intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Đổi mới phương pháp dạy - học các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

453
lượt xem
76
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Đổi mới phương pháp dạy - học các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 đưa ra những phương pháp giảng dạy nhằm giúp cho học sinh mở rộng, hệ thống hóa vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về từ và câu; rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Đổi mới phương pháp dạy - học các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4

  1.                                      PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài. Học sinh tiểu học là thế hệ măng non của đất nước, các em "Học vì ngày  mai lập nghiệp". Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để  trở  thành   những người công dân có ích cho xã hội. Vì vậy việc đào tạo thế  hệ  trẻ  trở  thành những người năng động sáng tạo độc lập tiếp thu tri thức để trở thành một  công dân thực thụ là một vấn đề  quan tâm hàng đầu của nền giáo dục nước ta.   Để  thực hiện tốt nhiệm vụ này nhà trường Tiểu học phải bước đầu cung cấp   cho học sinh những tri thức ban đầu để  hình thành và phát triển các năng lực  nhận thức và trang bị  các phương pháp kĩ năng về  hoạt động nhận thức, bồi   dưỡng và phát triển tình cảm thói quen, đức tính tốt đẹp của con người thông   qua việc dạy các môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng. Môn Tiếng Việt trong chương trình bậc Tiểu học giúp học sinh biết đọc  thông viết thạo, biết sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác và có kĩ năng giao tiếp  trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Những kiến thức của môn Tiếng Việt là  tiền đề  là cơ  sở  cho học sinh tiếp cận với các môn học khác. Việc dạy và học   môn Tiếng Việt trong nhà trường luôn được chú trọng ngay từ lớp đầu cấp. Đặc  biệt trong bộ môn Tiếng Việt phân môn Luyện từ  và câu có một vị  trí rất quan   trọng là chìa khoá mở ra kho tàng văn hoá trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của  con người. Hơn nữa phân môn Luyện từ  và câu còn có nhiệm vụ  cung cấp   những kiến thức sơ  giản về  Tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ  đặt câu  (nói­viết), kĩ năng đọc cho học sinh.Cụ thể là: ­ Mở rộng, hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ  giản về từ và câu. ­ Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu. ­ Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ  đúng và nói thành câu, có ý  thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp. Nhận thức được tầm quan trọng đó của phân môn Lyuện từ và câu, tôi đã  mạnh dạn nghiên cứu đề tài " Đổi mới phương pháp dạy ­ học các dạng bài tập  Luyện từ và câu lớp 4".  II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 1. Mục đích.  Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa phân môn Luyện từ và  câu lớp 4, dự giờ, học hỏi đồng nghiệp, đồng thời điều tra khảo sát việc dạy và  học phân   môn Luyện từ  và câu của giáo viên và học sinh lớp 4. Từ  đó thấy   được những khó khăn, vướng mắc của giáo viên và học sinh thông qua các giờ  1
  2. dạy và bài tập Luyện từ  và câu để  tìm ra một số  biện pháp cụ  thể  nhằm nâng  cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và  câu nói riêng ở Tiểu học.  2. Nhiệm vụ .  Tìm hiểu tình hình học phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt,  thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu.  Đề xuất một số biện pháp thực hiện khi dạy học sinh dạng bài này.   III. Phương pháp nghiên cứu . ­ Phương pháp nghiên cứu lí luận (đọc tài liệu ). ­ Phương pháp phân tích tổng hợp. ­ Phương pháp điều tra. ­ Phương pháp thực nghiệm. ­ Phương pháp đàm thoại. ­ Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm. IV. Đối tượng và thời gian nghiên cứu . 1. Đối tượng. ­   Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới phương pháp dạy ­ học các dạng bài   tập Luyện từ và câu lớp 4. ­ Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 4B ­ Trường Tiểu học Cẩm Châu. 2. Thời gian :  ­  Từ tháng 9 năm 2012 đến hết tháng 3 năm 2013.                             PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ            I. Cơ sở lý luận của việc dạy và học phân môn luyện từ và câu. 1. Vị trí vai trò của phân môn Luyện từ và câu. Phân môn Luyện từ  và câu là một môn học giữ  vị  trí quan trọng trong   chương trình Tiếng Việt lớp 4. Ngay từ đầu của hoạt động học tập  ở  trường,  học sinh đã được làm quen với lý thuyết của từ  và câu. Sau đó chương trình  được mở  rộng thêm và nâng cao dần để  phục vụ  cho nhu cầu ngày một tăng  trong cuộc sống của các em cũng như trong lao động, học tập và giao tiếp. Vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ  thống ngôn ngữ  là đơn vị  trung tâm  của ngôn ngữ. Chính vì vậy, dạy Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng không   có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm được ngôn ngữ như một phương pháp   giao tiếp. Việc dạy từ  và câu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ  đẻ, tạo điều  kiện học tập phát triển toàn diện. Khả  năng giáo dục nhiều mặt của Luyện từ  2
  3. và câu là rất to lớn. Nó có nhiều khả năng để  phát triển ngôn ngữ, tư  duy logíc   và các năng lực trí tuệ như trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích tổng hợp...và  các phẩm chất đạo đức như tính cẩn thận, cần cù. Ngoài ra phân môn Luyện từ  và câu còn có vai trò hướng dẫn cho học sinh kĩ năng nói, đọc, viết. Luyện từ  và câu là môn học nền tảng để  học sinh học các môn học khác  trong tất cả  các cấp học sau cũng như  trong lao động và giao tiếp trong cuộc  sống, bởi nó giúp học sinh có năng lực nói đúng. Từ đó sử dụng Tiếng Việt văn  hoá một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học, giao tiếp và lao động. 2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu. Dạy phân môn Luyện từ  và câu  ở  trường Tiểu học nói chung và  ở  lớp 4   nói riêng có nhiệm vụ cung cấp cho các em một số kiến thức cơ bản ban đầu và   cần thiết về từ, câu, các kiểu từ, các kiểu câu...nhưng phải vừa sức đối với lứa   tuổi các em.      Dạy Luyện từ và câu có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một số hệ thống   khái niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ và những quy luật của nó. Cụ  thể  là Luyện từ  và câu  ở  tiểu học giúp cho học sinh hiểu về  cấu tạo của từ, khái  niệm về từ và câu. Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ Luyện từ và câu: Biết dùng  từ, câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, nhận ra  những từ và câu không có văn hoá để loại ra khỏi vốn từ, ngoài ra học còn nắm   được văn hoá chuẩn của lời nói. Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu còn rèn cho học sinh khả năng tư duy   logic cao và khả năng thẩm mĩ.            Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ và câu giúp học sinh mở  rộng, phát   triển vốn từ  (phong phú hoá vốn từ), nắm được nghĩa của từ(chính xác hoá vốn từ),  quản lí phân loại vốn từ (hệ thống hoá vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích cực  hoá vốn từ. 3. Tác dụng của phân môn luyện từ và câu . Xuất phát từ nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu đã được trình bày ở  trên, giúp học sinh phân biệt câu và từ, từ  và tiếng, các kiểu câu...trong đó biết   dùng từ  đặt câu, biết mở  rộng vốn từ  và giải nghĩa từ, biết dùng dấu câu phù  hợp, góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách cho  học sinh( Thông qua các kĩ năng các em dùng từ để đặt câu). 3
  4. Qua phân môn Luyện từ và câu các em nắm được cấu tạo từ và mở rộng   vốn từ, giải nghĩa của từ, nắm được các kiểu câu, các dấu câu ( dấu chấm hỏi,  dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc đơn), biết cách sử  dụng từ và câu phù hợp với ngữ cảnh và lời nói. Ngoài ra, nội dung chương trình của phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học  được xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em  mở rộng thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một  tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt kết quả cao hơn. Như vậy phân môn Luyện từ  và câu  có tác dụng to lớn trong quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh. II. Thực trạng của việc dạy và học phân môn luyện từ và câu. 1. Khảo sát nội dung chương trình sách giáo khoa. Môn Luyện từ  và câu lớp 4 cả  năm có 62 tiết và được bố  trí dạy 2tiết/   1tuần. Nội dung chương trình gồm:       ­  Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ theo chủ điểm ( Gồm 10 chủ điểm ).                    Học kì I                   Học kì II Chủ điểm 1: Thương người như thể  Chủ điểm 1: Người ta là hoa đất ­ tài  thương thân. năng ­ sức khoẻ. Chủ điểm 2:Vẻ đẹp muôn màu ­ cái  Chủ điểm 2: Trung thực ­ Tự trọng đẹp. Chủ điểm 3: Trên đôi cánh ước mơ  Chủ điểm 3: Những người quả cảm­ thực hiện ước mơ. Dũng cảm.     Chủ điểm 4: Có chí thì nên ­ nghị  Chủ điểm 4: Khám phá thế giới ­ Du  lực ­ ý chí. lịch ­ Thám hiểm.    Chủ điểm 5: Tiếng sáo diều ­ Đồ  Chủ điểm 5: Tình yêu cuộc sống­Lạc  chơi ­ Trò chơi quan yêu đời. ­ Cung cấp kiến thức sơ giản về cấu tạo của tiếng và từ: + Cấu tạo của tiếng. +  Cấu tạo của từ: Từ đơn và từ phức, các loại từ phức. ­  Từ loại:  Cung cấp kiến thức sơ giản về Danh từ, Động từ, Tính từ. ­ Câu: Cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về cấu tạo, công   dụng và cách sử dụng các kiểu câu như câu hỏi, câu kể(bao gồm: Ai làm gì?; Ai  thế nào?; Ai là gì?), câu khiến, câu cảm, thêm trạng ngữ cho câu. ­ Ôn luyện kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng một số dấu câu:  Dấu hai chấm (: ), dấu ngoặc kép(" "), dấu chấm hỏi(?), Dấu ghạch ngang(­). 2. Khảo sát việc dạy và học của giáo viên, học sinh. 4
  5. a. Thuận lợi. ­ Chương trình SGK sau năm 2000 trình bày các bài Luyện từ và câu tương   đối khoa học giúp học sinh dễ  phát hiện kiến thức, giáo viên dễ  áp dụng các  phương pháp và hình thức dạy học. Phân môn đã chỉ  rõ hai dạng bài: Bài lý  thuyết và bài tập thực hành với định hướng rõ ràng. ­ Công tác giảng dạy luôn được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm tạo   mọi điều kiện thuận lợi về đồ dùng dạy học, SGK và được học về sử dụng các  phương tiện dạy học hiện đại, luôn tổ  chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để  rút kinh nghiệm trong tiết dạy, tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả dạy ­ học của   giáo viên và học sinh. ­ Đội ngũ giáo viên có tay nghề chuyên môn vững vàng, giàu kinh nghiệm,   nhiệt tình trong công tác, sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học. ­ Học sinh: Hầu hết học sinh đều có ý thức làm bài tập, có thái độ tích cực  trong việc học và làm bài tập Luyện từ  và câu. Các em đã được làm quen với   cách học mới từ lớp 1,2,3 nên đã biết cách lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới   sự hướng dẫn của giáo viên. ­ Phụ huynh học sinh: Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần  nâng cao chất lượng môn học nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. b. Khó khăn. *Đối với giáo viên.  ­ Phân môn Luyện từ  và câu là phần kiến thức khó nên một số  giáo viên   còn lúng túng và gặp khó khăn trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu  và vận dụng vào việc làm các bài tập . ­ Một số giáo viên chưa chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai   thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh còn lệ thuộc vào đáp  án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này. ­ Hình thức tổ chức dạy học của một số giáo viên còn đơn điệu, hầu như  ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.       ­ Một số giáo viên còn chưa quan tâm đến việc mở  rộng vốn từ, phát triển  vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về  Tiếng   Việt. * Đối với học sinh. ­ Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân   môn Luyện từ  và câu nên ít có hứng thú học tập, chưa dành nhiều thời gian để  học môn này. 5
  6. ­ Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ  đó việc nhận   diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn . ­ Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ  sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài. ­ Học sinh thường nắm kiến thức một cách máy móc, thụ  động và tỏ  ra  yếu kém thiếu chắc chắn. Trong quá trình dạy học, sau khi học bài: "Từ  ghép, từ  láy", SGKTV4 ­  Trang 38), tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp bằng bài tập sau :  Đề bài : Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau. Dáng tre mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo   dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.          Kết quả khảo sát như sau:     Số             Giỏi Khá Trung bình Yếu HSKS   21 SL TL SL TL SL TL  SL TL 2 9,4 4 18,8 10 47,0  5 24,8 Qua bảng số liệu cho thấy. Số học sinh đạt điểm giỏi (9,10) là những em   nắm vững cấu tạo từ, phân biệt và xác định đúng từ  ghép, từ  láy đạt 9,4%.Số  học sinh đạt điểm khá đạt 18,8% là những học sinh đã nắm được cấu tạo từ  nhưng xác định từ ghép, từ láy chưa đầy đủ, Số học sinh đạt điểm trung bình đạt   47,0% đây là những học sinh chưa nắm vững cấu tạo từ,chỉ biết tìm từ  láy dựa   vào hình thức ( Từ phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần hoặc cả âm đầu và  vần giống nhau là các từ  láy), học sinh không căn cứ  vào nghĩa của từ. Số  học  sinh yếu chiếm 24,8%, là những học sinh chưa nắm vững cấu tạo từ, không xác  định đúng từ ghép, từ  láy. Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do   hai phía: người dạy và người học. Xuất phát từ tình hình thực tế trên tôi đã tập  trung nghiên cứu kiến thức của từng bài học Luyện từ và câu, thông qua đó để  tìm ra phương pháp dạy học hợp lý cho từng dạng bài tập, cho từng đối tượng   học sinh, giúp các em phần nào khắc phục tình trạng trên.  III.Một số biện pháp trong giảng dạy phân môn luyện từ và câu. 1. Để có thể học tốt phân môn luyện từ và câu, ngay từ đầu tiết học  giáo viên phải khơi sự tò mò, hứng thú học tập cho học sinh. Hứng thú là một khâu quan trọng, là một hiện tượng trong tâm lý đời sống   mỗi người. Hứng thú tạo điều kiện cho con người học tập lao động được tốt   hơn.   Nhà   văn   M.Goóc   ki   nói   "Thiên   tài   nảy   nở   từ   tình   yêu   đối   với   công  việc".Việc bồi dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng Việt ­ Phân môn Luyện từ  6
  7. và câu lớp 4 là một việc làm cần thiết. Để tạo được sự hứng thú học tập cho các   em, người giáo viên phải tạo được sự thoải mái trong học tập, phải làm cho các  em cảm nhận được vẻ đẹp và khả  năng kì diệu của ngôn từ, để  kích thích vốn   từ sẵn có của từng em. Nếu giáo viên biết gây hứng thú học tập cho học sinh sẽ  làm cho các em thích thú học tập không còn gây cảm giác khô khan, chán học . Khi hướng  dẫn học sinh tìm hiểu bài giáo viên có thể  sử  dụng nhiều  phương pháp, hình thức khác nhau (Phương pháp trò chơi, phương pháp động  não, phương pháp hỏi đáp) phù hợp với từng loại bài. Ví dụ : Sử  dụng phương pháp hỏi đáp khi giới thiệu bài " Mở  rộng vốn  từ: Trung thực ­ Tự trọng" ­ Tuần 5 SGK trang 48­49. Giáo viên đặt câu hỏi: Cậu   bé Chôm trong truyện "Những hạt thóc giống"có đức tính gì đáng quý?(Trung  thực). Vậy theo em trung thực là gì? Còn tự trọng, em hiểu thế nào là tự trọng? (Học sinh nêu ý kiến).       Giáo viên: Để  giúp các em biết thêm nhiều từ, nắm được nghĩa và cách  dùng các từ ngữ theo chủ điểm Trung thực ­ Tự trọng. Hôm nay chúng ta sẽ mở  rộng vốn từ theo chủ điểm này.         Để thu hút học sinh vào bài học, ngoài giới thiệu bài thì trong khi tổ chức,   hướng dẫn làm bài tập giáo viên cũng luôn tạo không khí học tập để khơi gợi  sự  hứng thú đối với học sinh.     Ví dụ :   Khi dạy bài Từ ghép ­ từ láy, Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi   trò chơi "Phân biệt nhanh".        *Mục tiêu : Giúp học sinh có khả  năng phân biệt các kiểu từ trong Tiếng  Việt. Rèn tính nhanh nhẹn chính xác.         * Chuẩn bị: Bảng phụ  ghi sẵn 5 từ  ghép, từ  láy; giấy bìa có ghi sẵn kí   hiệu L­G .                            Từ                     Kí hiệu 1. Lung linh  2.Thông minh 3. Bờ bãi 4.Ruộng đồng 5. Chào mào. * Thời gian : 3 phút.      * Cách tổ chức : GVchia lớp thành 3 đội, mỗi đội có 5 em tham gia. Giáo   viên cho các em từng đội nhận giấy bìa, trong thời gian 3 phút các em đính kí  7
  8. hiệu đúng vào kiểu từ   ở  bảng phụ. Hết thời gian đội nào phân biệt đúng nhất,   nhanh nhất thì đội đó thắng cuộc .                                Từ                     Kí hiệu 1.Lung linh                            L 2.Thông minh                          G 3. Bờ bãi                          G 4.Ruộng đồng                          G 5. Chào mào.                          G Tóm lại vì Luyện từ và câu được đánh giá là môn học hơi khô nên việc gây  hứng thú đối với học sinh là rất quan trọng. Tuy nhiên phải làm sao trong lúc  học mà chơi, không biến giờ học thành giờ chơi.  2. Giáo viên cần phân ra các kiểu bài  trong phân môn luyện từ và câu. Với mỗi loại bài đều có phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học khác   nhau. Vì vậy để tiết học đạt hiệu quả cao giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung   chương trình, xác định các loại bài cụ thể trong phân môn để từ đó vận dụng các  phương pháp, hình thức dạy học phù hợp. a. Đối với dạng bài mở rộng vốn từ. Cơ sở của việc hệ thống hoá vốn từ là sự tồn tại của từ trong ý thức con   người, từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc mà  là một hệ  thống. Chúng được sắp xếp theo một hệ  thống liên tưởng nhất định  giữa các từ này với từ khác có một nét gì chung khiến ta phải nhớ đến từ kia nên   từ được tích luỹ nhanh chóng hơn. Từ mới có thể được sử dung trong lời nói và   khi sử dụng nhờ hệ  thống liên tưởng, học sinh nhanh chóng huy động lựa chọn  từ phù hợp với yêu cầu giao tiếp. Với mục đích tích luỹ nhanh chóng vốn từ và tạo điều kiện để sử dụng từ  một cách dễ dàng, giáo viên nên đưa ra những từ theo một hệ thống và sử dụng  linh hoạt nhiều phương pháp, hình thức dạy học ( Thảo luận nhóm, trò chơi,   đàm thoại, hỏi đáp...) có sự hỗ trợ tích cực của đồ dùng dạy học. Ví dụ  : Khi tổ chức làm bài tập2 trang 17, tiết Luyện từ và câu bài " Mở  rộng vốn từ: Nhân hậu. ­ Đoàn kết" tuần 2.Giáo viên xác định mục tiêu bài học   và chuẩn bị đồ dùng cho tiết dạy như sau: ­ Mục tiêu  :Mở  rộng và hệ  thống hoá vốn từ  ngữ  theo chủ  điểm. Nắm   được cách dùng từ ngữ đó. ­ Đồ  dùng:   Bảng ( Từ có tiếng nhân có nghĩa là "người" và Từ  có tiếng   nhân có nghĩa là "lòng thương người"). 8
  9. Từ   có   tiếng   nhân   có   nghĩa   là  Từ   có   tiếng   nhân   có   nghĩa   là"lòng  "người" thương người"     +Bộ thẻ từ ghi từ đã cho :   nhân dân   nhân hậu   nhân ái công nhân   nhân loại   nhân từ   nhân đức   nhân tài ­Cách thực hiện:  Giáo viên chia lớp thành các nhóm ( nhóm 4), phát cho  các nhóm bộ  thẻ  từ, thảo luận và gắn vào hai cột trên bảng cho phù hợp.Các  nhóm trình bày kết quả (dán phiếu) trên bảng hoăc trên tường ở vị trí của nhóm.  Từ có tiếng nhân có nghĩa là "người" Từ   có   tiếng   nhân   có   nghĩa   là"lòng  thương người"      nhân dân   nhân hậu hânhaaaaa aaanhaanh công nhân    nhân đức nhân nhân tài c    nhân ái   nhân loại     nhân từ       Ngoài việc tổ  chức chia nhóm như  trên giáo viên có thể  tổ  chức hoạt động   học theo hình thức trò chơi .         Ví dụ : Khi tổ  chức làm bài tập 4  ở tiết Luyện từ và câu tuần 5 trang 148   SGK,Tiếng Việt 4, tập 1, bài "Mở rộng vốn từ: Đồ chơi ­ Trò chơi".Giáo viên tổ  chức cho học sinh chơi trò chơi " Mở rộng từ ngữ". 9
  10. * Mục tiêu : Giúp học sinh củng cố  mở  rộng thêm từ, tích luỹ  được vốn   từ. Giúp học sinh phát huy tính chủ động và tự tin . * Chuẩn bị: Chuẩn bị bảng nhóm, bút lông. * Thời gian : 3 phút                          * Cách chơi: Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi theo đội, mỗi nhóm học tập  là một đội, giáo viên  giao việc cho các đội trong thời gian 3 phút, học sinh tìm  tìm các từ  miêu tả  tình cảm thái độ  của con người khi tham gia các trò chơi và   ghi vào bảng nhóm các từ đúng theo yêu cầu thuộc chủ điểm. Hết thời gian các   đội trình bày. Đội  nào tìm được nhiều từ đúng thì đội đó thắng .       Kết quả  học sinh sẽ  tìm được các từ  như: hào hứng, say mê, say sưa, đam   mê, mê, ham thích ...  b. Dạng bài tập về cấu tạo từ­ Tìm từ ghép, từ láy. Dạy nghĩa của từ  được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự  phản   ánh đối tượng của hiện thực trong nhận thức được ghi lại bằng tổ hợp âm thanh  xác định. Để làm tăng vốn từ cho học sinh, công việc đầu tiên giáo viên cần phải  làm cho học sinh hiểu nghĩa của từ. Muốn thực hiện được điều này người giáo viên phải hiểu được nghĩa của  từ, phải biết vận dụng các phương pháp cũng như  hình thức dạy học phù hợp  với đối tượng học sinh. Đối với các dạng bài tập này giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc theo   nhóm. Các nhóm thi làm bài và trình bày kết quả. Đối với hình thức chia nhóm, giáo viên nên sử  dụng theo nhiều cách khác  nhau tạo điều kiện cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác trong   lớp. Giáo viên có thể  chia nhóm theo số  điểm danh, theo màu sắc, theo tên các  loại trái cây các em yêu thích...Yêu cầu học sinh có cùng số điểm danh, cùng một   màu, cùng một loại trái cây yêu thích sẽ cùng vào một nhóm.      Ví dụ : Bài tập 2 trang 40 SGK tiết Luyện từ và câu " Từ ghép và từ láy".  ­ Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây:            a) Ngay            b) Thẳng            c) Thật *Mục tiêu: Học sinh biết vận dụng kiến thức đã học để phân biệt từ ghép  với từ láy, tìm được các từ ghép và từ láy đơn giản, tập đặt câu với các từ đó. *Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị phiếu bài tập sau: 10
  11.                                        PHIẾU BÀI TẬP Từ ghép Từ láy * Cách thực hiện:  ­ Giáo viên phát cho mỗi nhóm một phiếu bài tập như trên. ­ Giáo viên yêu cầu học sinh các nhóm thảo luận và tìm từ phù hợp để viết  trên mỗi hình. ­ Các nhóm trình bày kết quả. Cả lớp nhận xét.     Theo cách tổ chức này, các em rất thích thú và quan trọng là đảm bảo cho  mọi học sinh đều được làm tất cả các phần của bài tập. Sau khi học sinh trình bày kết quả. Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh   chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân.  * Cho học sinh so sánh từ láy với từ ghép:  Giáo viên chốt :       Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.                    Khi phân loại từ phải dựa vào mối quan hệ giữa các tiếng trong từ : Nếu  có quan hệ về mặt ngữ nghĩa là từ ghép. Nếu có quan hệ về mặt ngữ âm là từ  láy.   Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lấy thêm ví dụ: ­ Từ ghép : nhà cửa, sách vở... ­ Từ láy   : chăm chỉ, luộm thuộm..... c. Dạng bài về danh từ, động từ, tính từ, . Với các dạng bài tập này giáo viên cần cho học sinh phân tích đề bài một  cách rõ ràng. Khi cần giáo viên có thể  giải thích để  các em nắm được yêu cầu   của bài tập. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên cần phải nắm chắc   trình tự  giảng giải, cần có những dự  tính cho những tình huống và những lỗi   học sinh mắc phải khi  giải quyết bài tập để sửa chữa kịp thời.     Ví dụ : Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ  của đặc điểm, tính chất (được in  nghiêng) trong đoạn văn sau: 11
  12. ` Hoa cà phê thơm đậm và ngọt nên mùi hương thường theo gió bay đi rất   xa. Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn hoa cà phê đã phải  thốt lên.                                     Hoa cà phê thơm lắm em ơi                                     Hoa cùng một điệu với hoa nhài                                     Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng.                                     Như miệng em cười đâu đây thôi... Đây là dạng bài tập về  tính từ  dạng bài này hơi trừu tượng với học sinh   nên giáo viên cần cho các em phân tích đề  bài trước vì yêu cầu của bài không  quen thuộc với học sinh , khi các em đã hiểu đề bài yêu cầu các em tìm những từ  biểu thị  mức độ  của đặc điểm tính chất của các từ  in nghiêng.Cụ  thể: Hoa cà  phê thơm như  thế  nào?( thơm đậm và ngọt) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần  lượt học sinh tìm( trả lời cá nhân theo phương pháp động não).                                       Thơm ­ lắm                                       Trong ­ ngà                                       Trắng ­ ngọc  Như  vậy các em sẽ  thấy quen với cách làm của bài này. Cuối cùng giáo  viên kiểm tra, đánh giá kết quả nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh   và muốn học sinh có mẫu sản phẩm tốt nhất thì giáo viên phải chuẩn bị mẫu lời   giải đúng và dùng nó đối chiếu với bài làm của học sinh. Với những bài làm sai   giáo viên không nhận xét chung mà chỉ rõ bài học sinh sai ở đâu và chuyển từ lời  giải sai sang lời giải đúng. d. Dạng bài tập về câu. Với dạng bài tập này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng  ngày để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo   lịch sự khi đặt câu. Vì vậy khi dạy dạng bài tập này giáo viên cần đặt trong hệ  thống chương trình để  thấy rõ vị  trí của nó đồng thời phải nắm chắc nội dung  khái niệm. Đây chính là nội dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh.Trong  mảng kiến thức về câu gồm có:              ­ Câu kể.              ­ Câu hỏi .              ­ Câu khiến .              ­ Câu cảm (Câu cảm thán) Đây chính là nội dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh,để thực hiện  giảng dạy giáo viên cần linh hoạt sử  dụng kết hợp các phương pháp,hình thức  như: trực quan, hỏi đáp,thảo luận nhóm, trò chơi , giúp học sinh rút ra kiến thức  của bài học. 12
  13. Mục đích cuối cùng của việc dạy câu trong nhà trường là sử  dụng chúng  một cách có ý thức để  thực hiện chính xác tư  tưởng, tình cảm trong hình thức  nói và viết. Vì vậy, thực hành câu nhất thiết phải được dạy một cách có định   hướng, có kế hoạch thông qua hệ thống bài tập câu. Ví dụ : Khi dạy bài "Luyện tập về câu kể Ai là gì?", trang 78 SGK Tiếng   Việt 4. ­ Giáo viên chuẩn bị bảng (phiếu bài tập) đã ghi sẵn tên các bộ  phận của  câu, và bộ thẻ từ: + Bộ thẻ ghi các câu kể có trong đoạn văn, được chia thành hai mảnh:     Cả hai ông là người Thừa Thiên.     Nguyễn Tri Phương  đều không phải là người Hà Nội.                    Hoàng Diệu quê ở Quảng Nam   Ông Năm là dân ngụ cư của làng này. Cần trục là cánh tay kì diệu của các chú công nhân. + Phiếu bài tập:                                              PHIẾU BÀI TẬP                              CN                                                                  VN                     CN                                                                  VN                     CN                                                                  VN                     CN                                                                  VN     ­ Giáo viên chia lớp thành các nhóm 4, phát thẻ từ cho các nhóm. Trong nhóm,  học sinh đặt các mảnh ngửa trên bàn, xáo đều và xếp thành hai dãy. Từng em   13
  14. trong nhóm lần lượt chọn hai mảnh từ hai dãy sao cho hai mảnh này khi đặt lại   với nhau sẽ tạo thành một câu kể Ai là gì? với hai vế câu có nội dung phù hợp và  dán các thẻ câu trên phiếu bài tập.                                              PHIẾU BÀI TẬP                                                                                                  Nguyễn Tri Phương là người Thừa Thiên.                                                   CN                                                 VN                                  Cả hai ông  đều không phải là người Hà Nội.                                                CN                                                  VN                         Ông Năm là dân ngụ cư của làng này.                                                CN                                                  VN                       Cần trục là cánh tay kì diệu của các chú công nhân.                                                                                 CN                                                 VN      Sau khi các nhóm đã hoàn thành, các nhóm trình bày kết quả  và nêu tác   dụng của từng câu.      e. Dạng bài về cách dùng trạng ngữ trong câu . Trong câu, ngoài hai bộ phận chính câu còn có bộ  phận phụ là trạng ngữ.   Việc nhận diện trạng ngữ  cũng là một vấn đề  khó đối với các em. Về  vai trò  ngữ  pháp, trạng ngữ  là thành phần phụ  không bắt buộc phải có mặt trong câu,   nhưng thêm phần trạng ngữ cho câu là để phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận thức  chủ quan của người nói. Về cấu tạo trạng ngữ là một cụm từ có hoặc không có  quan hệ  từ  đứng trước. Trạng ngữ  có thể  đứng ở  đầu câu, giữa câu hoặc cuối  câu. Trạng ngữ ở đầu câu dễ gặp nhất, học sinh dễ nhận thấy còn trạng ngữ ở  giữa câu và cuối câu học sinh khó nhận diện. Vì vậy khi dạy dạng bài này giáo   viên cần đưa ra những câu hỏi mà học sinh dễ  phát hiện ra kiến thức của bài  học. 14
  15. Ví dụ : Khi tổ  chức làm bài tập 1 trang 135, tiết Luyện từ và câu "Thêm  trạng ngữ chỉ thời gian cho câu". ­ Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau: Buổi sáng hôm nay, nùa đông đột nhiên đến, không báo cho biết trước.   Vừa mới ngày hôm qua, trời hãy còn nắng  ấm và hanh, cái nắng về  cuối tháng  mườilàm nớt nẻ đất ruộng và làm giòn khô những chiếc lá rơi. Thế mà qua một   đêm mưa rào, trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái lạnh  ở  đâu đến làm cho người ta  tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt.  Đối với dạng bài tập này giáo viên sẽ  tổ  chức cho học sinh làm việc cá   nhân. Giáo viên hướng dẫn học sinh khi xác định các thành phần trong câu thì xác   định thành phần chính của câu trước, sau đó xác định đến thành phần phụ. Như  thế sẽ không bị nhầm thành phần phụ với thành phần chính. Đọc cả câu văn lên,   xác định mục đích cần thông báo. Mục đích  ấy chính là thành phần chính trong   câu. Chẳng hạn ở câu 3 để xác định bộ phận trạng ngữ, ta cần đặt câu hỏi cho  cả câu. Trong câu này, có từ chỉ thời gian "qua một đêm mưa rào". Vậy thì có thể  là trạng ngữ chỉ thời gian nên ta chọn câu hỏi "khi nào trời bỗng đổi gió bấc, rồi  cái lạnh  ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt".Và   câu trả lời sẽ là "qua một đêm mưa rào", đây chính là trạng ngữ của câu.   Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học   sinh nên nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể. Như vậy mức độ khó của bài tập không phụ thuộc vào các loại, các dạng  bài tập nữa mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu mà giáo viên đưa ra cho học sinh . 3. Để  việc dạy và học phân môn Luyện từ  và câu được tốt, giáo viên   còn quan tâm đến một số điều sau: 3.1. Chú ý bồi dưỡng đối tượng học sinh khá, giỏi, nâng cao chất  lượng đại trà. Trong một lớp học bao giờ  cũng có nhiều đối tượng như  học sinh khá  giỏi, học sinh trung bình và có thể  có cả  học sinh yếu. Các bài tập trong SGK  theo yêu cầu của Chuẩn kiến thức, kĩ năng thì mọi đối tượng học sinh đều phải  đạt được. Ngoài ra vì là lớp hai buổi có thời gian rèn luyện thêm vào buổi chiều.   Nên bản thân tôi thấy cần phải có các bài tập dành cho học sinh khá, giỏi, từng  bước nâng cao chất lượng học sinh trung bình và yếu. Ví dụ : Bài Mở rộng vốn từ: Ý chí ­ Nghị lực.Sau tiết học, giáo viên cho  các em rèn luyện thêm vào tiết luyện các bài tập như sau.  15
  16. Bài tập 1: Chọn từ thích hợp trong các từ  sau để  điền vào ô trống  ý chí,  quyết chí, chí hướng, chí thân.        a, Nam là người bạn ..... của tôi.        b, Hai người thanh niên yêu nước ấy cùng theo đuổi một.........        c, ....................của Bác Hồ cũng là.........của toàn thể nhân dân Việt Nam.        d, Không có việc gì khó.            Chỉ sợ lòng không bền            Đào núi và lấp biển            .............ắt làm nên.          Lời giải: a.chí thân; b.chí hướng; c.ý chí; d. Quyết chí. Bài tập2: Trong các câu tục ngữ  dưới đây, câu nào không nói về  ý chí,   nghị lực:        a. Có chí thì nên.        b.Thua keo này, bày keo khác.        c. Có bột mới gột nên hồ.        d. Có công mài sắt, có ngày nên kim.        e. Có đi mới đến, có học mới hay.        g. Thắng không kiêu, bại không nản.        Lời giải: c. Có bột mới gột nên hồ. Như  vậy đối với hai bài tập này, mục tiêu của giáo viên đề  ra là với bài   tâp 1 dành cho học sinh toàn lớp, bài tập 2 dành cho học sinh khá giỏi. Qua thực tế  giảng dạy, tôi nhận thấy việc quan tâm đến các đối tượng  học  sinh là một việc làm quan trọng, không thể thiếu trong quá trình giảng dạy, nhất  là những lớp học hai buổi / ngày. Với những bài tập rèn luyện thêm đã phát huy   được khả năng học tập của các em học sinh khá, giỏi, nâng cao chất lượng học   sinh đại trà. Bên cạnh đó còn rèn cho các em tính chăm chỉ, không chịu rừng lại ở  những gì mình đã biết. Về việc ra bài tập để các em rèn luyện, giáo viên cần căn  cứ theo tình hình thực tế ở lớp mình, tham khảo thêm các sách như: Tiếng Việt  nâng cao lớp 4, Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 4 của nhà xuất bản Giáo  Dục. 3.2. Gắn kiến thức bài học với thực tế. Kiến thức Tiếng Việt vốn bắt nguồn từ đời sống thực tế, nếu trong khi   dạy , giáo viên liên hệ thực tế để  học sinh tìm kiến thức thì các em làm bài tập  tốt hơn, hứng thú hơn. Ngược lại sau mỗi hoạt động hoặc mỗi bài, giáo viên cần  liên hệ thực tế để giáo dục các em vận dụng những điều đã học vào cuộc sống.   16
  17. có như vậy, các em mới cảm thấy kiến thức bài học thật gần gũi, yêu thích môn  học hơn.  Ví dụ: Bài Mở rộng vốn từ "Nhân hậu ­ Đoàn kết",Tuần 3, trang 33 SGK  Tiếng Việt 4, nếu dạy bài vào thời điểm nước ta đang chịu ảnh hưởng bão, lũ,  giáo viên có thể  cho học sinh xem băng hình, phóng sự  về  cảnh bà con đang  chống chọi với thiên taivà cảnh khắp nơi đang tổ  chức quyên góp,  ủng hộ  sẽ  giúp học sinh tìm từ  và đặt câu theo từ  ngữ  dễ  hơn. Ngoài ra, từ  việc liên hệ  thực tế  đó, giáo viên sẽ  làm xúc động học sinh, khắc sâu, giáo dục tinh thần  tương tân tương ái, sống nhân hậu đoàn kết, và các em biết vận dụng vào cuộc   sống bằng những việc làm cụ  thể  như:  ủng hộ  lũ lụt,  ủng hộ  bạn nghèo đồ  dùng học tập... IV. Kết quả đạt được. Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ  chức cho học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ  và câu, qua một thời gian áp  dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh của  lớp qua bài tập sau:  Đề bài :  Chú chuồn nước mới đẹp làm sao. Màu vàng trên lưng chú lấp lánh, bốn   cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thuỷ tinh ­ Tìm từ đơn, từ ghép, từ láy trong đoạn văn trên. ­ Đặt một câu với một từ đơn, từ ghép, từ láy em vừa tìm được. Số học sinh tham gia khảo sát là 21 em. Kết quả thu được:            Giỏi             Khá        Trung bình          Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 5 22,5   6 28,2 8 39,9 2 9,4    Qua bảng số liệu cho thấy, kết quả khảo sát chất lượng học sinh đã được  nâng lên rõ rệt. Số  học sinh nắm vững cấu tạo từ, xác định đúng từ  ghép,từ  láy,đặt câu chính xác với từ tìm được đạt 22,5%. Số học sinh đã phân biệt được   từ loại ,biết sử dụng từ trong đặt câu đạt 28,2%. Số  học sinh đã biết phân biệt  từ ghép từ láy nhưng chưa đặt câu phù hợp đạt 39,9%. Số học sinh yếu đã giảm   (9,4%).  Điều này chứng tỏ  phương pháp tổ  chức cho học sinh học các bài tập  Luyện từ và câu là rất quan trọng, nó quyết định rất nhiều đến kết quả học tập   của học sinh. Cùng với việc nghiên cứu của mình, tổ chức cho các em được hoạt  động có hiệu quả, học sinh được hướng dẫn thực hành phù hợp với từng bài.  17
  18. Dần dần các em đã hình thành được thói quen làm việc có kế  hoạch, linh hoạt   với từng dạng bài.               PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1.Kết luận: Thực tế cho thấy trong phân môn Luyện từ và câu thì kỹ năng dùng từ để  đặt câu là rất cơ  bản và trọng tâm của môn Tiếng Việt. Muốn làm bài tập  Luyện từ và câu đúng và không sai yêu cầu học sinh phải nắm chắc lý thuyết và   các các quy tắc, định nghĩa và kĩ năng làm bài tập.  Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy phân môn Luyện từ và câu  ở lớp 4, tôi thấy để đạt được những kết quả trên, người giáo viên cần chú ý:   ­ Nghiên cứu kĩ bài dạy để soạn bài có chất lượng. ­ Thường xuyên đọc các tài liệu, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, trau dồi   kiến thức phân môn Luyện từ và câu với các đồng nghiệp. ­ Tổ chức học tập bằng nhiều hình thức: học cá nhân, học nhóm, đổi mới  phương pháp dạy học, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh. ­ Sử dụng đồ dùng trực quan để tạo hứng thú học tập cho học sinh và nhớ  nhanh nội dung bài học.   ­ Dùng hệ  thống câu hỏi gợi mở  giúp học sinh tìm được những từ  có   nghĩa để đặt câu. ­ Cần quán triệt phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, coi học sinh làm  chủ thể của hoạt động nhận thức, biến các em thành người chủ động trong quá   trình học tập, lĩnh hội tri thức. Các em phải hoàn toàn tự mình tham gia mọi hoạt   động nhận thức và giao tiếp. 2.Đề xuất: ­Đối với học sinh cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của phân  môn Luyện từ và câu. Các em cần được động viên khuyến khích kịp thời để các   em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập. ­ Đối với giáo viên cần không ngừng học hỏi, tìm tòi, tích luỹ kinh nghiệm   từ đồng nghiệp, tài liệu thông tin sách vở và từ chính học sinh. Ngoài ra giáo viên  cần nắm chắc nội dung chương trình,ý đồ sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học  sinh, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học phù hợp với mỗi dạng  bài. Và đặc biệt giáo viên cần phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là  trung tâm, gần gũi, động viên giúp đỡ học sinh.  Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong giảng dạy các dạng   bài tập Luyện từ và câu lớp 4, những kinh nghiệm của bản thân trình bày ở trên  chỉ là một khía cạnh nhỏ. Rất mong được sự  góp ý bổ sung của Hội đồng khoa  18
  19. học nhà trường cùng các bạn bè đồng nghiệp để  sáng kiến kinh nghiệm của tôi  được hoàn thiện hơn.   Tôi xin chân thành cảm ơn !     XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ             Cẩm Châu,  ngày 20 tháng 3 năm 2013              HIỆU TRƯỞNG                   Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình   viết,                                                              không sao chép nội dung của người khác .                                                                                           Người viết                                                                                                                               Trần Thị Quỳnh                                                  Phạm Thị Phượng 19
  20. PHỤ LỤC                                                            T    Tên tác giả Tên tài liệu tham khảo Nhà xuất  Năm xuất  T bản bản 1 Nguyễn văn Du Tài   liệu   BDTX   chu   kì  Hà Nội 1992 1996­2000, chu kì 2003­ 2007 2 Bộ Giáo Dục Sách   Tiếng   Việt   lơp4  Giáo Dục 2006 Tập 1&2 3 Tạp   chí   Giáo   dục   tiểu  Giáo Dục 2007 học  4 Hà Nhật Thăng Một số trò chơi Giáo Dục 2001 6 Vụ   Giáo   Dục  Hoạt động và trò chơi Giáo Dục 2006 tiểu học 7 Bộ   Giáo   Dục   và  Đổi   mới   phương   pháp  Giáo Dục 2006 Đào Tạo. dạy học ở tiểu học                                                 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2