Đề bài: Phân tích bài Con đường trở thành kẻ sĩ hiện đại của Nguyễn Khắc Viện<br />
Bài làm<br />
Ông đã viết hàng trăm bài báo, chủ biên nhiều sách tiếng Pháp và tiếng Việt được đánh <br />
giá cao trong và ngoài nước về các lĩnh vực: chính trị, văn hóa, văn học, lịch sử, y học, tâm <br />
lý học trẻ em… ông là một hình mẫu về sự kết hợp Đông – Tây của con người Việt Nam <br />
trên đường hội nhập với thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Khắc Viện khẳng <br />
định ông là người có đầy đủ tư cách, thẩm quyền để bàn luận về con đường trở thành <br />
“kẻ sĩ hiện đại”.<br />
Đoạn văn Con đường trở thành “kẻ sĩ hiện đại” trích từ bài Nói theo đạo nhà trong cuốn <br />
Bàn về đạo Nho xuất bản năm 1993. Trong đoạn trích này, ngoài việc kể về quá trình tu <br />
dưỡng của bản thân, tác giả muốn gợi ý về con đường phấn đấu để trở thành kẻ sĩ hiện <br />
đại của trí thức Việt Nam – những trí thức của một dân tộc vốn có độ dày truyền thống <br />
văn hóa. Nhan đề bài viết Con đường trở thành “kẻ sĩ hiện đại” cũng chính là chủ đề của <br />
đoạn trích. Qua bài viết, người đọc hiểu được con đường tu dưỡng và những yếu tố cơ <br />
bản làm nên phẩm chất của một trí thức chân chính trong thời đại hiện nay.<br />
Bài văn có thể chia thành hai phần lớn. Phần 1: Từ đầu đến… nghĩa bạn là lâu dài: Nêu <br />
những ưu điểm của Nho giáo. Phần 2: Sự tu dưỡng của bản thân và những bài học có thể <br />
rút ra từ đó.<br />
Ở phần 1, để nói lên ưu điểm của Nho giáo, trước tiên tác giả nêu những tác động tích <br />
cực của đạo Nho đối với bản thân; những điều may mắn thuận lợi của mình có được do <br />
chịu ảnh hưởng truyền thống đạo lý của đất nước và truyền thống Nho học của gia đình: <br />
…Và con người của tôi lớn lên trong truyền thống một gia đình Nho giáo, tiếp thu tinh <br />
thần khoa học thực nghiệm kết hợp được nhiều mặt… Qua đó, ta hiểu phần nào nền <br />
tảng cốt cách kẻ sĩ hiện đại của ông.<br />
Khi nêu chủ kiến của mình về Nho giáo, về học thuyết Mác và một số vấn đề khác, cốt <br />
cách kẻ sĩ hiện đại ở con người Nguyễn Khắc Viện đã biểu lộ rất rõ. Đó là thấm nhuần <br />
truyền thống đạo lý Nho gia nhưng không thủ cựu mà biết rút tỉa tinh hoa từ nhiều học <br />
thuyết khác nhau, đặc biệt là học thuyết Mác để từ đó xác lập cho mình một cách dấn <br />
thân hợp lí và có hiệu quả. Ông mạnh dạn bày tỏ chủ kiến trên cơ sở phân tích một cách <br />
duy lý, khoa học các ưu điểm, nhược điểm của từng học thuyết, cần lưu ý ở thời điểm <br />
bài viết này ra đời, các quan điểm của Nho giáo đang bị phê phán và coi nhẹ thì những lời <br />
khẳng định của tác giả là rất táo bạo: Cái gốc duy lý của đạo Nho không đối lập với khoa <br />
học, với học thuyết Mác; …Mác trong đạo lý không được nổi bật và cụ thể như trong <br />
Nho giáo Mác xem nhẹ mặt xử thế, tu thân,… Mặt khác, tác giả luôn giữ được thái độ <br />
độc lập với thế quyền, công khai tuyên bố thích cách ứng xử truyền thống của nhà Nho <br />
đối với vua chúa. Ông không đồng nhất con người chính trị với con người đạo lí và tuyên <br />
bố thẳng thắn cách liên minh với chính trị của mình.<br />
Trong bài văn, tác giả phân tích những ưu điểm của đạo Nho từ góc độ tu dưỡng đạo đức <br />
cá nhân qua cách trình bày xoay quanh vấn đề đạo lí. Theo Nguyễn Khắc Viện, ba khái <br />
niệm then chốt là: xử thế, đạo lý, chữ nhân của đạo Nho có sự liên kết về nội dung và ý <br />
nghĩa với nhau. Nhưng khi phân tích thì mỗi khái niệm lại có một ý nghĩa riêng.<br />
Tác giả phân tích khái niệm xử thế một cách rõ ràng và đầy đủ. Xử thế hiểu theo cách <br />
đơn giản là cách sống ở đời, cách đối xử với mọi người xung quanh, ông thẳng thắn bày <br />
tỏ: Tôi thích thú tinh thần có mức độ, ứng xử vừa phải của đạo Nho, sau đó khẳng định: <br />
Có thể nói không có học thuyết chủ nghĩa nào đặt vấn đề “xử thế” rõ ràng và đầy đủ như <br />
vậy. Đặc biệt về cách ứng xử của nhà nho đối với vua chúa.<br />
Tác giả dẫn ba câu chuyện: một của phương Tây, hai của phương Đông để chứng minh <br />
ưu điểm trong cách xử thế của đạo Nho. Khi bất đồng chính kiến thì cách xử thế của Đi<br />
ôgien (nhà sử học Hi Lạp cổ) đối với hoàng đế Alếchxanđơrơ có phần chưa hợp với <br />
người có học, còn cách xử thế của người theo đạo Nho hợp lý đúng mức hơn.<br />
Ông kể rằng: Sách Hi Lạp hay nhắc chuyện, khi hoàng đế Alếchxanđơ rơ đến thăm <br />
Điôgien đang trần trụi nằm ở vỉa hè, ông ta la lên: “Kìa ông kia lùi ra, che hết ánh sáng <br />
của tôi”. Tôi thích câu chuyện của Hứa Do nghe phái viên của nhà vua lần thứ hai đến <br />
mời ra làm quan, liền bỏ đi rửa tai, bảo là rửa sạch những điều dơ bẩn. Nhưng thích hơn <br />
cả là chuyện một nhà nho được vua gọi lên, bảo: “Nhà vua nên đến thăm tôi hơn là tôi <br />
đến thăm nhà vua”. Vua hỏi vì sao – “Vì nếu tôi đến thì tôi mang tiếng là nịnh vua, còn <br />
vua đến tôi thì vua được tiếng là tôn trọng người hiền, quý kẻ sĩ (tức trí thức)”. Từ những <br />
giai thoại đó, tác giả rút ra kết luận:<br />
Tôi thích thú tinh thần có mức độ, ứng xử vừa phải của đạo Nho. Không cường điệu lên <br />
và yêu hết mọi người ngang nhau, mà bảo phải yêu bố mẹ mình, vợ con mình đã rồi mới <br />
đến yêu người khác. Lấy ân báo ân nhưng cũng không đến mức lấy ân báo oán, mà báo <br />
oán thì lấy công bằng mà xử lý, nhận rõ điều gì là phi pháp, nhưng không nhẫn tâm đến <br />
mức đi tố cáo bố mẹ với nhà chức trách. Vì cao hơn pháp luật là tình người, là lòng nhân.<br />
Tác giả giải thích tiếp: Thế nào là nhân? Cả đạo Nho xoay quanh một chữ. Nhân là tính <br />
người, khác với thú vật. Nhân là tình người, nối kết người này với người khác. Có tự <br />
kiềm chế, khắc kỉ, khép mình vào lễ nghĩa mới nên người. Có mở rộng tầm nhìn, lấy <br />
“văn” mà tô đẹp mới thành người. Có gắn bó với người khác thì mới thật là người. Có <br />
thấu hiểu bản thân, trí thiên mệnh mới là con người trưởng thành.<br />
Khi nói tới chữ nhân, tác giả rất quan tâm đến vấn đề tu thân và luôn đề cao trách nhiệm <br />
công dân của con người đối với xã hội. Cách diễn đạt thật ngắn gọn, súc tích. Tuy nói về <br />
giá trị đạo Nho nhưng xác giả có ngụ ý là định hướng cho kẻ sĩ hiện đại.<br />
Trong cách xử thế của đạo Nho, Nguyễn Khắc Viện nhấn mạnh chữ nhân và đạo lí. <br />
Nhân và đạo lí dĩ nhiên không phải là một. Nhân là khái niệm triết học của Khổng Tử, <br />
còn đạo lý là tinh thần của triết học Khổng Tử mà tác giả chiêm nghiệm thấy và rút ra <br />
được để thực hành chữ nhân. Theo ông, đạo lí khác với đạo đức, nhất là khác với chính <br />
trị. Đạo lý là những phẩm chất nhân bản trong mỗi con người và có giá trị bất biến. Còn <br />
đạo đức thì có thể thay đổi theo phong tục tập quán và quan niệm của từng thời đại. Đạo <br />
là cái căn bản để tạo nên nhân cách. Con người có thể ứng biến, tòng quyền, tùy nghi, ở <br />
bầu thì tròn, ở ống thì dài, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy… nhưng không <br />
được xa rời đạo lí. Có giữ vững bản chất của nước thì mới linh hoạt như nước được. <br />
Nhờ giữ vững được đạo lí, Nguyễn Khắc Viện mới có thể trở thành một người hoạt <br />
động linh hoạt và mềm dẻo, dám chênh vênh đi giữa những thái cực đối lập một cách tự <br />
tin và quan trọng hơn là biết dừng (trí chỉ) đúng nơi và đúng lúc. Để làm rõ khái niệm về <br />
đạo lí, tác giả đưa thêm khái niệm chính kiến:<br />
Nhân việc Viện Hàn lâm Pháp tặng giải thưởng năm 1992, có người chê trách tôi đã từng <br />
thay đổi ý kiến nhiều lần. Đúng, thời thế biến chuyển, tôi có thay đổi chính kiến, nhưng <br />
không hề thay đổi đạo lí. Đã gọi là đạo lý, không thể xa rời dù là chốc lát. Không vì giàu <br />
sang mà sa đọa, không vì nghèo khó mà xa rời, không khuất phục trước uy quyền, thời <br />
buổi nào cũng giữ được đường đi.<br />
Có thể liên minh chính trị với quỷ, chỉ kết bạn với người có “đạo”, dù là “đạo” khác. Liên <br />
minh chỉ nhất thời, nghĩa bạn là lâu dài.<br />
Vậy là đã rõ, giữa chính kiến và đạo lý trong con người kẻ sĩ cái nào có thể thay đổi, cái <br />
nào phải luôn giữ vững? Theo tác giả, chính kiến (hiểu là quan điểm chính trị, thái độ <br />
chính trị) là cái có thể thay đổi tùy hoàn cảnh xã hội, còn đạo là cái phải luôn giữ vững. <br />
Tuy tác giả không giải thích vế thứ nhất, (chính trị là gì) nhưng ta hiểu trong quan niệm <br />
của ông (cũng như nhiều người), chính trị là cái có tính nhất thời, gắn với từng giai đoạn <br />
lịch sử cụ thể.<br />
Khi làm chính trị, người ta phải biết “tùy cơ ứng biến”, như việc hoạch định đường lối <br />
cho sự phát triển của đất nước không phải chỉ làm một lần là xong. Nó luôn phải được <br />
nhận thức lại, bổ sung thêm, điều chỉnh, sửa đổi, trên cơ sở thâu nạp thêm nhiều dữ kiện <br />
mới nảy sinh trong cuộc sống đầy biến động. Khi giao tiếp, tuy chỉ là một vấn đề nhưng <br />
đối tượng giao tiếp khác nhau thì cách ứng xử cũng khác nhau. Đạo lý thì không thể thay <br />
đổi, bởi vì đạo lí là yếu tố cơ bản tạo nên nhân cách, làm cho con người sống ra con <br />
người, biết khép mình vào lễ nghĩa, thấu hiểu bản thân, tri thiên mệnh, không vì giàu sang <br />
mà sa đọa, không vì nghèo khó mà xa rời, không khuất phục trước uy quyền, gắn bó với <br />
người khác, nặng nợ với đất nước, với làng xóm, với phố phường và đặc biệt là giúp con <br />
người kết nối được với truyền thống tốt đẹp của ông cha, không bị đứt hết gốc rễ.<br />
Trong suốt, bài viết, tác giả đã thể hiện một cái nhìn duy lý, thấu suốt về vấn đề cần <br />
trình bày, có tinh thần tự chủ cao độ, hiểu rất rõ việc cần làm, đang làm. Ông không hề né <br />
tránh đối thoại với những người chê trách mình, thẳng thắn thừa nhận mình có thay đổi <br />
chính kiến. Qua cách lý giải vấn đề của tác giả, ta thấy ở con người ông nổi bật cốt cách <br />
của một kẻ sĩ thấm nhuần đạo lý Nho gia, tiếp thu có chọn lọc được tinh thần duy lý của <br />
phương Tây và có thái độ tự tin của “ông đồ xứ Nghệ”.<br />
Nếu ở phần thứ nhất, tác giả chủ yếu nêu lên những Ưu điểm của đạo Nho thì ở phần <br />
thứ hai, tác giả nói đến sự tu dưỡng của bản thân và những bài học rút ra từ thực tế đó. <br />
Ông nêu rõ con đường và mục đích sống của đời mình : Đóng góp phần mình cho cuộc <br />
đấu tranh cứu nước, xây dựng dân chủ, khoa học nhân văn là ba bước đường tôi đã lựa <br />
chọn. Đạo là con đường. Nhân văn là tìm hiểu con người về cả ba mặt sinh học – xã hội <br />
– tâm lý để cố luyện mình theo ba hướng: dưỡng sinh (thầy Khổng bỏ qua mặt này), xử <br />
thế, tu thân (Mác xem nhẹ mặt này), ông muốn đóng góp phần mình cho sự nghiệp đấu <br />
tranh cứu nước, xây dựng dân chủ và khoa học nhân văn.<br />
Theo ông, tu dưỡng bản thân nghĩa là phải không ngừng luyện mình theo ba hướng: <br />
dưỡng sinh, xử thế, tu thân, sống theo đạo lí chứ không theo tư tưởng Thiên mệnh của <br />
Nho học. Trước sau, ông vẫn là con người duy vật theo học thuyết Mác. Thực tế cho thấy <br />
ông là người tiếp thu, vận dụng có sáng tạo những ưu điểm của các học thuyết khác nhau <br />
để đạt được mục đích : chỉ mong làm con người cho ra người.<br />
So sánh bản thân với các bậc trí thức Nho học mà cụ thể là người cha của mình, tác giả <br />
thấy mình có may mắn hơn là được tiếp thu nguồn văn hóa phương Tây và lúc trưởng <br />
thành thì nước nhà lại bước sang trang sử mới nên người trí thức có nhiều cơ hội để giúp <br />
nước.<br />
Từ vốn kiến thức thực tế, tác giả tiếp tục nghiền ngẫm và kiểm nghiệm lại sách vở của <br />
Khổng – Mạnh, Raxin, Huygô… Điều đó cho thấy ông đã tránh được sự giáo điều, xơ <br />
cứng của sách vở và nhờ đó mà hiểu sâu hơn kiến thức từ sách vở, giúp bản thân đạt đến <br />
mức uyên thâm trong học vấn.<br />
So sánh giữa trí thức phương Tây với trí thức phương Đông, tác giả cho rằng con người <br />
phương Tây được sống với quyền tự do cá nhân tuyệt đối nhưng vì đứt khỏi cội rễ nên <br />
thành những cá thể cô đơn, bơ vơ ; trong khi đó, tác giả có cái may mắn – cũng là đặc <br />
điểm của trí thức phương Đông là được sống với chủ nghĩa tự do cá nhân nhưng không <br />
dứt bỏ truyền thống, vẫn học từ Chu Văn An đến Phan Bội Châu nên vẫn nặng nợ với <br />
đất nước, với quê hương và có nơi nương tựa vững chắc là cộng đồng giai cấp và dân <br />
tộc.<br />
Văn phong trong đoạn này trong sáng, giản dị và cứng cỏi – thể hiện nội lực của một cây <br />
bút báo chí lão luyện. Chọn cách diễn đạt như vậy, phải chăng tác giả muốn tránh việc <br />
phô bày cái tôi, tránh việc tô vẽ cho bản thân? Kể chuyện riêng của mình nhưng tác giả <br />
không có ý gì khác ngoài việc thấy cần thiết phải nêu một ví dụ về con đường phấn đấu. <br />
Tước bỏ đại từ “tôi”, trong trường hợp này, tác giả muốn hướng thẳng đến đối tượng, <br />
phá bỏ khoảng cách giữa người viết với người đọc để người đọc có thể nhập ngay vào <br />
phần cốt lõi của vấn đề.<br />
Con đường trở thành “kẻ sĩ hiện đại” là một bài văn nghị luận mẫu mực được viết với <br />
chủ kiến rõ ràng, bố cục hợp lý, cách lập luận chặt chẽ, vừa có lý vừa có tình, kết tinh <br />
những trải nghiệm sâu sắc của tác giả trước con người và cuộc đời. Qua đoạn trích, <br />
chúng ta hiểu thêm về những yếu tố cơ bản góp phần tạo nên đặc điểm nhân cách của <br />
một kẻ sĩ hiện đại được thâu tóm trong ba chữ: chữ nhân, xử thế, đạo lí. Từ đó, chúng ta <br />
thấy rõ sự cần thiết của việc mỗi con người phải tự xây dựng được cho mình một <br />
nguyên tắc ứng xử thích hợp để tu dưỡng, hoàn thiện nhân cách và để đóng góp nhiều <br />
nhất cho xã hội, cho sự nghiệp phát triển đất nước.<br />
<br />