intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

109
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là mong muốn áp dụng các phương pháp dạy học có hiệu quả hơn trong thực tiễn nhằm giúp các em hình thành tính tích cực nhận thức và phát triển khả năng sáng tạo của mình khi đọc - hiểu văn bản.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9

  1. 1. Phần mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Khoa học giáo dục hiện đại cho rằng dạy học vừa là lĩnh vực mang tính thực   tiễn, vừa mang tính nghệ thuật. Hoạt động khởi động chính là biện pháp hợp thành  của quá trình và nghệ thuật dạy học. Nó mở đầu và đặt nền móng cho cả quá trình   dạy học, gắn bó xuyên suốt với hoạt động trên lớp. Đồng thời cũng là quá trình   then chốt thúc đẩy tính tích cực ở học sinh. Mặt khác “phương pháp giáo dục phổ  thông phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn  học, bồi dưỡng phương pháp tự  học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào  thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học  sinh” (Điều 24, Luật giáo dục). Đây là định hướng cơ  bản thiết thực đối với mỗi   giáo viên, cũng là yếu tố quyết định hiệu quả của một giờ dạy.  Mục đích của hoạt động khởi động là dẫn vào bài học, nối liền bài cũ với  bài mới, gợi ý cho học sinh, kích thích hứng thú, làm rõ mục đích, tạo được không   khí học tập tích cực, sôi nổi ở học sinh. Từ thực tế giảng dạy, ta thấy niềm vui và   sự ham thích sẽ là một động lực lớn giúp học sinh vượt qua khó khăn để vươn lên  trong học tập. Có thể nói hoạt động khởi động có vai trò như trải nệm để dẫn dắt  học sinh nhận thức tác phẩm văn học một cách hứng thú, say mê. Bên cạnh đó việc sáng tạo trong hoạt động khởi động cũng là để tìm ra biện  pháp nhằm đảm bảo hiệu quả  và nâng cao chất lượng trong dạy học Ngữ  văn  ở  trường THCS. Đây cũng là hướng tiếp cận quan điểm giúp học sinh mạnh dạn, tự  tin trong học tập, là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình thành thói quen tốt,   hình thành nhân cách cho các em trong tương lai. Theo đà hiện đại hóa, hệ  thống   hóa, thì dạy học môn Ngữ Văn sẽ đi vào chiều sâu như một điều tất yếu và kĩ năng  của hoạt động khởi động  cũng ngày càng được coi trọng.
  2. Từ  nhiều năm nay, phương pháp đổi mới dạy văn đã được chú trọng phát  triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm  sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Trong đó hoạt  động khởi động chỉ  là khâu nhỏ, nhưng lại  ở  vào vị  trí mở  đầu, có tác dụng đặt  nền móng và gắn bó với các hoạt động còn lại như  hoạt động hình thành kiến  thức, hoạt động luyện tập, hoạt động vận dụng và hoạt động tìm tòi mở  rộng.  Vậy nên, người dạy cần nắm được kiến thức trọng tâm, cần nghiên cứu, chuẩn bị  bài thật chu đáo trước khi lên lớp. Thiết nghĩ, trong cuộc sống cũng như trong dạy  học bước khởi đầu của một tiết học   sẽ  tạo tiền đề  vững chắc, có yếu tố  tiên  quyết đảm bảo cho tiến trình dạy học thành công. Một hoạt động khởi động hiệu  quả sẽ có tác dụng tích cực trong việc kích thích trí tò mò, khơi dậy hứng thú của  học sinh, tạo tâm thế và định hướng nội dung học tập cho các em.  Một tiết dạy thu hút được sự  chú ý, kích thích được sự  tò mò tìm hiểu của  học sinh phải xuất phát ngay từ đầu tiết dạy để tạo nên hứng thú học tập cho học   sinh trong suốt quá trình diễn ra tiết học. Tuy nhiên trên thực tế, cá nhân tôi và hầu  hết giáo viên khi thiết kế  kế  hoạch dạy học thường chỉ  làm theo hình thức giới   thiệu qua một chút để vào bài, như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian dành cho  hoạt động khai thác kiến thức mới, không lo lắng nhiều về vấn đề thiếu thời gian,   cháy giáo án… do đó tiết học tương đối khô khan, thiên về lý thuyết và giảng giải  mà thiếu di sự hợp tác tích cực của học sinh; ngay từ bước vào bài học sinh đã có   tâm lý thụ động chờ giáo viên dẫn dắt nội dung và truyền thụ một chiều, từ đó sẽ  khó tạo tâm lý để các em sẵn sàng tiếp thu kiến thức. Là một giáo viên dạy Văn theo chương trình và sách giáo khoa hiện hành, tôi  trăn trở rất nhiều, tìm tòi và thử nghiệm để lựa chọn những phương pháp dạy học  phù hợp với lớp học và môn học. Trong quá trình đó, tôi nhận thấy tổ  chức chuỗi  hoạt động học thì hoạt động khởi động có ý nghĩa quan trọng đối với giờ học Ngữ  Văn. Đặc biệt đối với học sinh lớp 9 của trường THCS dạy học Văn nói chung và  
  3. dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại nói riêng thì hoạt động khởi động rất cần  thiết trong dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, nêu và giải quyết vấn đề cho   học sinh. Hoạt động này cần tạo ra được những tình huống, những vấn đề mà ở đó   người học phải huy động tất cả  các kiến thức hiện có, những kinh nghiệm, vốn   sống của mình để cố gắng nhìn nhận và giải quyết theo cách riêng của mình. Với mong muốn áp dụng các phương pháp dạy học có hiệu quả  hơn trong  thực tiễn, tôi mạnh dạn thể  nghiệm đề  tài “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ  động sáng tạo của học sinh   khi  tổ  chức hoạt động khởi động khi dạy học   phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ  Văn lớp 9”  nhằm  giúp các em hình thành tính tích cực nhận thức và phát triển khả năng sáng tạo của  mình khi đọc ­ hiểu văn bản.  1.2 Điểm mới của đề tài Tổ chức hoạt động khởi động vốn không xa lạ với mô hình trường học mới.   Đối với một số tiết thao giảng đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên bước đầu  đã tiến hành tổ chức hoạt động khởi động cho các tiết dạy.  Điểm mới của đề tài  là việc áp dụng đối với dạy học đại trà để bắt kịp định hướng tổ chức chuỗi hoạt   động học trong dạy học Ngữ Văn 9 nói chung và bản thân đã thể nghiệm dạy học   ở phần thơ Việt Nam hiện đại trong những năm học trước. Trên cơ sở kế thừa và  tiếp tục thể  nghiệm rộng hơn  ở  dạy học phần truyện Việt Nam hi ện  đại trong   chương trình Ngữ Văn lớp 9.  1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài ­ Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 9A, 9B và 9C nơi tôi công tác. ­ Áp dụng đối với việc dạy học Ngữ Văn 9 đối với những tác phẩm truyện   hiện đại Việt Nam.
  4. 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu Những năm gần đây dổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn Ngữ  Văn nói riêng đã trở  thành tâm huyết và thực sự  có chiều sâu đối với người giáo  viên. Phần lớn các giáo viên đã thực hiện đồng bộ bốn đặc trưng của dạy học theo  định hướng phát triển năng lực học sinh như: dạy học thông qua các hoạt động của  học sinh, dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường học tập cá  thể phối hợp với học tập hợp tác, kết hợp đánh giá của thầy với tự  đánh giá của   trò. Dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9   được thiết kế học qua hai học kì, trải qua các giai đoạn:  ­ Tác phẩm truyện giai đoạn 1945­1954: Làng (Kim Lân) ­ Các tác phẩm truyện giai đoạn 1955­1975: Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang   Sáng), Lặng lẽ  Sa Pa (Nguyễn Thành Long), Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh   Khuê) 2.1.1. Về phía giáo viên Tổ chức hoạt động khởi động rất cần thiết trong dạy học phần truyện Việt   Nam hiện đại nhằm phát triển năng lực cho học sinh như  phát triển năng lực tư  duy, năng lực giải quyết vấn đề…. Ở hoạt động này giáo viên đã tạo ra những tình   huống, những vấn đề   ở  đó người học cần được huy động tất cả  các kiến thức  hiện có, những kinh nghiệm, vốn sống của mình để  cố  gắng nhìn nhận và giải  quyết theo cách riêng của mình và cảm thấy thiếu hụt kiến thức, thông tin để giải 
  5. quyết. Chính vì thế nhiều giáo viên Ngữ Văn đã tích cực tìm tòi để  kich thich tinh ́ ́ ́   ̀ ̀ ̀ ̣ to mo va đinh hương hoat đông cua h ́ ̣ ̣ ̉ ọc sinh trươc khi hinh thanh kiên th ́ ̀ ̀ ́ ức la muc ̀ ̣   ̉ ̀ ởi đông trong d đich chính cua phân kh ́ ̣ ạy học. Dạy học phần truyện Việt Nam phần truyện hiện  đại trong chương trình  Ngữ  Văn 9  thông qua tổ  chức hoạt động khởi động giúp học sinh tự  khám phá  những điều chưa biết một cách tích cực, tự  giác và chủ  động chứ  không phải thụ  động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn . Theo tinh thần này, giáo viên  không cung cấp, áp đặt kiến thức có sẵn mà là người  tổ  chức học sinh tiến hành  các hoạt động học tập như  nhớ  lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận   dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực   tiễn ... Như  vậy, tổ  chức hoạt  động khởi động phải là một hoạt động học tập,  nhiệm vụ chuyển giao của giáo viên phải rõ ràng, học sinh phải được bày tỏ ý kiến  riêng của mình cũng như  ý kiến của nhóm về  vấn đề  đó cũng như  việc trình bày  báo cáo kết quả. Nhận thức được mục đích của hoạt động khởi động nên bản thân  tôi và các đồng nghiệp của mình đã mạnh dạn tìm tòi và thể  nghiệm những cách  thức để tổ chức hoạt động khởi động.  Có rất nhiều cách thức để  tạo tâm thế  khi phần truyện Việt Nam hiện đại   trong chương trình Ngữ  Văn lớp 9. Có thể  hát một câu hát, câu hò ; kể  một câu  chuyện ngắn; chia sẻ  những cảm xúc chân thành của bản thân; … liên quan đến  chủ đề bài học sắp giảng dạy. Những hoạt động khởi động ấy như  một chất xúc  tác giúp học sinh đi vào bài học khá dễ dàng. Tuy nhiên, một số giáo viên còn lạm dụng hoạt động này. Chẳng hạn như tổ  chức trò chơi, hát múa mà không ăn nhập với bài học hoặc chỉ là để  “vào bài” với   cái tên bài học mà ai cũng biết hoặc lựa chọn các tình huống không phù hợp hoặc  quá đơn giản dẫn đến các em có thể trả lời được một cách dễ dàng với các câu hỏi  đặt vấn đề. Một số  giáo viên dành thời gian cho hoạt động này quá ít hoặc quá 
  6. nhiều. Có giáo viên chưa coi đó là một hoạt động học tập. Không những thế,  ở  một số  tiết dạy giáo viên chưa cho các em suy nghĩ, bày tỏ  ý kiến của mình. Về  phương pháp một số  giáo viên cố  gắng giảng giải, chốt kiến thức  ở  ngay hoạt   động này... Thực tế dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy việc định hướng vào bài học chỉ  sơ  qua bằng một vài câu dẫn dắt có liên quan, mang tính chất giới thiệu bài học;   tình huống khởi động chưa thực sự  xuất phát từ  bài học để  tạo hứng thú, tạo ra  tình huống có vấn đề  kích thích sự  sáng tạo và học tập chủ  động của học sinh.   Hoạt động khởi động/dẫn nhập còn mang tính hình thức, chưa tạo được liên kết  thực sự với bài học, chưa xuất phát từ  bài học. Do đó khi giáo viên dẫn dắt, thực  chất là truyền thụ một chiều, các em thụ động lắng nghe mà không được trực tiếp  khởi động. Bản chất việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực là  chuyển từ  việc lấy thầy làm trung tâm, truyền thụ  kiến thức một chiều sang lấy  hoạt động học của trò làm trung tâm, thầy cần định hướng để  trò thực hiện được  hoạt động học một cách tích cực. Tuy nhiên với phương pháp khởi động như  giáo  viên đang thực hiện như khảo sát trên thì chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy  học hiện nay.  Để  thực hiện đề  tài trên, tôi đã tiến hành khảo sát đối với giáo viên dạy  chương trình Ngữ  Văn phần truyện Việt Nam hiện đại theo chương trình hiện  hành về thiết kế kế hoạch dạy học có tổ chức hoạt động khởi động. Qua khảo sát  3 giáo viên giảng dạy bộ  môn Ngữ  Văn tại đơn vị  tôi công tác, kết quả  như  sau:   giáo viên môn Ngữ  Văn trong trường tôi có thực hiện việc khởi động trước khi   hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài mới; hình thức thường là giáo viên dẫn dắt trực  tiếp vào bài, học sinh lắng nghe, không tham gia trực tiếp vào hoạt động khởi  động. Như  vậy với hình thức dẫn nhập vào bài mà học sinh thụ  động hoàn toàn  chờ giáo viên định hướng thì chưa thể hiện rõ sự  đổi mới; thông qua đánh giá của  giáo viên thì với hình thức khởi động hiện nay, lượng học sinh tích cực lắng nghe  
  7. giáo viên định hướng cũng không nhiều. Hay nói cách khác, với hình thức khởi  động như  trên thì người thầy đang là trung tâm, thầy khởi động còn trò là người  nghe và quan sát, chưa thực sự  được khởi động trước khi tiến hành công việc là  khai thác kiến thức mới. Như vậy, ngay khi vào bài đã chưa có được sự  lôi cuốn,   hấp dẫn thu hút học sinh chủ  động lĩnh hội kiến thức nên dẫn đến khả  năng học  sinh học thu động, không tích cực trong việc tìm hiểu và nắm kiến thức mới. 2.1.2. Về phía học sinh Theo dõi quá trình học tập của học sinh, tôi nhận thấy đa số  các giáo viên   trong quá trình thiết kế các hoạt động dạy học đều có phần định hướng/dẫn nhập   (thực chất là một hình thức khởi động) để dẫn dắt học sinh vào nội dung bài học,   thời gian dành cho phần này không nhiều nên thời gian dành cho hoạt động khai  thác kiến thức mới được nhiều hơn. Học sinh có sự chuẩn bị bài trước ở nhà và có   nhu cầu được tham gia hoạt động học tập tích cực hơn thông qua nhiều hình thức  học tập phong phú. Các em đều muốn có được tình huống gợi sự tò mò kích thích  được nhu cầu học tập của các em để có được kết quả học tập tốt hơn.  Trước khi thực hiện đề  tài, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh khối 9 của   trường THCS nơi tôi công tác vào năm học 2018 – 2019, với hình thức dùng phiếu  điều tra. Số lượng HS tham gia khảo sát là 116 học sinh. Kết quả như sau: Nội dung khảo sát Mức độ cao Mức độ trung bình Mức độ   thấp SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 1. Em có chuẩn bị  muốn được  28 24,1 70 60,3 18 15,5 tham   gia   vào   các   hoạt   động  khởi động không? 2. Em có chuẩn bị  tìm hiểu bài  18 15,5 55 47,4 43 37,1 mới ở nhà không?   3. Nếu khởi  động tạo cho em  55 47,4 41 35,3 20 17,2
  8. sự  tò mò, em có muốn tìm hiểu  bài   học   để   giải   đáp   vấn   đề  không? Qua khảo sát học sinh khối 9 tại đơn vị tôi công tác, đa số giáo viên có thực   hiện dẫn dắt trước khi vào tiết học phần thơ  hiện đại một cách thường xuyên  hoặc không thường xuyên. Tuy nhiên việc khởi động mà giáo viên áp dụng mới   chủ  yếu dừng lại  ở việc dẫn dắt của giáo viên, học sinh chưa được tham gia vào   hoạt động cụ  thể. Qua khảo sát cho thấy đa số  học sinh đều có nhu cầu có được  tiết học sinh động, hấp dẫn để  kích thích tư  duy của các em chủ  động khám phá  kiến thức mới. Tuy nhiên thực tế các em lại ít có sự chuẩn bị bài trước ở nhà, vào  đầu tiết học phần thơ  hiện đại Việt Nam, giáo viên thực hiện truyền thụ  một  chiều như vậy dễ gây nhàm chán và chưa đáp ứng được nhu cầu tìm tòi, khám phá  của học sinh. Từ đó chưa phát huy hết tính tích cực cũng như sự  sáng tạo của các  em trong học tập phần truyện hiện đại Việt Nam nói riêng và môn Ngữ  Văn nói  chung.  Về phía học sinh việc chuẩn bị bài trước phần truyện hiện đại Việt Nam ở  nhà còn hạn chế, chưa có sự  hứng thú với bài học; chưa tạo ra được sự  yêu thích  và động lực để tự tìm hiểu, tự học tập một cách tích cực. Tuy nhiên tất cả trong số  các em học sinh được khảo sát đều có nhu cầu, mong muốn có được tiết học sôi   nổi, tạo hứng thú và hấp dẫn ngay từ hoạt động khởi động để  kích thích nhu cầu  tự  tìm hiểu, khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới một cách tích cực. Từ  những   hạn chế  trên dẫn đến hiệu quả  hoạt động khởi động của tiết học phần truyện   hiện đại Việt Nam không cao, chỉ mang tính dẫn dắt mà không tạo được hứng thú   và tư duy tích cực cho học sinh, qua đó không chỉ  hoạt động khởi động không đạt  được như mong muốn là khởi động để tạo hứng thú, tạo đà cho việc học tích cực   ở các hoạt động tiếp theo trong bài học phần truyện hiện đại Việt Nam.
  9. 2.2. Giải pháp phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học   sinh khi  tổ  chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam   hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 2.2.1. Yêu cầu phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học   sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện   đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 Mục đích của hoạt động khởi động là tạo tâm thế học tập học sinh, giúp học   sinh ý thức được nhiệm vụ  học tập, hứng thú học bài mới. Giáo viên sẽ  tạo tình  huống học tập dựa trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân học  sinh có liên quan đến vấn đề  xuất hiện trong tài liệu hướng dẫn học; làm bộc lộ  "cái" học sinh đã biết, bổ  khuyết những gì cá nhân học sinh còn thiếu, giúp học   sinh nhận ra "cái" chưa biết và muốn biết thông qua hoạt động này. Từ  đó, giúp  học sinh suy nghĩ và bộc lộ  những quan niệm của mình về  vấn đề  sắp tìm hiểu,  học tập. Vì vậy, các câu hỏi/nhiệm vụ  trong hoạt động khởi động là những câu  hỏi/vấn đề mở, không cần có câu trả lời hoàn chỉnh. Kết thúc hoạt động này, giáo   viên không chốt về nội dung kiến thức mà chỉ giúp học sinh phát biểu được vấn đề  để học sinh chuyển sang các hoạt động tiếp theo nhằm bổ sung những kiến thức,  kĩ năng mới, qua đó tiếp tục hoàn thiện câu trả lời hoặc giải quyết được vấn đề.  Tất cả các hoạt động học ở lớp chỉ gói gọn trong vòng 45 phút, nên khi soạn   giảng cũng như  tiến trình lên lớp người dạy không được “rộng rãi”  ở  bước này.  Với hình thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của   học sinh ngay từ  hoạt động khởi động, đo đó khởi động cần tổ  chức thành hoạt   động để học sinh trực tiếp tham gia nên sẽ  cần lượng thời gian nhiều hơn. Thông  thường, người dạy chỉ  dành khoảng 5 phút để  dẫn tổ  chức hoạt động này. Vậy  nên, yêu cầu đầu tiên của hoạt động khởi động là cần ngắn gọn, súc tích, khái quát   cao, lời gọn ý sâu, lấy ít dẫn nhiều chứ  không dài dòng, tùy tiện. Nội dung hoạt 
  10. động khởi động cần khái quát, cô đọng nhưng phải phong phú. Về  ngôn ngữ  thì  cần trong sáng, tinh tế, súc tích.  Tùy vào từng bài dạy mà giáo viên có thể  vận dụng và chú ý từng yêu cầu   riêng. Trong đó người dạy cần lưu ý làm nổi bật tính mũi nhọn của bài dạy. Vì  vậy, đòi hỏi giáo viên khi thiết kế  hoạt động khởi động phải có chọn lọc về ngôn   ngữ, làm sao để lời gọn mà ý sâu chứ không nên dài dòng, vòng vo tạo cho học sinh   cảm giác dễ hiểu, hứng thú hứa hẹn một tiết dạy hấp dẫn, hiệu quả. Làm nổi bật   tính quan hệ  giữa các phần, giữa nội dung bài học. Làm nổi bật tính thú vị  mang  tính nghệ  thuật của hoạt động dạy học. Làm nổi bật tính đơn giản, dẽ  hiểu của   ngôn ngữ. Làm nổi bật tính khái quát tập trung, nâng cao gợi ý. Bởi vậy, hoạt động khởi động mang yêu cầu rất cao, đòi hỏi người dạy  không được máy móc, khô khan mà phải linh động, kết hợp nhiều biện pháp sinh  động, nhiều ý tưởng sáng tạo. Đê tô ch ̉ ̉ ưc hoat đông kh ́ ̣ ̣ ởi đông đat đ ̣ ̣ ược muc đich ̣ ́   trên, ngươi giáo viên co thê th ̀ ́ ̉ ực hiên băng nhiêu cach khac nhau nh ̣ ̀ ̀ ́ ́ ư kê chuyên, xây ̉ ̣   dựng tinh huông co vân đê, nêu câu hoi co vân đê, ho ̀ ́ ́ ́ ̀ ̉ ́ ́ ̀ ạt động trai nghiêm, quan sát, ̉ ̣   sử dụng câu hoi trong nhóm ho ̉ ạt động khởi động để định hướng suy nghĩ của HS   vào những nội dung chưa được sáng tỏ, muốn được sáng tỏ qua bài học mới. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn, rút kinh nghiệm từ thực   tế  giảng dạy của mình, tôi xin đề  xuất một trong số  các biện pháp tổ  chức hoạt  động khởi động giảng dạy môn Ngữ Văn phần truyện Việt Nam hiện đại như sau:  Tổ chức kể chuyện, đóng vai; tổ chức trò chơi; tổ chức hoạt động trai nghiêm, liên ̉ ̣   hệ thực tế; nêu câu hỏi; sử dụng hình ảnh trực quan. 2.2.2. Các giải pháp phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của   học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam   hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9           Giải pháp 1: Tổ chức kể chuyện, đóng vai
  11.           a. Yêu cầu      Kể chuyện là hoạt động chính yếu của dạy học Văn, là một cách thức không  những giúp học sinh học tốt mà còn có thêm những tình cảm đẹp. Yêu cầu chung là   nội dung câu chuyện phải phù hợp với bài học, có tính giáo dục. Tùy vào điều  kiện, hoàn cảnh, đối tượng và nội dung bài học mà giáo viên chọn nội dung, cách  thức kể chuyện cho hợp lí.     Có thể lựa chọn những câu chuyện từ sách vở. Hay có khi kể câu chuyện có  thật liên quan đến bài học. Phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số nội   dung học tập như vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thể một  văn bản văn học thành một kịch bản sân khấu, xử lý một tình huống giao tiếp giả  định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau…     Đóng vai  ở hoạt động khởi động khơi gợi và khắc sâu ở  các em những tình  cảm, cám xúc có liên quan đến bài học.            b. Ví dụ:  Văn bản Chiếc lược ngà  (Ngữ Văn 9, Tập 1) (1). Mục tiêu: Giúp học sinh liên hệ  các kiến thức trong câu chuyện với nội dung   của bài học. Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ  sung kiến thức bài học  mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới. (2). Phương pháp/kỹ thuật dạy học: hoạt động toàn lớp.   (3). Phương tiện: đóng vai.  (4). Tiến trình hoạt động:  * Bước 1. Giao nhiệm vụ ­ Các em sẽ  nghe một câu chuyện ngắn.  Câu chuyện sau gợi cho em cảm nhận gì  về người lính cách mạng? * Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ: 
  12. ­ HS kể một câu chuyện có sự minh họa của một số HS vào vai ông Ba, bé Thu khi   trưởng thành và các đồng đội khác của ông Ba.  Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ, giữa Tháp Mười mà chung quanh nước đã lên đầy. Nhưng người lính được nghe câu chuyện của   một đồng chí già kể lại.   Chuyện xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi, hôm đó, ông đi từ  trạm N.G.   đến L.A. Khi chiếc xuồng máy đuôi tôm vừa xô ra bến thì những người lính ai cũng   muốn biết người lái ấy là ai. Nhưng trời đã tối rồi, họ chỉ thấy đó là một cô giao   liên người mảnh khảnh, vai mang cây "cạc­bin" bá xếp của Mỹ, đầu chít khăn,   dáng điệu gọn gàng. Nghe tiếng đồn trạm này có một cô giao liên rất thông minh.  Một hôm cô dẫn một đoàn khách sắp sửa qua sông, cô để  khách dừng lại   ngoài ruộng xa. Cô và một anh giao liên nữa tiến trước dọn đường. Đến vườn cây   bờ sông, cô thấy mình đã lọt vào ổ phục kích của địch. Nhưng cô không bối rối. Cô   vừa gọi người bạn của mình vừa nói, cô cố ý nói lớn cho bọn địch nghe: "Tình hình   yên, không có gì, anh trở  lại dẫn khách đi, còn tôi sang sông lắc xuồng đem qua".   Trong câu nói ấy có ám hiệu. Anh giao liên liền quay lại, êm ái đưa khách bọc qua   ngả  khác, vượt sông cách đó độ  một vài cây số. Còn cô ta, trước khi qua sông cô   còn gài lại hai trái lựu đạn. Cô qua sông, thế là thoát. Còn đám biệt kích kia, bọn   nó tưởng thật, định hốt cả  một đoàn khách, nên chẳng dám rục rịch, mà cứ  chờ.   Chờ  mãi, bọn nó biết, nó chửi rủa nhau, trong lúc lục đục kéo về  lớ  quớ  thế  nào   lại vấp cả hai quả lựu đạn gài, rụng hết mấy mạng. Qua chuyện đó, người ta thêm   thắt rằng cô giao liên ấy có cái mũi rất thính, cô dùng mũi để  nghe mùi địch và có   thể phân biệt được thằng nào là Mỹ, thằng nào là ngụy nữa. ­ Học sinh hoạt động toàn lớp để  tranh luận về  vấn đề    dưới sự  quan sát, định   hướng của giáo viên. * Bước 3. Báo cáo kết quả ­ HS trình bày cảm nhận riêng về cô giao liên. 
  13. * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức ­ Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn   dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài.  Cuộc gặp gỡ  với cô giao liên gan dạ, dũng cảm  ấy là khơi nguồn kí ức về  tình cảm cha con ông Sáu – bé Thu trong hoàn cảnh chiến tranh éo le và khắc   nghiệt mà hôm nay cô trò chúng ta cùng tìm hiểu. Giải pháp 2: Tổ chức trò chơi            a. Yêu cầu. ­ Giáo viên: Đọc và tìm hiểu nội dung bài học để  lựa chọn trò chơi cho phù  hợp với tiết dạy. Hướng dẫn thể lệ, cách thực hiện trò chơi (tuỳ  thuộc vào từng   trò chơi để đưa ra luật chơi).    ­ Học sinh: Nắm chắc thể  lệ  trò chơi do giáo viên đưa ra để  tuân thủ  thực  hiện một cách nghiêm ngặt và đúng quy tắc. Nếu là trò chơi mang tính chất tập   thể thì đòi hỏi mỗi thành viên phải có tinh thần trách nhiệm và ý thức cao khi tham   gia chơi.            b. Ví dụ:  Văn bản  Làng (Ngữ Văn 9, Tập 1) a. Mục tiêu: Giúp học sinh nhớ lại các kiến thức đã có về  ca dao và tục ngữ  Việt  Nam; những bài thơ tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới. b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: nhóm.  c. Phương tiện: Phiếu học tập.  d. Tiến trình hoạt động:  * Bước 1. Giao nhiệm vụ
  14. ­ Tổ  chức trò chơi: Chia lớp thành 3 đội yêu cầu mỗi đội trong vòng 5 phút tìm  những câu tục ngữ hoặc ca dao, hoặc những bài thơ có từ “làng”. Đội nào tìm được   nhiều câu thì đội đó thắng. * Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ ­ Học sinh hoạt động nhóm để  trả  lời câu hỏi dưới sự  quan sát, định hướng của   giáo viên.  * Bước 3. Báo cáo kết quả  ­ GV chia bảng làm 3 phần, mời đại diện của các nhóm  ở  mỗi dãy lên ghi trên  bảng như: ­ “Làng tôi có lũy tre xanh Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng Bên bờ vải nhãn hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng”                                             (Ca dao) ­ “Làng ta ở tận làng ta Mấy năm một bận con xa về làng Gốc cây, hòn đá cũ càng, Trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay Cha ta cầm cuốc trên tay, Nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa Lưng trần bạc nắng thâm mưa Bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì”                                               (Về làng, Nguyễn Duy) “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
  15. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió” (Quê hương, Tế Hanh) Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay…   (Hạt gạo làng ta, Trần Đăng Khoa) * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức  ­ Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn   dắt tạo nên tình huống có vấn đề  để  định hướng vào bài. Hình  ảnh làng quê với   cây đa, bến nước, sân đình …  gắn bó sâu nặng với bao người. Tình yêu đối với   làng quê càng chân thực và sâu nặng hơn khi đặt người dân vào những tình huống  éo le. Đó chính là sức hấp dẫn của truyện ngắn “Làng” Giải pháp 3:  Hoạt động trai nghiêm, liên h ̉ ̣ ệ thực tế           a. Yêu cầu
  16. Kết hợp thực tế có nghĩa là kết hợp thực tế  giữa học sinh ­ giáo viên ­ phụ  huynh, là kết hợp giữa thực tế  học tập ­ cuộc sống ­ xã hội. Kết hợp thực tế  sẽ  giúp cho hoạt động dạy học thân thiết hơn, gần gũi và khoáng đạt hơn. Dùng   phương pháp này chỉ là cái “cớ” để  dẫn vào bài học, vừa làm phong phú nội dung  dạy học, vừa phát huy tính tích cực ở học sinh và tính chỉ dẫn của người dạy.            b. Ví dụ: Văn bản Làng (Ngữ Văn 9, Tập 1) a. Mục tiêu: Giúp học sinh từ  trải nghiệm thực tiễn của bản thân trong đời sống;   vận dụng kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài   học mới.  b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: liên hệ thực tiễn đời sống.   c. Phương tiện: Màn hình ti vi d. Tiến trình hoạt động * Bước 1. Giao nhiệm vụ Nếu được “khoe” làng quê của mình đang sống, em sẽ “khoe” với mọi người   điều gì? * Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ  ­ Học sinh hoạt động cá nhân để trả lời câu hỏi dưới sự quan sát, định hướng của   giáo viên.  * Bước 3. Báo cáo kết quả  ­ HS trình bày sự liên hệ của bản thân mình với tình cảm với làng quê.  * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức ­ Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn   dắt. 
  17. Mỗi chúng ta ai cũng có một tình yêu đối với làng quê của mình bằng tình  cảm nhớ nhung da diết, bằng sự gắn bó thiết tha đối với quê nhà. Đối với người  nông dân chất phác thì tình cảm với làng quê, thôn xóm là tình cảm tự  trong tim,  ngấm sâu vào máu thịt. Đó là nỗi nhớ da diết của một con người cả đời gắn bỏ sâu  nặng với mảnh đất nơi mình sinh ra, lớn lên. Cái làng đã trở thành nguồn vui sống  của họ. Chính vì thế, bên cạnh hình  ảnh những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên  mặt trận chống Pháp còn có những con người hi sinh lặng thầm nơi hậu phương   đế góp phần vào thắng lơi của kháng chiến. Đó là những người nông dân có lòng  yêu nước thiết tha, bình dị, sâu sắc mà các em sẽ  được tìm hiểu qua truyện ngắn  “Làng” của Kim Lân.  Giải pháp 4: Nêu câu hỏi            a. Yêu cầu Nêu câu hỏi có hai loại: Loại câu hỏi thiết vấn (thiết lập câu hỏi để  tự  trả  lời)  và loại câu hỏi đề vấn (nêu câu hỏi để học sinh trả lời). Nội dung câu hỏi có   thể nêu ra từ  những mặt khác nhau, góc độ  khác nhau nhưng chỉ  cần phù hợp với   nội dung bài học là được. Đây là phương pháp khởi động đơn giản được sử  dụng   rất phổ biến trong quá trình giảng dạy.            b. Ví dụ: Văn bản Lặng lẽ Sa Pa (Ngữ Văn 9, tập 1) a. Mục tiêu: Giúp học sinh vận dụng kiến thức để  trả  lời câu hỏi do GV gợi mở;  Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung kiến thức bài học mới cho học  sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới. b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: hoạt động cá nhân.  c. Phương tiện: Màn hình ti vi.  d. Tiến trình hoạt động * Bước 1. Giao nhiệm vụ
  18. ­ GV:  Em đã từng có dịp nào đến Sa Pa chưa? Em biết gì về Sa Pa?  * Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ ­ Học sinh hoạt động cá nhân để trả lời câu hỏi dưới sự quan sát, định hướng của   giáo viên.  * Bước 3. Báo cáo kết quả  ­ HS trình bày hiểu biết qua việc trả lời câu hỏi  * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức: Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ  phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng   vào bài.  Giáo viên thiết vấn: Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ  của Sa Pa, những vẻ đẹp huyền ảo. Sa Pa, nơi mà nhắc đến tên, người ta đã nghĩ   đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo lắng cho đất nước. Họ  là những con người như thế nào?               Học sinh mang theo thắc mắc vào học tập, phân tích, tìm hiểu những thắc   mắc để tìm đến lẽ phải có tính mục đích rõ ràng khiến cho kiến thức vững vàng và   khắc sâu ở các em hơn. Tuy nhiên, khi giáo viên nêu câu hỏi cần lưu ý đó là những   kiến thức quen thuộc với học sinh, đáp án đưa ra là duy nhất. Có như thế  khi giải  đáp thắc mắc sẽ có tính nhất quán và mục đích dẫn tới bài học sẽ hoàn hảo.            Giải pháp 5: Sử dụng hình ảnh trực quan
  19.             Sử dụng đồ dùng trực quan trong tổ chức dạy học phần khởi động chủ yếu   là tranh ảnh và những đoạn phim tư liệu.    (1). Sử dụng tranh ảnh minh họa             a. Yêu cầu   Sử dụng tranh ảnh minh họa là phương pháp khá phổ biến trong giảng dạy   các môn khoa học tự  nhiên và các môn Địa lí, Sinh học, Lịch sử,…Còn dạy học   Ngữ Văn thì dựa vào văn bản là chủ yếu, hiếm khi sử dụng vật mẫu hay tranh ảnh   minh họa. Vì thế, khi sử sụng tranh ảnh minh họa học sinh sẽ có được những cảm   nhận mới mẻ  khi tiếp cận văn bản. Đây là một biện pháp hỗ  trợ  dạy học không  thể thiếu trong giảng dạy nói chung. Biện pháp này có thể  thay cho khởi động để  tạo cảm giác chân thực, tăng thêm tính rõ ràng, tính sinh động khi thuyết giảng.             b. Ví dụ: Văn bản Lặng lẽ Sa Pa  (Ngữ Văn 9, tập 1). a. Mục tiêu: Giúp học sinh vận dụng kiến thức để  trả  lời câu hỏi do GV gợi mở;  Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung kiến thức bài học mới cho học  sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới.  b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: hoạt động cá nhân.  c. Phương tiện: Màn hình ti vi.  d. Tiến trình hoạt động * Bước 1. Giao nhiệm vụ  ­ GV: yêu cầu HS quan sát những bức tranh sau trên màn hình. Quan sát các bức   tranh, em nào cho cô biết hình ảnh trên gợi cho em những ấn tượng gì?
  20. Ngũ Chỉ Sơn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2