Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9
lượt xem 14
download
Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là mong muốn áp dụng các phương pháp dạy học có hiệu quả hơn trong thực tiễn nhằm giúp các em hình thành tính tích cực nhận thức và phát triển khả năng sáng tạo của mình khi đọc - hiểu văn bản.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9
- 1. Phần mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Khoa học giáo dục hiện đại cho rằng dạy học vừa là lĩnh vực mang tính thực tiễn, vừa mang tính nghệ thuật. Hoạt động khởi động chính là biện pháp hợp thành của quá trình và nghệ thuật dạy học. Nó mở đầu và đặt nền móng cho cả quá trình dạy học, gắn bó xuyên suốt với hoạt động trên lớp. Đồng thời cũng là quá trình then chốt thúc đẩy tính tích cực ở học sinh. Mặt khác “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Điều 24, Luật giáo dục). Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên, cũng là yếu tố quyết định hiệu quả của một giờ dạy. Mục đích của hoạt động khởi động là dẫn vào bài học, nối liền bài cũ với bài mới, gợi ý cho học sinh, kích thích hứng thú, làm rõ mục đích, tạo được không khí học tập tích cực, sôi nổi ở học sinh. Từ thực tế giảng dạy, ta thấy niềm vui và sự ham thích sẽ là một động lực lớn giúp học sinh vượt qua khó khăn để vươn lên trong học tập. Có thể nói hoạt động khởi động có vai trò như trải nệm để dẫn dắt học sinh nhận thức tác phẩm văn học một cách hứng thú, say mê. Bên cạnh đó việc sáng tạo trong hoạt động khởi động cũng là để tìm ra biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả và nâng cao chất lượng trong dạy học Ngữ văn ở trường THCS. Đây cũng là hướng tiếp cận quan điểm giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong học tập, là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình thành thói quen tốt, hình thành nhân cách cho các em trong tương lai. Theo đà hiện đại hóa, hệ thống hóa, thì dạy học môn Ngữ Văn sẽ đi vào chiều sâu như một điều tất yếu và kĩ năng của hoạt động khởi động cũng ngày càng được coi trọng.
- Từ nhiều năm nay, phương pháp đổi mới dạy văn đã được chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Trong đó hoạt động khởi động chỉ là khâu nhỏ, nhưng lại ở vào vị trí mở đầu, có tác dụng đặt nền móng và gắn bó với các hoạt động còn lại như hoạt động hình thành kiến thức, hoạt động luyện tập, hoạt động vận dụng và hoạt động tìm tòi mở rộng. Vậy nên, người dạy cần nắm được kiến thức trọng tâm, cần nghiên cứu, chuẩn bị bài thật chu đáo trước khi lên lớp. Thiết nghĩ, trong cuộc sống cũng như trong dạy học bước khởi đầu của một tiết học sẽ tạo tiền đề vững chắc, có yếu tố tiên quyết đảm bảo cho tiến trình dạy học thành công. Một hoạt động khởi động hiệu quả sẽ có tác dụng tích cực trong việc kích thích trí tò mò, khơi dậy hứng thú của học sinh, tạo tâm thế và định hướng nội dung học tập cho các em. Một tiết dạy thu hút được sự chú ý, kích thích được sự tò mò tìm hiểu của học sinh phải xuất phát ngay từ đầu tiết dạy để tạo nên hứng thú học tập cho học sinh trong suốt quá trình diễn ra tiết học. Tuy nhiên trên thực tế, cá nhân tôi và hầu hết giáo viên khi thiết kế kế hoạch dạy học thường chỉ làm theo hình thức giới thiệu qua một chút để vào bài, như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian dành cho hoạt động khai thác kiến thức mới, không lo lắng nhiều về vấn đề thiếu thời gian, cháy giáo án… do đó tiết học tương đối khô khan, thiên về lý thuyết và giảng giải mà thiếu di sự hợp tác tích cực của học sinh; ngay từ bước vào bài học sinh đã có tâm lý thụ động chờ giáo viên dẫn dắt nội dung và truyền thụ một chiều, từ đó sẽ khó tạo tâm lý để các em sẵn sàng tiếp thu kiến thức. Là một giáo viên dạy Văn theo chương trình và sách giáo khoa hiện hành, tôi trăn trở rất nhiều, tìm tòi và thử nghiệm để lựa chọn những phương pháp dạy học phù hợp với lớp học và môn học. Trong quá trình đó, tôi nhận thấy tổ chức chuỗi hoạt động học thì hoạt động khởi động có ý nghĩa quan trọng đối với giờ học Ngữ Văn. Đặc biệt đối với học sinh lớp 9 của trường THCS dạy học Văn nói chung và
- dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại nói riêng thì hoạt động khởi động rất cần thiết trong dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, nêu và giải quyết vấn đề cho học sinh. Hoạt động này cần tạo ra được những tình huống, những vấn đề mà ở đó người học phải huy động tất cả các kiến thức hiện có, những kinh nghiệm, vốn sống của mình để cố gắng nhìn nhận và giải quyết theo cách riêng của mình. Với mong muốn áp dụng các phương pháp dạy học có hiệu quả hơn trong thực tiễn, tôi mạnh dạn thể nghiệm đề tài “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9” nhằm giúp các em hình thành tính tích cực nhận thức và phát triển khả năng sáng tạo của mình khi đọc hiểu văn bản. 1.2 Điểm mới của đề tài Tổ chức hoạt động khởi động vốn không xa lạ với mô hình trường học mới. Đối với một số tiết thao giảng đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên bước đầu đã tiến hành tổ chức hoạt động khởi động cho các tiết dạy. Điểm mới của đề tài là việc áp dụng đối với dạy học đại trà để bắt kịp định hướng tổ chức chuỗi hoạt động học trong dạy học Ngữ Văn 9 nói chung và bản thân đã thể nghiệm dạy học ở phần thơ Việt Nam hiện đại trong những năm học trước. Trên cơ sở kế thừa và tiếp tục thể nghiệm rộng hơn ở dạy học phần truyện Việt Nam hi ện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9. 1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 9A, 9B và 9C nơi tôi công tác. Áp dụng đối với việc dạy học Ngữ Văn 9 đối với những tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam.
- 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu Những năm gần đây dổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng đã trở thành tâm huyết và thực sự có chiều sâu đối với người giáo viên. Phần lớn các giáo viên đã thực hiện đồng bộ bốn đặc trưng của dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh như: dạy học thông qua các hoạt động của học sinh, dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 được thiết kế học qua hai học kì, trải qua các giai đoạn: Tác phẩm truyện giai đoạn 19451954: Làng (Kim Lân) Các tác phẩm truyện giai đoạn 19551975: Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long), Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê) 2.1.1. Về phía giáo viên Tổ chức hoạt động khởi động rất cần thiết trong dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại nhằm phát triển năng lực cho học sinh như phát triển năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề…. Ở hoạt động này giáo viên đã tạo ra những tình huống, những vấn đề ở đó người học cần được huy động tất cả các kiến thức hiện có, những kinh nghiệm, vốn sống của mình để cố gắng nhìn nhận và giải quyết theo cách riêng của mình và cảm thấy thiếu hụt kiến thức, thông tin để giải
- quyết. Chính vì thế nhiều giáo viên Ngữ Văn đã tích cực tìm tòi để kich thich tinh ́ ́ ́ ̀ ̀ ̀ ̣ to mo va đinh hương hoat đông cua h ́ ̣ ̣ ̉ ọc sinh trươc khi hinh thanh kiên th ́ ̀ ̀ ́ ức la muc ̀ ̣ ̉ ̀ ởi đông trong d đich chính cua phân kh ́ ̣ ạy học. Dạy học phần truyện Việt Nam phần truyện hiện đại trong chương trình Ngữ Văn 9 thông qua tổ chức hoạt động khởi động giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết một cách tích cực, tự giác và chủ động chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn . Theo tinh thần này, giáo viên không cung cấp, áp đặt kiến thức có sẵn mà là người tổ chức học sinh tiến hành các hoạt động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn ... Như vậy, tổ chức hoạt động khởi động phải là một hoạt động học tập, nhiệm vụ chuyển giao của giáo viên phải rõ ràng, học sinh phải được bày tỏ ý kiến riêng của mình cũng như ý kiến của nhóm về vấn đề đó cũng như việc trình bày báo cáo kết quả. Nhận thức được mục đích của hoạt động khởi động nên bản thân tôi và các đồng nghiệp của mình đã mạnh dạn tìm tòi và thể nghiệm những cách thức để tổ chức hoạt động khởi động. Có rất nhiều cách thức để tạo tâm thế khi phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9. Có thể hát một câu hát, câu hò ; kể một câu chuyện ngắn; chia sẻ những cảm xúc chân thành của bản thân; … liên quan đến chủ đề bài học sắp giảng dạy. Những hoạt động khởi động ấy như một chất xúc tác giúp học sinh đi vào bài học khá dễ dàng. Tuy nhiên, một số giáo viên còn lạm dụng hoạt động này. Chẳng hạn như tổ chức trò chơi, hát múa mà không ăn nhập với bài học hoặc chỉ là để “vào bài” với cái tên bài học mà ai cũng biết hoặc lựa chọn các tình huống không phù hợp hoặc quá đơn giản dẫn đến các em có thể trả lời được một cách dễ dàng với các câu hỏi đặt vấn đề. Một số giáo viên dành thời gian cho hoạt động này quá ít hoặc quá
- nhiều. Có giáo viên chưa coi đó là một hoạt động học tập. Không những thế, ở một số tiết dạy giáo viên chưa cho các em suy nghĩ, bày tỏ ý kiến của mình. Về phương pháp một số giáo viên cố gắng giảng giải, chốt kiến thức ở ngay hoạt động này... Thực tế dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy việc định hướng vào bài học chỉ sơ qua bằng một vài câu dẫn dắt có liên quan, mang tính chất giới thiệu bài học; tình huống khởi động chưa thực sự xuất phát từ bài học để tạo hứng thú, tạo ra tình huống có vấn đề kích thích sự sáng tạo và học tập chủ động của học sinh. Hoạt động khởi động/dẫn nhập còn mang tính hình thức, chưa tạo được liên kết thực sự với bài học, chưa xuất phát từ bài học. Do đó khi giáo viên dẫn dắt, thực chất là truyền thụ một chiều, các em thụ động lắng nghe mà không được trực tiếp khởi động. Bản chất việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực là chuyển từ việc lấy thầy làm trung tâm, truyền thụ kiến thức một chiều sang lấy hoạt động học của trò làm trung tâm, thầy cần định hướng để trò thực hiện được hoạt động học một cách tích cực. Tuy nhiên với phương pháp khởi động như giáo viên đang thực hiện như khảo sát trên thì chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học hiện nay. Để thực hiện đề tài trên, tôi đã tiến hành khảo sát đối với giáo viên dạy chương trình Ngữ Văn phần truyện Việt Nam hiện đại theo chương trình hiện hành về thiết kế kế hoạch dạy học có tổ chức hoạt động khởi động. Qua khảo sát 3 giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ Văn tại đơn vị tôi công tác, kết quả như sau: giáo viên môn Ngữ Văn trong trường tôi có thực hiện việc khởi động trước khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài mới; hình thức thường là giáo viên dẫn dắt trực tiếp vào bài, học sinh lắng nghe, không tham gia trực tiếp vào hoạt động khởi động. Như vậy với hình thức dẫn nhập vào bài mà học sinh thụ động hoàn toàn chờ giáo viên định hướng thì chưa thể hiện rõ sự đổi mới; thông qua đánh giá của giáo viên thì với hình thức khởi động hiện nay, lượng học sinh tích cực lắng nghe
- giáo viên định hướng cũng không nhiều. Hay nói cách khác, với hình thức khởi động như trên thì người thầy đang là trung tâm, thầy khởi động còn trò là người nghe và quan sát, chưa thực sự được khởi động trước khi tiến hành công việc là khai thác kiến thức mới. Như vậy, ngay khi vào bài đã chưa có được sự lôi cuốn, hấp dẫn thu hút học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức nên dẫn đến khả năng học sinh học thu động, không tích cực trong việc tìm hiểu và nắm kiến thức mới. 2.1.2. Về phía học sinh Theo dõi quá trình học tập của học sinh, tôi nhận thấy đa số các giáo viên trong quá trình thiết kế các hoạt động dạy học đều có phần định hướng/dẫn nhập (thực chất là một hình thức khởi động) để dẫn dắt học sinh vào nội dung bài học, thời gian dành cho phần này không nhiều nên thời gian dành cho hoạt động khai thác kiến thức mới được nhiều hơn. Học sinh có sự chuẩn bị bài trước ở nhà và có nhu cầu được tham gia hoạt động học tập tích cực hơn thông qua nhiều hình thức học tập phong phú. Các em đều muốn có được tình huống gợi sự tò mò kích thích được nhu cầu học tập của các em để có được kết quả học tập tốt hơn. Trước khi thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh khối 9 của trường THCS nơi tôi công tác vào năm học 2018 – 2019, với hình thức dùng phiếu điều tra. Số lượng HS tham gia khảo sát là 116 học sinh. Kết quả như sau: Nội dung khảo sát Mức độ cao Mức độ trung bình Mức độ thấp SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 1. Em có chuẩn bị muốn được 28 24,1 70 60,3 18 15,5 tham gia vào các hoạt động khởi động không? 2. Em có chuẩn bị tìm hiểu bài 18 15,5 55 47,4 43 37,1 mới ở nhà không? 3. Nếu khởi động tạo cho em 55 47,4 41 35,3 20 17,2
- sự tò mò, em có muốn tìm hiểu bài học để giải đáp vấn đề không? Qua khảo sát học sinh khối 9 tại đơn vị tôi công tác, đa số giáo viên có thực hiện dẫn dắt trước khi vào tiết học phần thơ hiện đại một cách thường xuyên hoặc không thường xuyên. Tuy nhiên việc khởi động mà giáo viên áp dụng mới chủ yếu dừng lại ở việc dẫn dắt của giáo viên, học sinh chưa được tham gia vào hoạt động cụ thể. Qua khảo sát cho thấy đa số học sinh đều có nhu cầu có được tiết học sinh động, hấp dẫn để kích thích tư duy của các em chủ động khám phá kiến thức mới. Tuy nhiên thực tế các em lại ít có sự chuẩn bị bài trước ở nhà, vào đầu tiết học phần thơ hiện đại Việt Nam, giáo viên thực hiện truyền thụ một chiều như vậy dễ gây nhàm chán và chưa đáp ứng được nhu cầu tìm tòi, khám phá của học sinh. Từ đó chưa phát huy hết tính tích cực cũng như sự sáng tạo của các em trong học tập phần truyện hiện đại Việt Nam nói riêng và môn Ngữ Văn nói chung. Về phía học sinh việc chuẩn bị bài trước phần truyện hiện đại Việt Nam ở nhà còn hạn chế, chưa có sự hứng thú với bài học; chưa tạo ra được sự yêu thích và động lực để tự tìm hiểu, tự học tập một cách tích cực. Tuy nhiên tất cả trong số các em học sinh được khảo sát đều có nhu cầu, mong muốn có được tiết học sôi nổi, tạo hứng thú và hấp dẫn ngay từ hoạt động khởi động để kích thích nhu cầu tự tìm hiểu, khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới một cách tích cực. Từ những hạn chế trên dẫn đến hiệu quả hoạt động khởi động của tiết học phần truyện hiện đại Việt Nam không cao, chỉ mang tính dẫn dắt mà không tạo được hứng thú và tư duy tích cực cho học sinh, qua đó không chỉ hoạt động khởi động không đạt được như mong muốn là khởi động để tạo hứng thú, tạo đà cho việc học tích cực ở các hoạt động tiếp theo trong bài học phần truyện hiện đại Việt Nam.
- 2.2. Giải pháp phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 2.2.1. Yêu cầu phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 Mục đích của hoạt động khởi động là tạo tâm thế học tập học sinh, giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú học bài mới. Giáo viên sẽ tạo tình huống học tập dựa trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân học sinh có liên quan đến vấn đề xuất hiện trong tài liệu hướng dẫn học; làm bộc lộ "cái" học sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân học sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận ra "cái" chưa biết và muốn biết thông qua hoạt động này. Từ đó, giúp học sinh suy nghĩ và bộc lộ những quan niệm của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập. Vì vậy, các câu hỏi/nhiệm vụ trong hoạt động khởi động là những câu hỏi/vấn đề mở, không cần có câu trả lời hoàn chỉnh. Kết thúc hoạt động này, giáo viên không chốt về nội dung kiến thức mà chỉ giúp học sinh phát biểu được vấn đề để học sinh chuyển sang các hoạt động tiếp theo nhằm bổ sung những kiến thức, kĩ năng mới, qua đó tiếp tục hoàn thiện câu trả lời hoặc giải quyết được vấn đề. Tất cả các hoạt động học ở lớp chỉ gói gọn trong vòng 45 phút, nên khi soạn giảng cũng như tiến trình lên lớp người dạy không được “rộng rãi” ở bước này. Với hình thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh ngay từ hoạt động khởi động, đo đó khởi động cần tổ chức thành hoạt động để học sinh trực tiếp tham gia nên sẽ cần lượng thời gian nhiều hơn. Thông thường, người dạy chỉ dành khoảng 5 phút để dẫn tổ chức hoạt động này. Vậy nên, yêu cầu đầu tiên của hoạt động khởi động là cần ngắn gọn, súc tích, khái quát cao, lời gọn ý sâu, lấy ít dẫn nhiều chứ không dài dòng, tùy tiện. Nội dung hoạt
- động khởi động cần khái quát, cô đọng nhưng phải phong phú. Về ngôn ngữ thì cần trong sáng, tinh tế, súc tích. Tùy vào từng bài dạy mà giáo viên có thể vận dụng và chú ý từng yêu cầu riêng. Trong đó người dạy cần lưu ý làm nổi bật tính mũi nhọn của bài dạy. Vì vậy, đòi hỏi giáo viên khi thiết kế hoạt động khởi động phải có chọn lọc về ngôn ngữ, làm sao để lời gọn mà ý sâu chứ không nên dài dòng, vòng vo tạo cho học sinh cảm giác dễ hiểu, hứng thú hứa hẹn một tiết dạy hấp dẫn, hiệu quả. Làm nổi bật tính quan hệ giữa các phần, giữa nội dung bài học. Làm nổi bật tính thú vị mang tính nghệ thuật của hoạt động dạy học. Làm nổi bật tính đơn giản, dẽ hiểu của ngôn ngữ. Làm nổi bật tính khái quát tập trung, nâng cao gợi ý. Bởi vậy, hoạt động khởi động mang yêu cầu rất cao, đòi hỏi người dạy không được máy móc, khô khan mà phải linh động, kết hợp nhiều biện pháp sinh động, nhiều ý tưởng sáng tạo. Đê tô ch ̉ ̉ ưc hoat đông kh ́ ̣ ̣ ởi đông đat đ ̣ ̣ ược muc đich ̣ ́ trên, ngươi giáo viên co thê th ̀ ́ ̉ ực hiên băng nhiêu cach khac nhau nh ̣ ̀ ̀ ́ ́ ư kê chuyên, xây ̉ ̣ dựng tinh huông co vân đê, nêu câu hoi co vân đê, ho ̀ ́ ́ ́ ̀ ̉ ́ ́ ̀ ạt động trai nghiêm, quan sát, ̉ ̣ sử dụng câu hoi trong nhóm ho ̉ ạt động khởi động để định hướng suy nghĩ của HS vào những nội dung chưa được sáng tỏ, muốn được sáng tỏ qua bài học mới. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn, rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy của mình, tôi xin đề xuất một trong số các biện pháp tổ chức hoạt động khởi động giảng dạy môn Ngữ Văn phần truyện Việt Nam hiện đại như sau: Tổ chức kể chuyện, đóng vai; tổ chức trò chơi; tổ chức hoạt động trai nghiêm, liên ̉ ̣ hệ thực tế; nêu câu hỏi; sử dụng hình ảnh trực quan. 2.2.2. Các giải pháp phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 Giải pháp 1: Tổ chức kể chuyện, đóng vai
- a. Yêu cầu Kể chuyện là hoạt động chính yếu của dạy học Văn, là một cách thức không những giúp học sinh học tốt mà còn có thêm những tình cảm đẹp. Yêu cầu chung là nội dung câu chuyện phải phù hợp với bài học, có tính giáo dục. Tùy vào điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng và nội dung bài học mà giáo viên chọn nội dung, cách thức kể chuyện cho hợp lí. Có thể lựa chọn những câu chuyện từ sách vở. Hay có khi kể câu chuyện có thật liên quan đến bài học. Phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số nội dung học tập như vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thể một văn bản văn học thành một kịch bản sân khấu, xử lý một tình huống giao tiếp giả định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau… Đóng vai ở hoạt động khởi động khơi gợi và khắc sâu ở các em những tình cảm, cám xúc có liên quan đến bài học. b. Ví dụ: Văn bản Chiếc lược ngà (Ngữ Văn 9, Tập 1) (1). Mục tiêu: Giúp học sinh liên hệ các kiến thức trong câu chuyện với nội dung của bài học. Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới. (2). Phương pháp/kỹ thuật dạy học: hoạt động toàn lớp. (3). Phương tiện: đóng vai. (4). Tiến trình hoạt động: * Bước 1. Giao nhiệm vụ Các em sẽ nghe một câu chuyện ngắn. Câu chuyện sau gợi cho em cảm nhận gì về người lính cách mạng? * Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ:
- HS kể một câu chuyện có sự minh họa của một số HS vào vai ông Ba, bé Thu khi trưởng thành và các đồng đội khác của ông Ba. Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ, giữa Tháp Mười mà chung quanh nước đã lên đầy. Nhưng người lính được nghe câu chuyện của một đồng chí già kể lại. Chuyện xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi, hôm đó, ông đi từ trạm N.G. đến L.A. Khi chiếc xuồng máy đuôi tôm vừa xô ra bến thì những người lính ai cũng muốn biết người lái ấy là ai. Nhưng trời đã tối rồi, họ chỉ thấy đó là một cô giao liên người mảnh khảnh, vai mang cây "cạcbin" bá xếp của Mỹ, đầu chít khăn, dáng điệu gọn gàng. Nghe tiếng đồn trạm này có một cô giao liên rất thông minh. Một hôm cô dẫn một đoàn khách sắp sửa qua sông, cô để khách dừng lại ngoài ruộng xa. Cô và một anh giao liên nữa tiến trước dọn đường. Đến vườn cây bờ sông, cô thấy mình đã lọt vào ổ phục kích của địch. Nhưng cô không bối rối. Cô vừa gọi người bạn của mình vừa nói, cô cố ý nói lớn cho bọn địch nghe: "Tình hình yên, không có gì, anh trở lại dẫn khách đi, còn tôi sang sông lắc xuồng đem qua". Trong câu nói ấy có ám hiệu. Anh giao liên liền quay lại, êm ái đưa khách bọc qua ngả khác, vượt sông cách đó độ một vài cây số. Còn cô ta, trước khi qua sông cô còn gài lại hai trái lựu đạn. Cô qua sông, thế là thoát. Còn đám biệt kích kia, bọn nó tưởng thật, định hốt cả một đoàn khách, nên chẳng dám rục rịch, mà cứ chờ. Chờ mãi, bọn nó biết, nó chửi rủa nhau, trong lúc lục đục kéo về lớ quớ thế nào lại vấp cả hai quả lựu đạn gài, rụng hết mấy mạng. Qua chuyện đó, người ta thêm thắt rằng cô giao liên ấy có cái mũi rất thính, cô dùng mũi để nghe mùi địch và có thể phân biệt được thằng nào là Mỹ, thằng nào là ngụy nữa. Học sinh hoạt động toàn lớp để tranh luận về vấn đề dưới sự quan sát, định hướng của giáo viên. * Bước 3. Báo cáo kết quả HS trình bày cảm nhận riêng về cô giao liên.
- * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài. Cuộc gặp gỡ với cô giao liên gan dạ, dũng cảm ấy là khơi nguồn kí ức về tình cảm cha con ông Sáu – bé Thu trong hoàn cảnh chiến tranh éo le và khắc nghiệt mà hôm nay cô trò chúng ta cùng tìm hiểu. Giải pháp 2: Tổ chức trò chơi a. Yêu cầu. Giáo viên: Đọc và tìm hiểu nội dung bài học để lựa chọn trò chơi cho phù hợp với tiết dạy. Hướng dẫn thể lệ, cách thực hiện trò chơi (tuỳ thuộc vào từng trò chơi để đưa ra luật chơi). Học sinh: Nắm chắc thể lệ trò chơi do giáo viên đưa ra để tuân thủ thực hiện một cách nghiêm ngặt và đúng quy tắc. Nếu là trò chơi mang tính chất tập thể thì đòi hỏi mỗi thành viên phải có tinh thần trách nhiệm và ý thức cao khi tham gia chơi. b. Ví dụ: Văn bản Làng (Ngữ Văn 9, Tập 1) a. Mục tiêu: Giúp học sinh nhớ lại các kiến thức đã có về ca dao và tục ngữ Việt Nam; những bài thơ tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới. b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: nhóm. c. Phương tiện: Phiếu học tập. d. Tiến trình hoạt động: * Bước 1. Giao nhiệm vụ
- Tổ chức trò chơi: Chia lớp thành 3 đội yêu cầu mỗi đội trong vòng 5 phút tìm những câu tục ngữ hoặc ca dao, hoặc những bài thơ có từ “làng”. Đội nào tìm được nhiều câu thì đội đó thắng. * Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ Học sinh hoạt động nhóm để trả lời câu hỏi dưới sự quan sát, định hướng của giáo viên. * Bước 3. Báo cáo kết quả GV chia bảng làm 3 phần, mời đại diện của các nhóm ở mỗi dãy lên ghi trên bảng như: “Làng tôi có lũy tre xanh Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng Bên bờ vải nhãn hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng” (Ca dao) “Làng ta ở tận làng ta Mấy năm một bận con xa về làng Gốc cây, hòn đá cũ càng, Trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay Cha ta cầm cuốc trên tay, Nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa Lưng trần bạc nắng thâm mưa Bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì” (Về làng, Nguyễn Duy) “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
- Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió” (Quê hương, Tế Hanh) Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay… (Hạt gạo làng ta, Trần Đăng Khoa) * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài. Hình ảnh làng quê với cây đa, bến nước, sân đình … gắn bó sâu nặng với bao người. Tình yêu đối với làng quê càng chân thực và sâu nặng hơn khi đặt người dân vào những tình huống éo le. Đó chính là sức hấp dẫn của truyện ngắn “Làng” Giải pháp 3: Hoạt động trai nghiêm, liên h ̉ ̣ ệ thực tế a. Yêu cầu
- Kết hợp thực tế có nghĩa là kết hợp thực tế giữa học sinh giáo viên phụ huynh, là kết hợp giữa thực tế học tập cuộc sống xã hội. Kết hợp thực tế sẽ giúp cho hoạt động dạy học thân thiết hơn, gần gũi và khoáng đạt hơn. Dùng phương pháp này chỉ là cái “cớ” để dẫn vào bài học, vừa làm phong phú nội dung dạy học, vừa phát huy tính tích cực ở học sinh và tính chỉ dẫn của người dạy. b. Ví dụ: Văn bản Làng (Ngữ Văn 9, Tập 1) a. Mục tiêu: Giúp học sinh từ trải nghiệm thực tiễn của bản thân trong đời sống; vận dụng kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới. b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: liên hệ thực tiễn đời sống. c. Phương tiện: Màn hình ti vi d. Tiến trình hoạt động * Bước 1. Giao nhiệm vụ Nếu được “khoe” làng quê của mình đang sống, em sẽ “khoe” với mọi người điều gì? * Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ Học sinh hoạt động cá nhân để trả lời câu hỏi dưới sự quan sát, định hướng của giáo viên. * Bước 3. Báo cáo kết quả HS trình bày sự liên hệ của bản thân mình với tình cảm với làng quê. * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt.
- Mỗi chúng ta ai cũng có một tình yêu đối với làng quê của mình bằng tình cảm nhớ nhung da diết, bằng sự gắn bó thiết tha đối với quê nhà. Đối với người nông dân chất phác thì tình cảm với làng quê, thôn xóm là tình cảm tự trong tim, ngấm sâu vào máu thịt. Đó là nỗi nhớ da diết của một con người cả đời gắn bỏ sâu nặng với mảnh đất nơi mình sinh ra, lớn lên. Cái làng đã trở thành nguồn vui sống của họ. Chính vì thế, bên cạnh hình ảnh những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên mặt trận chống Pháp còn có những con người hi sinh lặng thầm nơi hậu phương đế góp phần vào thắng lơi của kháng chiến. Đó là những người nông dân có lòng yêu nước thiết tha, bình dị, sâu sắc mà các em sẽ được tìm hiểu qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân. Giải pháp 4: Nêu câu hỏi a. Yêu cầu Nêu câu hỏi có hai loại: Loại câu hỏi thiết vấn (thiết lập câu hỏi để tự trả lời) và loại câu hỏi đề vấn (nêu câu hỏi để học sinh trả lời). Nội dung câu hỏi có thể nêu ra từ những mặt khác nhau, góc độ khác nhau nhưng chỉ cần phù hợp với nội dung bài học là được. Đây là phương pháp khởi động đơn giản được sử dụng rất phổ biến trong quá trình giảng dạy. b. Ví dụ: Văn bản Lặng lẽ Sa Pa (Ngữ Văn 9, tập 1) a. Mục tiêu: Giúp học sinh vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi do GV gợi mở; Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới. b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: hoạt động cá nhân. c. Phương tiện: Màn hình ti vi. d. Tiến trình hoạt động * Bước 1. Giao nhiệm vụ
- GV: Em đã từng có dịp nào đến Sa Pa chưa? Em biết gì về Sa Pa? * Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ Học sinh hoạt động cá nhân để trả lời câu hỏi dưới sự quan sát, định hướng của giáo viên. * Bước 3. Báo cáo kết quả HS trình bày hiểu biết qua việc trả lời câu hỏi * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức: Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài. Giáo viên thiết vấn: Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, những vẻ đẹp huyền ảo. Sa Pa, nơi mà nhắc đến tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo lắng cho đất nước. Họ là những con người như thế nào? Học sinh mang theo thắc mắc vào học tập, phân tích, tìm hiểu những thắc mắc để tìm đến lẽ phải có tính mục đích rõ ràng khiến cho kiến thức vững vàng và khắc sâu ở các em hơn. Tuy nhiên, khi giáo viên nêu câu hỏi cần lưu ý đó là những kiến thức quen thuộc với học sinh, đáp án đưa ra là duy nhất. Có như thế khi giải đáp thắc mắc sẽ có tính nhất quán và mục đích dẫn tới bài học sẽ hoàn hảo. Giải pháp 5: Sử dụng hình ảnh trực quan
- Sử dụng đồ dùng trực quan trong tổ chức dạy học phần khởi động chủ yếu là tranh ảnh và những đoạn phim tư liệu. (1). Sử dụng tranh ảnh minh họa a. Yêu cầu Sử dụng tranh ảnh minh họa là phương pháp khá phổ biến trong giảng dạy các môn khoa học tự nhiên và các môn Địa lí, Sinh học, Lịch sử,…Còn dạy học Ngữ Văn thì dựa vào văn bản là chủ yếu, hiếm khi sử dụng vật mẫu hay tranh ảnh minh họa. Vì thế, khi sử sụng tranh ảnh minh họa học sinh sẽ có được những cảm nhận mới mẻ khi tiếp cận văn bản. Đây là một biện pháp hỗ trợ dạy học không thể thiếu trong giảng dạy nói chung. Biện pháp này có thể thay cho khởi động để tạo cảm giác chân thực, tăng thêm tính rõ ràng, tính sinh động khi thuyết giảng. b. Ví dụ: Văn bản Lặng lẽ Sa Pa (Ngữ Văn 9, tập 1). a. Mục tiêu: Giúp học sinh vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi do GV gợi mở; Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới. b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: hoạt động cá nhân. c. Phương tiện: Màn hình ti vi. d. Tiến trình hoạt động * Bước 1. Giao nhiệm vụ GV: yêu cầu HS quan sát những bức tranh sau trên màn hình. Quan sát các bức tranh, em nào cho cô biết hình ảnh trên gợi cho em những ấn tượng gì?
- Ngũ Chỉ Sơn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Những biện pháp phát huy vai trò tự quản của tập thể lớp tại lớp 8a2 trường THCS Nguyễn Lân
19 p | 40 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua đổi mới nội dung và hình thức giờ sinh hoạt lớp bậc THCS
34 p | 29 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập môn GDCD
23 p | 103 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Kết hợp một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy năng lực và kĩ năng của học sinh khi dạy môn Vật lý ở trường THCS
48 p | 24 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giảng dạy Số học 6
12 p | 16 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực cho học sinh lớp 8 và học sinh tham gia thi Tin học trẻ trong khi giảng dạy Pascal
9 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát triển kĩ năng nghe với học sinh THCS
15 p | 25 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát triển năng lực của học sinh trong dạy học Vật lí thông qua việc tự làm thí nghiệm từ những vật liệu đơn giản, dễ tìm
14 p | 9 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy năng lực của ban cán sự lớp
9 p | 58 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh qua chủ đề Các giác quan Sinh học 8, ở trường THCS và THPT Nghi Sơn
27 p | 17 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát triển tư duy của học sinh qua khai thác bài toán hình học cơ bản trong sách giáo khoa môn Toán lớp 9
27 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy trí lực học sinh trong giải Toán bất đẳng thức và cực trị
26 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy năng lực của học sinh trong giảng dạy bài Di truyền học với con người
29 p | 34 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Hình học 7
20 p | 12 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy năng lực của học sinh trong dạy học văn miêu tả lớp 6
19 p | 29 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực độc lập của học sinh trong giờ học môn Sinh học
8 p | 40 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh qua bài Câu đặc biệt Ngữ văn 7
12 p | 50 | 2
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Pát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc dạy ca dao môn Ngữ văn 7
44 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn