intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp 4

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

54
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là sau khi thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh thì các em có được kết quả cao trong học tập và rèn luyện. Từ đó hình thành cho các em những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên những lớp trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp 4

  1. I. Phần mở đầu: 1. Lý do chọn đề tài. Thông tư  22 của Bộ  GD&ĐT ban hành ngày  06/11/2016  trên cơ  sở  hoàn  thiện Thông tư 30. Thông tư đã có một số sửa đổi, bổ sung về đánh giá học sinh,   trong đó có một số  quy định mà bản thân tôi rất quan tâm đó là về  việc đánh giá   thường xuyên và đánh giá định kì. Đánh giá thường xuyên về  năng lực, phẩm  chất. Đánh giá định kì về học tập. Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng  việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh;   giúp học sinh phát huy nhiều nhất khả năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách  quan. Đánh giá sự  hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh.  Đánh giá thường xuyên về học tập: Giáo viên dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết   được chỗ  đúng, chưa đúng và cách sửa chữa; viết nhận xét vào vở  hoặc sản   phẩm học tập của học sinh khi cần thiết, có biện pháp cụ  thể  giúp đỡ  kịp thời.  Học sinh tự nhận xét và tham gia nhận xét sản phẩm học tập của bạn, nhóm bạn  trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ  học tập để  học và làm tốt hơn. Khuyến   khích cha mẹ  học sinh trao đổi với giáo viên về  các nhận xét, đánh giá học sinh   bằng các hình thức phù hợp và phối hợp với giáo viên động viên, giúp đỡ học sinh  học tập, rèn luyện. Việc ra đời Thông tư 22 là cần thiết để có bước đổi mới phù   hợp thực tế hơn, tạo ra khí thế mới cho giáo viên và học sinh Tiểu học. Trường Tiểu học Lê Hồng Phong nhiều năm liền dạy học theo mô hình  trường học mới (VNEN) các giáo viên luôn thực hiện đúng theo tinh thần của   thông tư, đã không ngừng cố  gắng vươn lên, có những tiến bộ  vượt bậc và đạt  được những thành tích đáng kể. Được làm việc trong một môi trường như  vậy  bản thân tôi luôn suy nghĩ: Làm thế nào để đẩy mạnh sự  phát triển giáo dục nói   chung, nâng cao chất lượng giáo dục lớp mình chủ nhiệm nói riêng ? Làm thế nào   1
  2. hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục của năm học 2016 – 2017? Đó là những câu hỏi  mà tôi luôn trăn trở. Hiện nay chủ  trương của ngành là dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng  của môn học. Thông tư 22 đặc biệt chú trọng việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết   quả học tập và rèn luyện của học sinh. Để nâng cao chất lượng giáo dục đòi hỏi   sự nỗ lực cố gắng của cả cô và trò. Người giáo viên chủ  nhiệm giữ  nhiều vai trò: vừa là thầy dạy học vừa là  người cha, người mẹ  và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của các em. Từ  đó có thể uốn nắn các em đi theo quỹ đạo của mình.  Sau nhiều năm đứng lớp và  làm công tác chủ  nhiệm, bản thân tôi cũng tích lũy được một vài kinh nghiệm.   Trong khuôn khổ  của bài viết này, tôi mạnh dạn chia sẻ  cùng đồng nghiệp một  số  kinh nghiệm về  : “Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh   lớp 4”. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. Mục tiêu của đề tài là sau khi thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất   lượng giáo dục cho học sinh thì các em có được kết quả cao trong học tập và rèn  luyện. Từ  đó hinh thanh cho các em nh ̀ ̀ ưng c ̃ ơ  sở  ban đâu cho s ̀ ự  phat triên đung ́ ̉ ́   ̀ ̀ ̣ ức, tri tuê, thê chât, thâm my va cac ky năng c đăn va lâu dai vê đao đ ́ ̀ ́ ̣ ̉ ́ ̉ ̃ ̀ ́ ̃ ơ  ban đê hoc ̉ ̉ ̣   ́ ̣ ̣ sinh tiêp tuc hoc lên những lớp trên. Nhiệm vụ  của đề  tài là nghiên cứu các biện pháp và cách thực hiện từng   biện pháp làm sao để  đạt kết quả  tốt nhất trong việc nâng cao chất lượng giáo  dục cho học sinh. 3. Đối tượng nghiên cứu. Phân tích, đánh giá thực trạng của lớp chủ nhiệm từ đó đưa ra một số biện  pháp tối  ưu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp 4. Trên cơ  sở  theo dõi, so sánh, đối chiếu chất lượng giáo dục trong suốt học kì I và cả năm học   2
  3. học 2016 ­ 2017của học sinh lớp 4D, trường tiểu học Lê Hồng Phong, xã Eana,  huyện Krông Ana, tỉnh ĐăkLăk. 4. Giới hạn của đề tài. Với khả  năng và điều kiện của bản thân, tôi tập trung nghiên cứu một số  kinh nghiệm, biện pháp của giáo viên chủ  nhiệm trong những năm học vừa qua  để làm tốt công tác nâng cao chất lượng giáo cho học sinh lớp chủ nhiệm. 5. Phương pháp nghiên cứu. a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết. b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, trực quan, nêu gương,  hỏi đáp ... c) Phương pháp thống kê toán học. II. Phần nội dung 1. Cơ sở lý luận Theo   Thông   tư   số   41/2010/TT­BGDĐT   ngày   30/10/2010   và   Thông   tư   số  50/2012/TT­BGDĐT ngày 18 tháng 12 năm 2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Sửa   đổi, bổ  sung Điều 40 của Thông tư  số  41/2010/TT­BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm   2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Điều lệ  Trường Tiểu học  quy định độ  tuổi của học sinh tiểu học từ sáu đến mười bốn tuổi (tính theo năm).  Đây là lứa tuổi các em rất hiếu động, chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận thức  được điều gì là đúng và điều gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của mọi việc  xảy ra xung quanh mình. Chính vì vậy giáo viên chủ  nhiệm   cần nắm bắt được  những đặc điểm tâm lí của học sinh để  từ  đó đưa ra những biện pháp giáo dục  phù hợp giúp các em hoàn thiện nhân cách. Tạo một môi trường lớp học mà ở đó  các em vừa cảm thấy thoải mái, dễ  chịu nhưng cũng phải tuân theo những nội   quy, quy định phù hợp với lứa tuổi để  các em ngày một tiến bộ  hơn.   Vậy nên  trong quá trình làm công tác chủ  nhiệm tôi luôn  xây dựng và duy trì một môi  3
  4. trường học tập tốt giúp học sinh của mình hoàn thành một cách hiệu quả  mục  tiêu đã định. Muốn thực hiện tốt đòi hỏi mỗi chúng ta phải có kĩ năng sư  phạm,   năng lực chuyên môn vững vàng. Đó là một trong những yếu tố  quan trọng đảm  bảo sự thành công của người giáo viên. Theo tinh thần của Thông tư  22, giáo viên chủ  nhiệm: Chịu trách nhiệm  chính trong việc đánh giá học sinh, kết quả  giáo dục học sinh trong lớp; hoàn   thành hồ sơ đánh giá học sinh theo quy định; nghiệm thu, bàn giao chất lượng giáo   dục học sinh. Thông báo riêng cho cha mẹ học sinh về kết quả đánh giá quá trình  học tập, rèn luyện của mỗi học sinh. Hướng dẫn học sinh tự  nhận xét và tham  gia nhận xét bạn, nhóm bạn. Tuyên truyền cho cha mẹ học sinh về  nội dung và  cách thức đánh giá theo quy định tại Thông tư  này; phối hợp và hướng dẫn cha   mẹ  học sinh tham gia vào quá trình đánh giá. Vì vậy người giáo viên giữ  vai trò  chủ đạo trong mọi hoạt động giáo dục của nhà trường, của lớp. Chính vì thế mỗi   giáo viên không chỉ  trang bị  cho mình kiến thức vững vàng, chuyên môn giỏi mà   đòi hỏi phải có năng lực tổ chức, điều khiển mọi hoạt động của lớp, trong đó vai  trò quan trọng là công tác nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Bản thân tôi  luôn trăn trở trong suốt năm tháng làm công tác chủ nhiệm của mình. Để thực hiện mục tiêu mà mình đặt ra, tôi thiết nghĩ người giáo viên cũng   như  người làm vườn, trồng cây, tuy không đúng hoàn toàn nhưng hoạt động của  giáo viên chủ  nhiệm gần như  người trồng cây, chăm sóc vun trồng cây giống.  Người làm việc không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải chăm sóc tạo điều kiện  cho hạt giống nảy mầm. Cho nên, bản thân là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn  tâm niệm dạy dỗ giáo dục các em trở thành những con người hữu ích cho xã hội  để  xứng đáng với những hình  ảnh đẹp mà xã hội ban tặng như  đồng chí Phạm   Văn Đồng đã nói: "Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao   quý vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo". 2. Thực trạng 4
  5. Năm học 2016 – 2017, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4D có  tổng số học sinh là 19 em, trong đó nữ 12 em, dân tộc 12em, NDT 7 em. Học sinh   đã được học 2 năm theo mô hình trường học mới. Các kiến thức về  Toán học,   Tiếng Việt, các môn hoạt động giáo dục ở lớp 3 nhẹ nhàng hơn. Song lên lớp 4,   bước sang giai đoạn học tập mới, khối lượng kiến thức  ở  các môn học nhiều   hơn, cao hơn. Ví dụ: Các văn bản của môn Tiếng Việt dài hơn, kiến thức môn  Toán mới, nhiều và cao hơn. Các môn học mới hơn: Khoa học, Lịch sử  ­ Địa   lí,...Đòi hỏi tư  duy, tính học tập của học sinh nghiêm túc hơn, kĩ năng tự  học  nhiều hơn. Vì vậy qua một thời gian làm quen lớp, với sự quan sát, khảo sát chất  lượng học tập tôi tổng hợp được kết quả như sau: Tổng  Chưa hoàm  Hoàn thành tốt Hoàn thành số  thành Môn học  SL % SL % SL % sinh Tiến g  19 2 10,5 10 52,6 7 36,9 Việt Toán 19 3 15,8 8 42,1 8 42,1 Kết quả trên có thể xuất phát từ nhiều lí do: Sau hơn hai tháng hè các em tự  do bay nhảy, không phải đến lớp đến trường nên phần nào đã quên kiến thức. Nề  nếp đầu năm học còn lộn xộn, một số em chưa quen với việc dậy sớm để đi học   đúng giờ nên vẫn con tình trạng học sinh đi học trễ.  Sự chuẩn bị bài vở, đồ dùng  học tập ở nhà của các em chưa chu đáo. Ý thức tự giác hoàn thành nhiệm vụ học   của một vài cá nhân còn hạn chế. Hội đồng tự quản làm việc hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy mà bản thân tôi luôn trăn trở tìm ra được những biện pháp để  giáo dục học sinh phải đạt chuẩn KTKN của các môn học; hoàn thành tốt và đạt  5
  6. được các năng lực, phẩm chất theo yêu cầu của lớp 4 để  nâng cao chất lượng   giáo dục. Hội đồng tự  quản làm việc tích cực và tự  giác, các em có thể  tự  điều  khiển được lớp học thậm chí không cần sự tham gia của giáo viên. Các em là học  sinh dân tộc thiểu số  phát triển vốn ngôn ngữ  và phát triển thêm các năng lực,  phẩm chất, mạnh dạn, tự  tin trong giao tiếp,  ứng xử . Học sinh phấn khởi, hào  hứng khi đến trường, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập. Các em không  chỉ  có ý thức tự  giác trong học tập như  lo học bài cũ, chuẩn bị  bài mới, đi học   chuyên cần mà còn hỗ trợ nhau cùng tiến bộ ( em biết nhiều giúp em biết ít). Các  em gần gũi với cô hơn, sẵn sàng chia sẻ  mọi chuyện, coi cô như  là người chị,   người bạn của mình; được làm việc nhiều hơn, yêu thích việc học; các em được  Học ⇒Hỏi ⇒Hiểu ⇒ Thực hành  = > Vận dụng. Mỗi chúng ta làm công tác chủ nhiệm muốn bảo đảm công tác chuyên môn   lẫn công tác chủ  nhiệm thật tốt, đòi hỏi phải có tâm và có tài. Tâm của người  GVCN là xem các em như  con để  không ngại tốn thời gian, công sức cho lớp  mình phụ  trách. Tài của GVCN là tùy theo đặc điểm, tình hình lớp mà có những  biện pháp phù hợp để quản lý và giáo dục lớp mình chủ nhiệm. Đầu năm, khi nhận lớp việc đầu tiên tôi làm là nắm bắt thông tin cá nhân  từng em qua lý lịch trích ngang theo mẫu in sẵn. Từ đó tôi phân hóa các đối tượng  học sinh để có biện pháp giáo dục. Từ những thông tin tìm hiểu được, tôi gần gũi  trò chuyện tiếp xúc với các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng   để  có thể dễ dàng bộc lộ  tâm tư  tình cảm, điều mong muốn của chính mình khi  cần thiết. Qua đó, thầy cô hiểu các em hơn và kịp thời ngăn chặn những suy nghĩ  nông cạn, sai lầm hay các hành vi không hay… hướng các em vào điều tốt đẹp,   lạc quan hơn. Song song với vấn đề trên, việc tạo mối quan hệ mật thiết với cha mẹ HS   cũng là điều hết sức quan trọng. Không đợi đến các cuộc họp phụ huynh hay khi  6
  7. các em vi phạm nội qui trường lớp mới mời phụ  huynh lên để  trao đổi. Tôi   thường xuyên trao đổi với phụ huynh qua các phương tiện thông tin, đến gia đình   học sinh trao đổi, tư vấn cách dạy dỗ con học và cách cha mẹ học sinh cùng học  với con. Từ đó tạo được mối quan hệ thân mật giữa tôi với gia đình học sinh. Qua  đó phụ huynh có hứng thú, hào hứng và thỏa mái cùng tham gia vào quá trình đánh  giá học sinh theo tinh thần của Thông tư 22 Tôi luôn đóng vai trò làm chiếc cầu nối giữa nhà trường với học sinh và gia  đình học sinh, giữa các giáo viên bộ môn với học sinh… Một nhiệm vụ không thể  thiếu đó là phải có kế hoạch và biện pháp giúp cho lớp nâng dần chất lượng học   tập, năng lực và phẩm chất ngày một cao hơn. Trước tiên, phải làm cho các em   thích đi học. Phân nhóm học tập cùng sở  thích. Xây dựng “ Lớp học thân thiện,  học sinh tích cực”. Dạy học phải phân hóa được đối tượng học sinh và nâng cao   chất lượng đại trà. Qua mỗi tiết học, mỗi hoạt động học tôi đều chú trọng đến  hoạt động thực hành kĩ năng sống cho học sinh. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp: a. Mục tiêu của giải pháp Đề  tài đưa ra những biện pháp mà người giáo viên chủ  nhiệm phải thực   hiện tốt để  giáo dục học sinh lớp 4 về  kiến thức, năng lực và phẩm chất giúp  học sinh thích đến trường, thích được học và tìm được niềm vui  ở  đó, tìm được  sự  tin tưởng, tìm được tình bạn trong sáng, tình thầy trò cảm động. Nơi các em  được  ươm mầm, được chăm sóc và yêu thương.  “Chính sự  quan tâm, lòng yêu  thương và sự  chia sẻ  của người thầy đã giúp những đứa trẻ  phát huy hết khả  năng của chúng.” – theo John O’brien. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp b. 1 Nắm thông tin học sinh 7
  8. Để  hoàn thành tốt nhiệm vụ  của mình, đề  ra các biện pháp giáo dục học  sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm   được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Do vậy, ngay từ ngày đầu  nhận lớp, tôi thực hiện ngay công tác điều tra thông qua mẫu phiếu điều tra của   trường. Tôi phát cho mỗi em một phiếu điều tra và yêu cầu các em điền đầy đủ  thông tin trong phiếu. Qua phiếu điều tra, tôi nắm được đầy đủ  các thông tin cần thiết về  từng   học sinh, hiểu một phần về  học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho tôi trong  công tác giảng dạy và giáo dục. Ví dụ: em Đỗ Thị Ngọc Quyên bố gặp tai nạn bị mù phải tham gia vào Hội  người mù của tỉnh nhà đi kiếm tiền gởi về cho mẹ em nuôi 3 con ăn học. Em H’  Dên bố  mất sớm, mẹ  nghiện rượu thường xuyên đánh đập em. Em H’ SaRa bị  bệnh tim bẩm sinh...Trong lớp có tổng số 7 hộ nghèo. Căn cứ vào tình hình của lớp dưới qua dự giờ, thăm lớp và các bài kiểm tra,  Bảng tổng hợp kết quả đánh giá giáo dục của lớp, lời nhận xét trong học bạ... để  biết được học lực của từng em, biết các em mạnh ở điểm nào, hạn chế ở đâu để  có kế hoạch trong công tác giảng dạy. Ví dụ: em H’Kim Tha hát hay múa dẻo. Em H’Tra rất thích học môn Tiếng  Anh. Em Nguyễn Văn Tài nhút nhát, sợ giao tiếp trước đám đông... Qua điều tra về thông tin học sinh giúp tôi định hướng được kế hoạch chủ   nhiệm và kế hoạch dạy học để từng bước giúp các em hoàn thiện hơn những hạn   chế của bản thân và phát huy hết năng lực vốn có của mình b. 2 Hoàn thiện tổ chức lớp và tiêu chí thi đua Trong mô hình lớp học VNEN, ban tự quản lớp học năng động, sáng tạo và   có trách nhiệm sẽ  hỗ  trợ  rất nhiều cho giáo viên trong công tác giáo dục và đây   cũng là việc làm khá quan trọng trong công tác chủ nhiệm. Chính vì vậy ngay từ  đầu năm học tôi đã hoàn thiện được tổ chức lớp học. 8
  9. Hội đồng tự quản lớp tốt thì sẽ  giúp lớp có nề  nếp tự quản tốt, tôi đã chú   trọng việc bồi dưỡng ý thức và công việc phải làm cho Hội đồng tự  quản. Phân  công nhiệm vụ  cụ  thể  cho từng ban. Vào các buổi sinh hoạt tập thể, dưới sự  hướng dẫn của tôi Hội đồng tự quản đã điều hành mỗi hoạt động của buổi sinh   hoạt lớp. Mấy tuần đầu các em còn bỡ  ngỡ, sau một thời gian dưới sự  hướng   dẫn của tôi các em đã mạnh dạn điều hành được buổi sinh hoạt lớp một cách   nhịp nhàng phát huy tính tự  quản cũng như  rèn học sinh trong lớp kĩ năng giao  tiếp, mạnh dạn, tự tin. Song song với việc thành lập Hội đồng tự  quản là việc cùng với học sinh  và các ban xây dựng tiêu chí thi đua. Việc xây dựng tiêu chí thi đua rất quan trọng  vì thi đua thúc đẩy phát triển của nhóm của lớp. Ngay từ  đầu năm tôi cùng với  Hội đồng tự quản và các nhóm trưởng xây dựng tiêu chí thi đua. Sau đó thông qua  cả  lớp để  xin ý kiến đóng góp của từng cá nhân để  hoàn thiện và thực hiện.  Thông qua và xin ý kiến phụ  huynh tại cuộc họp phụ  huynh đầu năm. Sau đó  thống nhất, đưa ra tập thể lớp kí cam kết và thực hiện, lấy đó làm cơ sở để xếp   loại thi đua. Ví dụ: Một số tiêu chí thi đua như sau: ­ Học tập (50 điểm): Tích cực, tự giác và hoàn thành các nhiệm vụ học tập,  đi học đều và đúng giờ; có ý thức rèn chữ giữ vở, có tinh thần giúp đỡ nhau trong  học tập; biết giữ gìn, khai thác và xây dựng các góc công cụ. ­ Nề nếp (20 điểm): Xếp hàng vào lớp và ra về ngay ngắn, trật tự, tham gia  tập thể dục buổi sáng và giữa giờ nghiêm túc, trang phục đến lớp đúng quy định:   khăn quàng, quần áo đồng phục,…chấp hành nghiêm nội quy trường lớp. ­ Vệ  sinh (20 điểm): Giữ  vệ  sinh cá nhân sạch sẽ, có ý thức giữ  vệ  sinh  trường lớp. ­ Các hoạt động khác (10 điểm): Tham gia mọi phong trào do trường, lớp tổ  chức. 9
  10. Các nhóm trưởng, ban tự  quản của lớp tổng hợp, căn cứ  vào kết quả  đạt  được để xếp loại thi đua cá nhân, nhóm. Xây dựng Hội đồng tự quản là một việc làm hết sức quan trọng, nó đã góp   nên sự  thành công của tôi trong việc thực hiên nhiệm vụ  của đề  tài.  Việc xây   dựng tiêu chí thi đua cũng có sự điều chỉnh và thay đổi, bổ sung kịp thời tùy theo   tình hình thực hiện nội quy, nề  nếp và ý thức rèn luyện của học sinh. Giúpcho   mỗi em có cơ  sở  để  phấn đấu và việc làm này cũng giúp giáo viên thực hiện dễ   dàng trong việc đánh giá thường xuyên. b. 3 Duy trì sĩ số, đảm bảo tỉ lệ chuyên cần Để việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh thì việc duy trì sĩ số/ ngày   là việc làm quyết định vì học sinh có đến lớp học thì các em mới thiếp thu được  kiến thức từ đó mới có kiến thúc để phát triển toàn diện. Với điểm trường mà tôi đang dạy, học sinh phần đa là con em người dân tộc   thiểu số ( 12/ 19 học sinh), gia đình có hoàn cảnh khó khăn ( hộ nghèo 5 em, có em  mồ  côi mẹ  cha đi lấy vợ  phải  ở  với ông bà; có em mồ  côi cha, mẹ  lại nghiện  rượu;... ). Cha mẹ các em phải lo bữa ăn hàng ngày cho gia đình, một số phụ huynh ít   quan tâm đến việc học tập của các em nên việc các em nghỉ học, bỏ học ảnh hưởng   đến việc tiếp thu bài và kết quả học tập là điều không tránh khỏi.  Chính vì lẽ đó để  chất lượng giáo dục được nâng cao thì việc duy trì sĩ số, đảm bảo tỉ  lệ  chuyên  cần là vô cùng quan trọng. Vì vậy để duy trì sĩ số, đảm bảo tỉ lệ chuyên cần tôi  đã thực hiện như sau: Ví dụ:  Phổ biến nội quy lớp ngay tuần đầu của năm học. Quy định rõ: học  sinh phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép.  Ngay buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm tôi thông báo cho phụ huynh biết về  quy định và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở.   Học sinh đến trường tự  mình đánh dấu vào Bảng theo dõi “Ngày em đến lớp”. Tôi liên lạc ngay với phụ huynh  đối với những trường hợp học sinh tự ý bỏ học. Động viên, tuyên dương kịp thời  10
  11. những em có tiến bộ, khuyến khích các em có sự  phấn đấu cao hơn. Quan tâm  đến học sinh có hoàn cảnh khó khăn:  Đăng kí cho các em được nhận dụng cụ,  sách vở, quần áo do Nhà trường, Liên đội và các tổ chức từ thiện hỗ trợ ngay từ  đầu năm. Mua sẵn bút chì, thước, ruột bút kim,… để trong cặp khi các em bị hết   mực, hư  hỏng, mất mát thì đã có ngay để  dùng. Kêu gọi các học sinh trong lớp  dành tặng bạn một số quần áo cũ và tranh thủ sự hỗ trợ từ một số giáo viên, phụ  huynh.  Gặp trực tiếp ban tự quản thôn buôn, Hội phụ nữ của thôn buôn trao đổi  tình hình của em H’ Dên đề cùng tôi đến gia đình động viên, tư vấn. Qua các việc  làm trên đến nay em Y Qúy, H’ Salem đã đi học đều, không nghỉ  buổi học nào  nữa, ý thức học tập của em Y Năng, Y Hưng đã tốt hơn. Mẹ  em H’ Dên đã bớt   uống rượu, quan tâm hơn đến việc học của con và không còn đánh đập em nữa.  Em Hiếu nhà nghèo thường nghỉ  học vì không có quần áo đi học, giờ  đây em đã   tự  tin đến trường vì em đã được Đội tặng áo quần. .. Mỗi lần có học sinh nghỉ  học phụ huynh đã chủ động liên lạc với tôi. Bản thân tôi thường xuyên nghiên cứu  kĩ các văn bản chỉ đạo việc dạy học cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn để đưa ra  các phương pháp, hình thức và nội dung dạy học cho phù hợp với chuẩn kiến thức  kĩ năng mà các em cần đạt được. Việc duy trì được sĩ số  tốt là cơ  sở  để  nâng cao chất lượng giáo dục hai   mặt  ở  học sinh. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, không   ngại khó, ngại khổ, thường xuyên liên hệ  với gia đình học sinh làm công tác tư   tưởng và động viên học sinh ra lớp. Trên lớp tạo điều kiện cho các em được làm   việc, được hợp tác và được vui chơi. b. 4 Xây dựng “ Lớp học thân thiện, học sinh tích cực” Để tạo không gian lớp học thân thiện, gần gũi và lôi cuốn học sinh  tôi tiến  hành việc trang trí lớp học theo mô hình trường học mới gồm nhiều   góc được  trang trí phục vụ  cho các môn học (Môn Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử  ­   Địa lí,…). Ví dụ: Trong giờ học nhóm trưởng đến góc học tập lấy phiếu bài tập  11
  12. hoặc bài tập nâng cao. Giờ  ra chơi học sinh vào góc thư  viện đọc sách báo. Các   em trưng bày những sản phẩm học tập để  các bạn chia sẻ. Các em tới thư  viện   xanh chăm sóc cây xanh, khám phá thiên nhiên… Những góc công cụ  tạo điều  kiện để  các em chủ  động tìm tòi tư  liệu, thông tin, được trình bày, biểu diễn   những kết quả học tập. Phụ huynh cũng được đến thăm các em học như thế nào  và có điều kiện có thể  giúp đỡ  các em. Học sinh được học tập ngay trong quá  trình trang trí các góc.Việc học đã không đơn giản là đọc chép, mà có học, có  nghiên cứu, có trình bày, báo cáo. Các em có điều kiện học tập với các tài liệu,   các kiến thức mà mình và bạn tìm kiếm được. Vì vậy việc xây dựng các nhóm học tập cùng sở  thích với mô hình VNEN,  chủ  yếu việc học của học sinh là học nhóm để  cùng nhau thi đua. Ví dụ: Mỗi   nhóm tôi phân một nhóm trưởng, một quyển sổ theo dõi học tập và các mặt hoạt  động của từng thành viên trong nhóm. Khuyến khích tinh thần đoàn kết của mỗi   nhóm để các thành viên giúp đỡ lẫn nhau sao cho các bạn học chậm hơn theo kịp,  nếu các bạn chưa hiểu bài thì nhóm trưởng phân công bạn cùng trong nhóm giảng  lại cho bạn hiểu. Đồng thời giao cho nhóm trưởng kiểm tra việc chuẩn bị bài vở  ở nhà, cũng như đồ dùng học tập, sách vở của các bạn trong nhóm. Khi giáo viên  giao nhiệm vụ tránh trường hợp HS chưa tự giác nhóm trưởng sẽ có trách nhiệm  nhắc nhở bạn, nếu bạn không thực hiện thì báo cáo cô giáo kịp thời. Mục tiêu của mỗi tiết hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp đều chú trọng  đến hoạt động thực hành kĩ năng sống. Nếu học sinh chỉ quan tâm vào việc học  tập các môn chính thức mà ít tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào  văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao thì các em sẽ thiếu linh hoạt, thiếu tự tin khi   đứng trước đám đông hoặc đứng trước lớp để trình bày một bài hát hay một vấn   đề nào đó. Và ngược lại nếu được tham gia tốt các phong trào thì các em sẽ xử lí   vấn đề nhanh nhẹn hơn, mạnh dạn hơn, tự tin hơn. Thông qua các hoạt động đó,   tinh thần đoàn kết, ý thức tập thể cũng được hình thành và vun đắp. Như vậy, có   12
  13. thể  khẳng định rằng: môn học giúp cho các em xóa bỏ  tính rụt rè, nhút nhát; rèn  luyện tính mạnh dạn, sự tự tin đó chính là hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp,   các em sẽ dần được hình thành kĩ năng sống qua mỗi hoạt động này. Người giáo  viên chủ nhiệm chính là người cố vấn giúp học sinh tham gia vào các hoạt động  để rèn luyện các kĩ năng cơ bản, cần thiết cho mình. Góp phần tích cực vào việc   nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Bằng việc làm trên tôi nhận thấy rằng trang trí được một lớp học thân   thiện và xây dựng được các nhóm học tập sẽ  làm cho học sinh hứng thú hơn   trong học tập, rèn luyện được tinh thần đoàn kết và tránh được tình trạng “bỏ   sót” học sinh. Bên cạnh đó giáo dục kỹ năng sống là yếu tố quan trọng góp phần   đổi mới toàn diện nền giáo dục đào tạo gắn với 4 mục tiêu quan trọng: học để   biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình. b. 5 Dạy học phân hóa đối tượng học sinh Tôi luôn học hỏi  ở đồng nghiệp và nắm bắt tình hình của lớp để  đổi mới  phương pháp, hình thức dạy học, điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học phù hợp với  từng đối tượng học sinh và huy động được tất cả  các em hứng thú tham gia vào  quá trình học, không còn học sinh nào đứng ngoài lề  tiết học, đảm bảo dạy làm   sao cho vừa sức với đối tượng: Học sinh hoàn thành tốt thì dạy sao cho các em   hứng thú, đam mê với việc học. Đối với học sinh hoàn thành thì tạo động lực để  các em vươn lên. Với học sinh cần cố gắng phải đạt chuẩn kiến thức kĩ năng, bù   đắp được chỗ hổng về kiến thức để lĩnh hội được kiến thức cơ bản. Ví dụ: Khi dạy Tiếng Việt liên quan đến bài đọc thì có học sinh cần đọc  diễn cảm và hiểu được văn bản mình vừa đọc  ở  các mức độ  khác nhau, nhưng   cũng có học sinh chỉ  đọc bình thường, thậm chí có em tôi chỉ  yêu cầu đọc trơn   được một đoạn. Trong các môn học tôi luôn thiết kế  thêm một số  bài tập  ở  các  mức độ  khác nhau để  dành cho các đối tượng học sinh. Và đây là một hình  ảnh   dạy học chưa phân hóa đối tượng học sinh mà tôi sưu tầm.  13
  14. Với hình thức dạy học này, tôi phải xây dựng kế hoạch bài dạy của mình  sao cho phù hợp nhất có thể, nhằm công nhận các điểm khác biệt của học sinh  trong lớp. Tôi mạnh dạn điều chỉnh nội dung để đáp ứng năng lực, kinh nghiệm,  và mối quan tâm của học sinh. Đưa ra nhiều cách thức khác nhau để  đạt được   mục tiêu bài học. Cho phép học sinh được chứng minh hiểu biết của mình theo  nhiều cách có ý nghĩa. Cho phép tồn tại sự đa dạng trong môi trường học tập dựa  vào nhu cầu của từng học sinh. Chính vì vậy việc phân nhóm học sinh có nhu cầu   hoặc sở thích tương tự ở trên đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong công tác giáo dục  học sinh. b. 6 Phối hợp với các lực lượng trong công tác giáo dục học sinh * Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong nhà trường ­  Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường bằng việc thường xuyên báo cáo  tình hình của lớp và kết quả  giáo dục, nguyện vọng của học sinh với Ban giám  hiệu, trong trường hợp cần thiết phải đề xuất, xin ý kiến về biện pháp giáo dục  14
  15. và đề  nghị  với Ban giám hiệu cùng phối hợp thống nhất tác động sư  phạm đối  với từng cá nhân đó. ­ Phối hợp với giáo viên bộ môn, trao đổi với giáo viên bộ môn về tình hình  học tập các phân môn khác để có những biện pháp giáo dục kịp thời và đánh giá  kết quả  phấn đấu toàn diện của học sinh như: kết quả  học tập, rèn luyện thể  chất, bồi dưỡng óc thẩm mĩ và kết quả tu dưỡng đạo đức của học sinh. ­  Phối hợp với các tổ chức Đoàn, Đội (trong lớp có 1 HS tham gia vào BCH  Liên đội) giúp các em có điều kiện tham gia hay gia nhập tổ chức này từ đó giúp   các em tự tin hơn và dễ hoà nhập vào môi trường tập thể. ­ Phối hợp với các lực lượng giáo dục: bảo vệ, thư  viện, y tế. Thông qua   các lực lượng này giáo viên sẽ  tìm hiểu một cách khách quan học sinh mà mình  đang giáo dục về  các mặt như: việc mượn sách và đọc sách, việc thực hiện nề  nếp và những quy định chung của trường, tình hình sức khoẻ… * Phối hợp với các lực lượng ngoài nhà trường ­ Phối hợp với gia đình để nắm được điều kiện cụ thể của học sinh đó và  tuyên truyền, vận động gia đình học sinh có những nhận thức đúng đắn về vai trò  của mình trong việc chăm sóc giáo dục con em. Từ đó vận động họ  hợp tác tích   cực trong việc giáo dục con em học tập, sinh hoạt như: hướng dẫn con tự  sắp   xếp góc học tập, tự học bài ở nhà; đi học chuyên cần, tạo điều kiện về thời gian,   kiểm tra sách vở, nhắc nhở các em. ­ Phối hợp với Hội cha mẹ  học sinh nhằm nắm thông tin kết quả  rèn   luyện, tinh thần học tập của con em  ở địa phương, ở gia đình, cung cấp thông tin  về kết quả học tập của các học sinh tiêu biểu, học sinh còn vướng mắc… Từ đó   tham mưu, đôn đốc ban chấp hành thực hiện tốt nhiệm vụ  của Chi hội, của gia  đình học sinh. ­ Phối hợp với chính quyền, đoàn thể  xã hội, cơ  quan chức năng, tổ  chức  kinh tế  ở địa phương xây dựng một mạng lưới cộng tác viên đó là những người  15
  16. có uy tín ( trưởng thôn, buôn), có năng lực hoạt động các mặt giáo dục (thầy cô  giáo về  hưu hay giáo viên địa phương), nhờ  họ  giúp đỡ  trong công tác giáo dục  học sinh đặc biệt, học sinh có hoàn cảnh khó khăn. b. 7 Người giáo viên phải có các hình thức giáo dục “cá biệt” Đây là nhiệm vụ  chung của mỗi giáo viên, cần có phương pháp giáo dục  đối với từng cá nhân học sinh nhằm bảo đảm sự phù hợp với từng đối tượng cả  về mức độ, yêu cầu, cường độ và mức độ tác động. Xuất phát từ lương tâm nghề nghiệp, người giáo viên phải cảm hoá, thuyết   phục hoặc mệnh lệnh yêu cầu học sinh phải thực hiện, chấp nhận quan điểm,  chuẩn mực hành vi đạo đức mà mình đặt ra. Tạo ra những chuyển biến tâm lí:  thái độ, tình cảm, hành vi mới, tích cực  ở  học sinh. Tuy nhiên phải tác động kịp  thời, đúng mức độ, khéo léo với thái độ  và tình cảm tôn trọng, yêu thương chân   thành trong quan hệ thầy trò khi nói chuyện giúp các em cởi mở hơn, tự tin hơn và   giáo viên nắm bắt được nhiều hơn. Người giáo viên phải gây được thiện cảm và  có uy tín với học sinh đó. Giáo dục học sinh bằng viễn cảnh: Ví dụ: Phải phân tích, giải thích, minh chứng cụ thể những sự việc xảy ra   hàng ngày trong cuộc sống gia đình và ngoài xã hội mà các em thấy được, khơi  dậy lòng hiếu thảo của một người con khi chính mắt nhìn thấy cha mẹ  vất vả  kiếm tiền lo cho con ăn học với mong muốn con mình học tập tốt – có nghề  nghiệp  ổn định – người có ích cho xã hội sau này, để  từ  đó các em hiểu rõ mục  đích, lý do mà các em phải đi học, một khi các em đã nhận thức đúng đắn về việc   học tập của mình rồi thì sẽ  dễ  dàng hướng các em đến  ước mơ, hoài bão về  tương lai sự nghiệp của bản thân mình. Tôi quan tâm tới nguyện vọng, quyền lợi của mỗi học sinh để  phát triển  tối đa tiềm năng. Tôi đặt niềm tin và giao việc phù hợp với khả năng của mỗi em  học sinh bằng việc đề  cao mặt tốt, khả  năng tốt của học sinh để  các em phấn  khởi và phát huy cái tốt, trên cơ  sở  đó khắc phục dần những hạn chế  của bản   16
  17. thân, tạo điều kiện để  các em đóng góp và chứng minh mình có khả  năng đóng  góp cho tập thể, không mặc cảm, tự  ti. Tôi theo dõi thường xuyên và động viên   kịp thời những biểu hiện tốt (dù là nhỏ  hoặc mới manh nha), tuyên dương khen   ngợi khi học sinh thực hiện công việc đạt kết quả. Có thể  đánh giá học sinh này   cao hơn một chút so với kết quả  đã đạt được từ  đó học sinh sẽ  tự  khẳng định   mình và tự thấy phải cố gắng hơn để thực sự xứng đáng với sự khen ngợi đó, từ  đó các em tự  có nhu cầu tự  hoàn thiện mình vì thế  giáo viên phải là người bạn   tâm tình với những tình cảm chân thành, thương yêu, tôn trọng học sinh, mong   muốn học sinh tiến bộ và tạo cho học sinh có niềm tin đối với bản thân. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Mỗi giải pháp, biện pháp đều có sự  tác động qua lại và hỗ  trợ  lẫn nhau   trong quá trình giáo dục. Để nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh lớp 4 tất   cả  các biện pháp tôi đưa ra và áp dụng đều rất hiệu quả. Mỗi người giáo viên   như là một nghệ sĩ mà biện pháp đưa ra là một nghệ thuật. Cho nên với đề tài này   tôi có một số  lưu ý: Trong quá trình đánh giá thường xuyên cần cụ  thể, gọi tên  các phẩm chất; đánh giá phải chân thật, gây được cảm xúc tích cực nơi người   nghe; cần đánh giá ngay hành vi tích cực khi nó vừa xuất hiện nhất là với những   em hay mắc khuyết điểm, những em học chậm, nhút nhát. Ví dụ: Trong giờ luyện   viết học sinh viết bài chưa đúng mẫu tôi vẫn khen “ Hôm nay cô thấy em rất tích  cực rèn chữ, cô vui lắm. Lần sau em nhớ viết chữ đúng mẫu hơn nhé”. Trong giờ  đọc học sinh đọc còn nhỏ, khen học sinh “ Đọc hay, diễn cảm”, nhắc học sinh “   Lần sau em đọc to lên nhé để  các bạn được thưởng thức giọng đọc của em”…  Khi phê bình HS cũng cần lưu ý là phê bình hành vi cụ  thể  chứ  không khái quát  hoá thành phẩm chất nhân cách; khi phê bình không được chì chiết, nhắc đi nhắc   lại những khuyết điểm đã xảy ra từ lâu. Ví dụ: Học sinh nói chuyện và làm việc  17
  18. riêng trong giờ học tôi sẽ nhắc nhở nhẹ nhàng “ Em hãy nhớ lại nội quy lớp học   giúp cô và cô rất mong em hãy chú ý vào bài học”. Với mỗi tiết học để củng cố kiến thức đã học tôi xây dựng những câu hỏi  trắc nghiệm liên quan đến các môn học: Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử &   Địa lí hay An toàn giao thông,…. Tạo ra các sân chơi, mỗi sân chơi là một chủ đề  thảo luận giúp các em được rèn luyện và học tập tốt hơn. T hực hành kĩ năng  sống cho các em qua mỗi tiết học, các em thích thú được đóng vai, hăng say nói,   viết ra những điều mình đã làm được và vui vẻ chia sẻ trước lớp để các bạn học  tập, ví dụ:  Giúp đỡ  ba mẹ  công việc gia đình, học sinh tự  chăm sóc bản thân,   sống yêu thương nơi khu xóm,… Các em cũng rất sôi nổi và hứng thú khi tham gia  các phong trào mang tính nghệ thuật như múa, hát, kể chuyện, bày tỏ ý kiến, diễn  kịch trước lớp, các em thích khẳng định mình, thích được biểu dương. Đó cũng là   một sân chơi bổ ích phát huy được tính tích cực, tự giác, năng lực sở trường của   mỗi cá nhân. Sau mỗi tiết học, hoạt động học tôi đã nhận xét về  năng lực, phẩm chất  của những em có tiến bộ vượt bậc, những em đã phát huy năng khiếu, sở trường  của mình đã bộc lộ được để khích lệ, động viên kịp thời. Với những em chưa trả  lời được các câu hỏi, các hành vi thực hiện chưa đúng thì tôi tư vấn, động viên để  các em nhận ra và sửa chữa qua đó các em sẽ  nhớ  lời tư  vấn của cô để  tiết sau  hoàn thành tốt  hơn, tiến bộ  hơn. Mỗi học sinh chắc chắn sẽ  có một số   ưu,  khuyết điểm cũng như mặt mạnh, mặt yếu nhất định vì vậy người giáo viên cần   có những giải pháp, biện pháp giúp các em phát huy mặt mạnh và khắc phục  những mặt còn hạn chế để các em được phát triển một cách toàn diện. d. Kết quả  khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề  nghiên cứu,  phạm vi và hiệu quả ứng dụng. 18
  19. Từ việc thực hiện đồng bộ những biện pháp trên, cuối học kì 1 lớp 4D đã  ổn định được nề  nếp, duy trì sĩ số. Trong học tập so với đầu năm học đã có sự  tiến bộ, cụ thể như sau: Giữa kì I Tổng  Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàm thành Môn số học  SL % SL % Số lượng % sinh Tiếng Việt 19 5 26,3 9 47,4 5 26,3 Toán 19 7 36,85 7 36,85 5 26,3 Cuối học kì I Tổng  Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành số  Môn học  SL % SL % Số lượng % sinh Tiếng  19 6 31,6 10 52,6 3 15,8 Việt Toán 19 8 42,1 8 42,1 3 15,8 Khoa học 19 6 31,6 10 52,6 3 15,8 LS­ĐL 19 6 31,6 10 52,6 3 15,8 Tiếng Anh 19 5 26,3 12 63,2 2 10,5 19
  20. Tổng  Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành số  Môn học  SL % SL % Số lượng % sinh Âm nhạc 19 3 15,8 14 73,7 2 10,5 Mĩ thuật 19 3 15,8 15 79 1 5,2 Kĩ thuật 19 5 26,3 14 73,7 0 0 Thể dục 19 7 36,85 12 63,2 0 0 Tổng  Tốt Đ ạt Cần cố gắng số  Năng lực học  SL % SL % Số lượng % sinh Tự phục  vụ, tự  19 5 26,3 12 63,2 2 10,5 quản Hợp tác 19 7 36,85 9 47,4 3 15,8 Tự học  19 5 26,3 11 57,9 3 15,8 GQVĐ 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2