốc lá thì nguy cơ cao mắc cả hai bệnh này [41].Tỷ lệ suy tim trái chiếm khoảng 20-30% trong số bệnh nhân BPTNMT chƣa đƣợc chẩn đoán từ trƣớc. Tỷ lệ suy tim chƣa đƣợc biết đến ở bệnh nhân có tiền sử BPTNMT là 21%. Theo nghiên cứu của Bhatt S.P. và cộng sự, tỷ lệ suy tim tâm trƣơng ở bệnh nhân BPTNMT khoảng 20- 70% và tỷ lệ mắc mới hàng năm là 3-4% [42]. Và theo Ruten F.H., việc chẩn đoán suy tim ở bệnh nhân BPTNMT thƣờng bị bỏ qua vì sự trùng lặp về các dấu hiệu và các triệu chứng lâm sàng [43]. X-quang ngực cũng khó phát hiện do chỉ số tim/ngực bị ảnh hƣởng bởi tình trạng khí phế thũng phổi, cung thất trái giãn có thể khó phát hiện mặc dù thất trái giãn thực sự. Siêu âm khó xác định cửa sổ do khí phế thũng. Trƣờng hợp này làm xét nghiệm NT- proBNP (N-terminal prohormone brain natriuretic peptide) hoặc BNP (B-type Natriuretic Peptide ) rất hữu ích trong phân biệt đợt cấp của BPTNMT và suy tim mất bù. Mặc dù có những khó khăn trong chẩn đoán nhƣng cần phát hiện suy tim ở bệnh nhân BPTNMT vì những ảnh hƣởng của BPTNMT đến hệ thống tim mạch và sự kết hợp của suy tim kèm theo càng làm nặng thêm mức độ trầm trọng của bệnh, tăng biến chứng cũng nhƣ tăng mức độ tử vong. 1.2.3.1. Chẩn đoán suy tim Chẩn đoán suy tim cần kết hợp giữa hỏi bệnh sử và khám thực thể kỹ lƣỡng để có hƣớng chẩn đoán suy tim và các xét nghiệm cận lâm sàng nhƣ siêu âm tim (SA), định lƣợng BNP hoặc NT- ProBNP, điện tâm đồ (ĐTĐ),
  14. 14 chụp X-quang ngực thẳng cũng cần thiết trong mọi trƣờng hợp suy tim. Trong đó, ĐTĐ, X-quang ngực thẳng, SA tim giúp đánh giá mức độ nặng và nguyên nhân suy tim. * Các tiêu chuẩn chẩn o n x c ịnh suy tim theo khuyến cáo của Hội Tim m ch Ch u u Chẩn o n suy tim tâm thu: 3 tiêu chuẩn - Triệu chứng cơ năng: Khó thở khi gắng sức, mệt mỏi, đái ít, phù... - Có dấu hiệu thực thể: nhịp nhanh, thở nhanh, có ran ở phổi, tĩnh mạch cổ nổi, phù ngoại biên, gan to - đau - đàn xếp... - Giảm EF Chẩn o n suy tim t m trương: 4 tiêu chuẩn - Triệu chứng cơ năng - Có dấu hiệu thực thể - EF bảo tồn - Có bằng chứng bệnh cấu trúc cơ tim (dày thất trái, giãn nhĩ trái...) và/hoặc rối loạn chức năng tâm trƣơng, tăng BNP. *Nguồn: theo khuyến cáo của Hội tim m ch Châu Âu 2012(ESC- European Society of Cardiology) [21] 1.2.3.2. Suy tim ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính * Phát hiện suy tim trong BPTNMT BPTNMT có tỷ lệ suy tim cao hơn bệnh nhân không bị BPTNMT [44], [45],[46]. Bênh nhân nghi ngờ có BLTM ở bệnh nhân BPTNMT khi: - Có kèm theo nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch. - X- quang ngực thẳng có bóng tim to. - ĐTĐ có dạng R hoặc Rs, không có hình ảnh S sâu ở V5 - V6 .
  15. 15 - Điều trị BPTNMT tích cực nhƣng không có hiệu quả và bệnh nhân có biểu hiện tình trạng xung huyết phổi nặng trên lâm sàng và X-quang ngực thẳng. Trƣớc các tình huống này để chẩn đoán nhanh và tƣơng đối chính xác cần làm thêm SA tim và xét nghiệm BNP (B- type Natriuretic Peptide) kết hợp với lâm sàng. * Phân lo i suy tim: trên lâm sàng thƣờng phân loại theo theo hình thái định khu: suy tim trái, suy tim phải, suy tim toàn bộ [44]. 1.2.4. Bệnh mạch vành BMV hay đƣợc gọi là BTTMCB chính là nguyªn nh©n hµng ®Çu g©y bÖnh tËt vµ tö vong ë c¸c n-íc ph¸t triÓn. BÖnh cã xu h-íng gia t¨ng rÊt m¹nh ë c¸c n-íc ®ang ph¸t triÓn [47], [48]. Theo sè liÖu thèng kª cña WHO n¨m 2012, ƣớc tính có khoảng 56 triệu ngƣời chết trên toàn thế giới, trong đó BTM vẫn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu với 17,5 triệu ngƣời chết vào năm 2012 (chiếm 32,3% tử vong chung) và trong số tử vong do BTM có 7,4 triệu ngƣời tử vong vì BMV (chiếm 13,2% tử vong chung) [49]. Theo WHO ƣớc tính tö vong do BMV trªn toµn cÇu n¨m 2002 lµ 7,1 triÖu ng-êi sÏ t¨ng lªn ®Õn 11,1 triÖu ng-êi vµo n¨m 2020. Tỷ lệ này ở các nƣớc phát triển khác nhau cũng rất đáng lo ngại. Tại Châu Âu, có tới 600.000 bệnh nhân tử vong mỗi năm do BMV và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong . Ở Việt Nam, trƣớc đây BMV hiếm gặp, theo thống kê của Viện Tim mạch Việt Nam trong 10 năm (từ 1980-1990) có 108 ca nhồi máu cơ tim vào viện. Nhƣng chỉ trong 5 năm (từ 1991-1995) đã có 82 ca nhồi máu cơ tim vào viện. Nhƣng gần đây hơn, Nguyễn Lân Việt thấy có 3.662 bệnh nhân nhồi máu cơ tim nhập viện tại Viện Tim mạch Việt Nam trong 5 năm (từ 2003-2007). Nhƣ vậy, bÖnh
  16. 16 §MV ®ang cã xu h-íng gia t¨ng nhanh chãng những năm gần đây và trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại Việt Nam. Theo WHO, ƣớc tính có 520.000 ngƣời tử vong do mọi nguyên nhân ở Việt Nam vào năm 2012, trong đó BTM chiếm 33%, BPTNMT chiếm 7% [49]. Bệnh nhân BPTNMT có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch cấp tính cao hơn và khoảng 30% tử vong vì các BTM. BMV có thể gặp ở tất cả các bệnh nhân BPTNMT tùy thuộc vào yếu tố nguy cơ. Dữ liệu gần đây cho thấy tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim trong đợt cấp BPTNMT [50].Trong đợt cấp BPTNMT, nguy cơ tổn thƣơng tim tăng lên ở bệnh nhân có BTTMCB. Bệnh nhân có tăng Troponin thƣờng tăng nguy cơ tiên lƣợng xấu bao gồm cả tử vong [28]. Ngoài ra ngƣời ta thấy vai trò của marker viêm (CRP: C-reactive Protein) ở bệnh nhân đợt cấp BPTNMT liên quan đến BMV [51]. Theo Mepel D.W. và cộng sự, tỷ lệ bị BMV ở nhóm BPTNMT là 33,6% cao hơn đáng kể so với 27,1% ở nhóm không bị BPTNMT [52]. Một số nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới cũng cho thấy tỷ lệ cao mắc BMV ở bệnh nhân BPTNMT [53]. ⃰ Một số yếu tố nguy cơ bệnh m ch vành ở bệnh nhân BPTNMT: - Tuổi cao: tuổi càng cao càng có nguy cơ mắc bệnh ĐMV . - Hút thuốc lá: có thể gây co thắt ĐMV, làm tăng Cholesterol xấu trong máu và THA. 30-40% số trƣờng hợp chết vì ĐMV hàng năm có nguy cơ từ hút thuốc lá. Nghiên cứu của Framingham cho thấy nguy cơ đột tử cao gấp 10 lần ở nam và 5 lần ở nữ giới có hút thuốc lá. - THA: đây là yếu tố nguy cơ chủ yếu của bệnh ĐMV và tai biến mạch máu não. - Tăng Cholesterol máu toàn phần: các nghiên cứu cho thấy nồng độ Cholesterol toàn phần trong máu là yếu tố dự báo mạnh về nguy cơ mắc bệnh ĐMV và đột quị. - Đái tháo đƣờng: nghiên cứu Framingham và cộng sự (1997) ghi nhận
  17. 17 ở bệnh nhân đái tháo đƣờng thấy tần suất hàng năm về bệnh ĐMV tăng 1,7 lần ở nam và 2,1 lần ở nữ. - Protein C-reactive (CRP): các nghiên cứu gần đây cho thấy sự gia tăng của CRP trong máu làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành và nhồi máu cơ tim. Trong đợt cấp BPTNMT tỷ lệ CRP thƣờng tăng cao do phản ứng của cơ thể khi bị nhiễm trùng, điều này có thể dẫn đến sự tổn thƣơng của thành động mạch, làm tăng nguy cơ hình thành mảng xơ vữa trong lòng mạch.. 1.2.4.1. Bệnh tim thiếu máu cục bộ - BTTMCB mạn tính còn đƣợc gọi là đau thắt ngực ổn định (ĐTNÔĐ) hay suy vành. Là tình trạng gây ra do ĐMV bị hẹp làm hạn chế cung cấp máu, oxy và các chất dinh dƣỡng cho tim, không có những diễn biến nặng lên và bất ổn của cơn đau thắt ngực trong vòng vài tuần gần đây.Với ĐTNÔĐ thì tình trạng lâm sàng thƣờng ổn định, cơn đau thắt ngực ngắn, xảy ra khi gắng sức và đỡ đau khi nghỉ ngơi, đáp ứng tốt với Nitrates [54]. - ĐTNÔĐ về mặt giải phẫu bệnh là sự ổn định của mảng xơ vữa. Theo ƣớc tính ở Mỹ có khoảng gần 7 triệu ngƣời bị đau thắt ngực và hàng năm có thêm khoảng 350.000 ngƣời bị đau thắt ngực mới [48]. Và theo nghiên cứu của Yusuf S. và cộng sự từ năm 1990- 2020, tỷ lệ tử vong do BTTMCB tăng ở các nƣớc đang phát triển( 120% ở nữ và 137% ở nam) [55]. 1.2.4.2. Chẩn đoán bệnh tim thiếu máu cục bộ a) Lâm sàng: - Triệu chứng cơ năng: Cơn au thắt ngực iển hình: + Vị trí: đau nhƣ bóp nghẹt phía sau xƣơng ức hoặc vùng trƣớc tim, lan lên vai trái và mặt trong tay trái cho đến tận ngón tay đeo nhẫn và ngón út. Đau có thể lan lên cổ, cằm, vai, sau lƣng, tay phải hoặc vùng thƣợng vị + Hoàn cảnh xuất hiện: cơn đau thƣờng xuất hiện khi gắng sức, xúc
  18. 18 động mạnh, gặp lạnh, sau bữa ăn nhiều hoặc hút thuốc lá. Một số trƣờng hợp cơn đau thắt ngực xuất hiện về đêm, khi thay đổi tƣ thế. + Thời gian: thƣờng khoảng vài phút, có thể kéo dài hơn nhƣng không quá 30 phút. Những cơn đau xảy ra do xúc cảm thƣờng kéo dài hơn đau do gắng sức. Ngoài ra, còn có các triệu chứng cơ năng khác nhƣ: vã mồ hôi, khó thở, hồi hộp đánh trống ngực, nôn hoặc buồn nôn, lú lẫn… - Thực thể: Giúp chẩn đoán phân biệt, phát hiện các biến chứng, tiên lƣợng bệnh. Những triệu chứng hay gặp: nhịp tim nhanh, tiếng tim mờ, tiếng ngựa phi, huyết áp có thể tăng hoặc tụt; xuất hiện tiếng thổi mới ở tim: thổi tâm thu do hở van hai lá, thông liên thất do thủng vách liên thất; các rối loạn nhịp tim hay gặp khi nhồi máu cơ tim (NMCT) vùng vách liên thất; các dấu hiệu của suy tim, phù phổi cấp, tiếng cọ màng tim… b) Cận lâm sàng: - ĐTĐ: là một thăm dò sàng lọc trong các BMV. - Đau thắt ngực ổn định: + Có tới >60% số bệnh nhân ĐTNÔĐ có ĐTĐ bình thƣờng. Tuy nhiên nếu ĐTĐ bình thƣờng cũng không thể loại trừ đƣợc chẩn đoán có BTTMCB. + Một số bệnh nhân có sóng Q (chứng tỏ có NMCT cũ), một số khác có ST chênh xuống, cứng, thẳng đuỗi. Trong cơn đau có thể thấy sự thay đổi sóng T và đoạn ST (chênh xuống, sóng T âm). + ĐTĐ còn giúp phát hiện các tổn thƣơng khác nhƣ: phì đại thất, block nhánh, hội chứng tiền kích thích… - Xét nghiệm men tim: + CK (Creatin Kinase): CK-MB đại diện cho cơ tim, chiếm khoảng < 5% lƣợng CK toàn phần (bình thƣờng CK-MB < 24U/L). + Troponin I và T: là 2 loại men có giá trị chẩn đoán cao, đặc hiệu cho cơ tim, có giá trị tiên lƣợng bệnh.
  19. 19 + Các Transaminase AST và ALT: ít đặc hiệu cho cơ tim nhƣng cũng vẫn có giá trị nhất định. Trong NMCT, AST tăng nhiều hơn ALT. - SA tim: + Trong NMCT rất có giá trị, đặc biệt trong thể NMCT không có đoạn ST chênh lên hoặc có block nhánh. Thƣờng thấy hình ảnh rối loạn vận động vùng liên quan đến vị trí nhồi máu. Mức độ rối loạn từ: giảm vận động, không vận động, vận động nghịch thƣờng; phình thành tim; dịch màng tim; huyết khối trong buồng tim… + Ngoài ra SA Doppler tim còn giúp đánh giá chức năng thất trái, các biến chứng cơ học của NMCT nhƣ: thủng vách tim gây thông liên thất, hở van tim do đứt dây chằng…) - Chụp ĐMV: + Là phƣơng pháp quan trọng giúp chẩn đoán xác định có hẹp ĐMV hay không và mức độ cũng nhƣ vị trí tổn thƣơng của ĐMV. + Chỉ định chụp ĐMV ở bệnh nhân suy vành là nhằm mục đích can thiệp mạch vành nếu có thể. Vì đây là một thăm dò chảy máu và khá tốn kém nên chỉ định cần cân nhắc lợi ích thực sự cho bệnh nhân. - Chụp cắt lớp vi tính đa dẫy: Là phƣơng pháp thăm dò không chảy máu hầu nhƣ không có biến chứng. Trong bệnh lý tim- phổi chụp CLVT đa dãy không những có thể đánh giá tình trạng giải phẫu hệ ĐMV, tim và buồng tim mà còn cho phép đánh giá tình trạng các mảng xơ vữa của ĐMV; phát hiện khối choán chỗ trong buồng tim, nhu mô phổi và trung thất; đánh giá tình trạng ứ trệ khí thì thở ra trong bệnh lý BPTNMT... 1.2.5. Rối loạn nhịp tim RLNT gặp khá phổ biến trong BPTNMT và ngƣợc lại [1]. Một số RLNT hay gặp:
  20. 20 - Loạn nhịp trên thất: nhịp nhanh xoang, loạn nhịp xoang, nhịp nhanh nhĩ đa ổ, loạn nhịp xoang, rung nhĩ, cuồng nhĩ, ngoại tâm thu nhĩ, nhịp nhanh kịch phát trên thất. - Loạn nhịp thất: nhịp nhanh thất, cuồng thất và rung thất, ngoại tâm thu thất. - Rối loạn dẫn truyền hoặc block dẫn truyền: block nhánh phải, block nhánh trái. - Rung nhĩ: là vấn đề hay gặp nhất trong các RLNT, làm tăng tỷ lệ bệnh và tỷ lệ tử vong do nguyên nhân tim mạch. Những bệnh nhân BPTNMT có biểu hiện khó thở nặng hơn thƣờng đƣợc ghi nhận có liên quan đến rung nhĩ và nó có thể là yếu tố khởi phát hoặc là hậu quả của một đợt cấp. Rung nhĩ liên quan trực tiếp đến thông số FEV1[1], [56]. RLNT sẽ làm xấu đi tình trạng của bệnh nhân BPTNMT. Nhiều nghiên cứu đã nhận thấy trên 84% BPTNMT ở giai đoạn lui bệnh phát hiện có RLNT, trong đó có 74% trƣờng hợp ghi nhận có loạn nhịp thất. Nguyên nhân của hiện tƣợng này là do tình trạng thiếu oxy máu, tăng CO2, dầy thất phải hay tâm phế mạn, rối loạn chức năng thất trái, toan hô hấp, toan chuyển hóa, kiềm chuyển hóa, giảm kali máu, bệnh mạch vành đi kèm. Ngoài ra còn do sử dụng các thuốc giãn phế quản, thuốc Digoxin, corticoid. Theo nghiên cứu của Ngô Quí Châu và cộng sự có 89,2% bệnh nhân BPTNMT biểu hiện ĐTĐ bệnh lý [34]. Khi có phối hợp với suy hô hấp nhất là trong đợt cấp của BPTNMT thì RLNT thƣờng khá phức tạp, phổ biến, có độ biến thiên khá rộng. Trong số các dạng RLNT thì cơn nhịp nhanh đa ổ là loại loạn nhịp nguy hiểm có ý nghĩa tiên lƣợng xấu cho tử vong và đột tử ở bệnh nhân BPTNMT. Chính vì vậy RLNT cần đƣợc theo dõi và điều trị vì đây là nguyên nhân tử vong ở 8% bệnh nhân BPTNMT và là nguyên nhân nghi ngờ của 20% bệnh nhân BPTNMT trong khi ngủ (trong đó 26% là đột tử). Tuy nhiên, RLNT có khuynh hƣớng giảm đi theo điều tri đợt cấp BPTNMT mà không cần phải điều trị đặc hiệu. 1.2.6. Tăng huyết áp
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2