intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn lịch sử

Chia sẻ: Bobietbo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

40
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là nhằm giúp cho học sinh yêu thích môn lịch sử, nâng cao khả năng nắm bắt kiến thức về các sự kiện lịch sử. Từ đó góp phần phát triển óc tư duy sáng tạo, đồng thời nâng cao chất lượng dạy học bộ môn ở cả hai mặt: Kiến thức và kĩ năng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn lịch sử

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH TRƯỜNG THCS NHÂN THẮNG ----------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP CƠ SỞ TÊN SÁNG KIẾN: SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC MÔN LỊCH SỬ Tác giả sáng kiến: Lê Kim Liên Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: trường THCS Nhân Thắng Tháng 3 năm 2018
  2. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Cấp cơ sở đơn vị: Trường THCS Nhân Thắng Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp ngành 1. Tên sáng kiến: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn lịch sử”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Bộ môn lịch sử cấp trung học cơ sở.( Cụ thể ở khối 8,9) 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Lê Kim Liên. - Cơ quan,đơn vị: Trường trung học cơ sở Nhân Thắng- Gia Bình- Bắc Ninh. - Địa chỉ: Nhân Thắng- Gia Bình- Bắc Ninh. - Điện thoại: 01656974622 - Email: lekimlienc2ntgb@bacninh.edu.vn 4. Đồng tác giả sáng kiến: Không 5. Chủ đầu tư sáng kiến: Không 6. Các tài liệu kèm theo: 6.1. Thuyết minh mô tả giải pháp và kết quả thực hiện sáng kiến. 6.2 Biên bản họp hội đồng sáng kiến cấp cơ sở. Nhân Thắng, ngày 22 tháng 3 năm 2018 Tác giả sáng kiến: Lê Kim Liên
  3. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do -Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn lịch sử ”. 2. Thời gian sáng kiến được áp dụng lần đầu: Từ tháng 8 năm 2017 3. Các thông tin cần bảo mật: Không 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm: Giáo viên thường giảng dạy theo phương pháp truyền thống đó là chủ yếu sử dụng kiến thức lịch sử đã được viết trong sách giáo khoa để truyền thụ cho học sinh qua cách thầy đọc- trò chép mà ít quan tâm đến việc tư duy các hình thức giúp học sinh có thể nắm bắt kiến thức ngay trên lớp và ghi nhớ một cách lâu dài các sự kiện lịch sử đã học. Vì vậy mà học sinh thường học bài một cách thụ động và thuộc bài theo kiểu “học vẹt” “ học trước, quên sau” 5. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn lịch sử” sẽ góp phần quan trọng trong việc phát huy tính tích cực, chủ động học tập bộ môn cho học sinh, giúp các em nắm bắt kiến thức một cách có hệ thống, nhanh và nhớ lâu. Từ đó mà các em yêu thích môn học hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung. 6. Mục đích của sáng kiến: Nhằm giúp cho học sinh yêu thích môn lịch sử, nâng cao khả năng nắm bắt kiến thức về các sự kiện lịch sử. Từ đó góp phần phát triển óc tư duy sáng tạo, đồng thời nâng cao chất lượng dạy học bộ môn ở cả hai mặt: Kiến thức và kĩ năng.
  4. 7. Nội dung: 7.1.Thuyết minh giải pháp mới: “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học lịch sử: Giáo viên thông qua việc vẽ các sơ đồ tư duy hoặc hướng dẫn học sinh tự vẽ sơ đồ tư duy theo ý thích cá nhân để tóm lược nội dung các bài học, các sự kiện lịch sử giúp các em nắm bắt kiến thức, hiểu kiến thức và nhớ kiến thức một cách hiệu quả nhất. * Kết quả của sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng đối với 164 học sinh khối 8,9 năm học 2017-2018 trường trung học cơ sở Nhân Thắng qua bài kiểm khảo sát trắc nghiệm nắm về kiến thức lịch sử đạt được kết quả như sau: Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Tổng số HS SL % SL % SL % SL % SL % 164 71 43,3 51 31,1 37 22,6 5 3.0 0 0 7.2. Thuyết minh áp dụng sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng ở khối 8,9 trường trung học cơ sở Nhân Thắng và đạt được kết quả khả quan. Đa số học sinh yêu thích môn lịch sử và thể hiện hứng thú học tập bộ môn một cách rất rõ ràng. Đồng thời, qua các giờ học lịch sử, học sinh cũng phát triển thêm về các kĩ năng cơ bản như phân tích, trình bày vấn đề trước đám đông…, đó là cơ sở để học sinh vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. 7.3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến: Vận dụng sáng kiến này trong việc dạy học môn lịch sử giúp cho học sinh dễ hiểu, dễ nắm bắt các sự kiện lịch sử một cách có hệ thống, có chiều sâu, các em tiết kiệm được thời gian và công sức của kiểu học “vẹt” trước đây. Đồng thời, việc áp dụng sáng kiến sẽ góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển khả năng tư duy, sáng tạo cho học sinh và cũng rất thuận lợi cho giáo viên trong việc rèn cho học sinh một số kĩ năng cần thiết trong quá trình học tập.
  5. * Cam kết: Tôi xin cam đoan những điều khai trên đây là đúng sự thật và không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. Xác nhận của cơ quan Tác giả sáng kiến Lê Kim Liên Mục lục Nội dung Trang Phần 1 . MỞ ĐẦU 1 1. Mục đích của sáng kiến. 1 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến. 2 3. Đóng góp của sáng kiến. 2 Phần 2: NỘI DUNG 3 Chương I: Thực trạng việc giảng dạy bộ môn lịch sử ở nhà trường 3 hiện nay. Chương II: Những giải pháp đã được áp dụng. 4 1. Để vận dụng có hiệu quả, trước hết giáo viên phải hiểu được cơ sở 4 khoa học, mục đích của phương pháp dạy học lịch sử theo bản đồ tư duy. 2. Phải nắm được các bước thực hiện khi sử dụng bản đồ tư duy trong dạy- học lịch sử. 6
  6. 3. Ứng dụng dạy học bằng bản đồ tư duy trong một số bài học lịch sử ở lớp 8 và lớp 9. 7 3.1. Sử dụng bản đồ tư duy trong việc kiểm tra bài cũ. 7 3.2 Sử dụng bản đồ tư duy trong việc giảng bài mới. 9 3.3 Sử dụng bản đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học. 11 3.4 Sử dụng bản đồ tư duy để ra bài tập về nhà. 13 3.5. Sử dụng bản đồ tư duy hỗ trợ cho tiết tổng kết ôn tập kiến thức. 14 Chương III: Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của sáng kiến. 15 Phần 3: KẾT LUẬN 16 1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến. 16 2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến nếu được triển khai. 16 3. Kiến nghị với các cấp quản lý. 17 Phần 4: Phụ lục 18
  7. Phần 1 . MỞ ĐẦU 1. Mục đích của sáng kiến: Lịch sử là một môn học đặc thù với những chuỗi sự kiện, diễn biến đã diễn ra trong quá khứ. Vì vậy, nhiệm vụ của việc dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Đây là môn học yêu cầu người học phải “Biết sự kiện - Hiểu sự kiện - Nhớ sự kiện”, từ đó có sự phân tích, tư duy lôgic, khái quát, và đánh giá sự kiện. Hiện nay, các đồ dùng dạy học, trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy ngày càng đầy đủ, hiện đại. Tuy nhiên, nó cũng chưa đủ sức để hoàn toàn nâng cao chất lượng cho việc giảng dạy bộ môn lịch sử. Trong việc khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động thì phương tiện trực quan là một yếu tố hết sức cần thiết. Do đó, bên cạnh ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các đồ dùng dạy học vào giảng dạy thì việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học là một trong những phương pháp quan trọng nhằm phát huy tính tích cực và khả năng tư duy của học sinh. Bản đồ tư duy (Mindmap) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng bản đồ tư duy theo một cách riêng, do đó việc lập bản đồ tư duy sẽ phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. Có thể vận dụng bản đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì... giúp cho học sinh ghi nhớ kiến thức một cách dễ dàng nhất.
  8. Bản đồ tư duy mang lại hiệu quả tốt cho quá trình dạy và học , giáo viên tiết kiệm được thời gian, tăng tính linh hoạt, học sinh tăng tính chủ động sáng tạo, phát triển tư duy... Trước thực tiễn và những tác dụng đó, tôi hy vọng sáng kiến “Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn lịch sử” của mình sẽ tiếp tục góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử trong các nhà trường. 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến: * Sáng kiến với các giải pháp được trình bày có những điểm khác, mới so với giải pháp cũ trước đây ở chỗ: Mục đích của việc dạy học lịch sử ở trường trước đây chỉ dừng lại ở chỗ người giáo viên giúp cho học sinh biết về các vấn đề lịch sử và ép các em ghi nhớ theo kiêu học vẹt. Nhưng với những giải pháp đưa ra trong sáng kiến này, thông qua các bài học lịch sử, người giáo viên sẽ giúp cho học sinh không những biết, hiểu mà còn ghi nhớ một cách sâu sắc, có hệ thống các vấn đề lịch sử . Đồng thời rèn cho các em thêm nhiều kĩ năng giúp cho quá trình học tập đạt hiệu quả hơn. * Sáng kiến được áp dụng lần đầu thực tiễn tại trường trung học cơ sở Nhân Thắng vào năm học 2017-2018. Ưu điểm nổi bật của sáng kiến là: Sáng kiến đặt ra được vấn đề cấp thiết mà nghành giáo dục đang quan tâm giaỉ quyết. Đó là cần có biện pháp để giúp học sinh yêu thích môn lịch sử và nâng cao chất lượng của việc dạy và học bộ môn lịch sử trong các nhà trường. Đồng thời thông qua các bài học cần rèn cho học sinh những kĩ năng cần thiết để ứng dụng vào thực tiễn. 3. Đóng góp của sáng kiến: Sáng kiến sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy- học môn lịch sử ở trường trung học cơ sở Nhân Thắng nói riêng và có thể áp dụng rộng rãi ở các trường trung học cơ sở nói chung trong toàn ngành ở cả ba mặt: kiến thức và kĩ năng. Về kiến thức: Học sinh sẽ nắm chắc, sâu hơn những kiến thức lịch sử được học.
  9. Về kĩ năng: Hình thành cho học sinh những kĩ năng cơ bản như đọc, hiểu, vẽ sơ đồ tư duy, phân tích, trình bày vấn đề trước đám đông… theo cách riêng của mình và có thể ứng dụng vào việc học các môn học khác.. Phần 2: NỘI DUNG Chương 1: Thực trạng việc giảng dạy bộ môn lịch sử ở nhà trường hiện nay: Như chúng ta đã biết mục tiêu của giáo dục chính là đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng nhu cầu của đất nước theo từng giai đoạn phát triển. Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay thế hệ trẻ cần phải được đào tạo để phát triển một cách toàn diện. Nhưng trên thực tế, nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy một điều rất rõ ràng rằng xã hội, gia đình và bản thân ngành giáo dục còn chú trọng hơn một số môn học nào đó thôi chứ chưa quan tâm đều tới tất cả các bộ môn. Giáo dục tư tưởng, kĩ năng cho học sinh ( giáo dục về truyền thống, về cội nguồn dân tộc, về lòng yêu nước…. ) qua môn lịch sử là vô cùng cần thiết và rất thuận lợi. Tuy nhiên, qua nắm bắt tình hình và trao đổi với đồng nghiệp về việc giảng dạy môn lịch sử ở trường trung học cơ sở trong huyện bản thân tôi nhận thấy bộ môn này chưa thực sự được coi trọng: a. Về phía giáo viên: Những giáo viên chuyên lịch sử, biết kết hợp nhiều phương pháp để truyền đạt kiến thức cho học sinh, biến những khái niệm thành những kỹ năng cho các em. Tuy nhiên vì môn học chưa thực sự được coi trọng đúng với vai trò của nó nên giáo viên cũng chưa thực sự đầu tư nhiều hoặc đầu tư chưa thường xuyên. Đối với những giáo viên kiêm nhiệm hai phân môn như: Văn- sử; địa- sử …thì việc đầu tư cho bộ môn lịch sử càng hạn chế dẫn đến bài giảng khô khan, đơn điệu, qua loa. Khi giảng dạy một tiết có liên quan đến bản đồ tư duy rất đơn giản, chỉ cần lấy sẵn một tiết nào đó có ở mạng Internet và chỉnh sửa đôi chút là được và trong giáo án thì không thể hiện rõ từng bước tiến
  10. hành sử dụng bản đồ tư duy như thế nào, thông qua bản đồ tư duy thì giáo viên chưa hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách thiết kế và sử dụng nắm bắt kiến thức ở bản đồ tư duy ra sao. Bên cạnh đó một số giáo viên chưa thật sự chú trọng và còn tẻ nhạt với phương pháp dạy học này. Hơn nữa chương trình lịch sử quá rộng, kiến thức nhiều mà giáo viên chưa rút gọn những gì cần truyền đạt, những gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề nào cần hướng dẫn cho học sinh. b. Về phía học sinh: Đa số các em học sinh chỉ coi môn lịch sử là môn học phụ vì vậy mà các em ít quan tâm đầu tư cho môn học này. Mục đích học tập của các em đơn thuần chỉ là có điểm số mà thôi. Các em chưa thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng thực sự của môn học đối với sự hình thành và phát triển nhân cách,và kĩ năng của mình. Các em chưa tự giác học tập, ít tham khảo sách vở, mải chơi. Các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu không được giao nhiệm vụ cụ thể. Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị đồ dùng học tập như giấy A4, bút màu, bút chì, tẩy hoặc bảng phụ trong tiết học lịch sử mà chỉ dùng trong tiết học Mỹ thuật. Mặt khác, học sinh chưa hiểu rõ cách thể hiện nội dung, kiến thức như thế nào trong việc thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy. Hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo mà chỉ quen nghe, quen ghi chép những gì mà giáo viên nói. Cụ thể qua điều tra thực tế học sinh các lớp 8,9 các năm trước tôi thấy ý thức học tập bộ môn lịch sử chưa cao và kết quả cụ thể qua khảo sát chất lượng thu được như sau: Tốt, Khá: 30 %; Trung bình: 45%; yếu kém 25% Qua số liệu trên tôi nhận thấy rằng, tỉ lệ học sinh yếu kém vẫn còn nhiều. Khi các em còn chưa thích học môn lịch sử thì làm sao các em có thể vận dụng nó vào thực tiễn cuộc sống để rèn luyện phẩm chất, nhân cách và những kĩ năng cần thiết cho mình?
  11. Chương 2: Những giải pháp đã được áp dụng: Qua tìm hiểu thực trạng dạy học môn giáo lịch sử ở trường trung học cơ sở nói chung và trường trung học cơ sở Nhân Thắng nói riêng, bản thân tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử người giáo viên phải vận dụng các giải pháp để sử dụng bản đồ tư duytrong dạy và học môn lịch sử như sau: 1. Để vận dụng có hiệu quả, trước hết giáo viên phải hiểu được cơ sở khoa học, mục đích của phương pháp dạy học lịch sử theo bản đồ tư duy: * Về cơ sở khoa học: Bản đồ tư duy còn goị là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Cơ chế hoạt động của bản đồ tư duy là chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Bản đồ tư duy là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng bản đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương và giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu, nhớ sâu. * Về mục đích: Bản đồ tư duy rèn phương pháp học cho học sinh: Việc rèn luyện phương pháp học cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là đối với những môn học thuộc như lịch sử, vì các em thường học theo kiểu “ Học vẹt” học trước quên sau. Sử dụng thành thạo bản đồ tư duy trong dạy học, học sinh sẽ rèn được phương pháp học tích cực, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển được tư duy. + Giúp học sinh học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình, vì vậy việc sử
  12. dụng bản đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa sự tư duy và sáng tạo của học mình, từ đó nhớ bài lâu và hiểu bài sâu. + Học sinh tự vẽ bản đồ tư duy có ưu điểm: Phát huy tối đa tính sáng tạo, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của mình, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi bản đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. + Bản đồ tư duy - phương pháp dạy học bằng cách sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết, với sự tư duy tích cực không chỉ tạo hứng thú trong học tập của học sinh mà còn góp phần đổi mới và làm phong phú các phương pháp dạy học tích cực cho người thầy. +. Dạy học bằng bản đồ tư duy giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác những nội dung bài học. Dạy học bằng phương pháp bản đồ tư duy giúp các em không thấy nhàm chán vì bài học dài dòng mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. + Dạy học bằng bản đồ tư duy sẽ nâng cao hiệu quả trong việc củng cố kiến thức, rèn các kỹ năng và phát triển tư duy lôgíc cho học sinh. Với chủ trương giảm tải, dạy bằng bản đồ tư duy sẽ làm cho cô và trò không bị mất thời gian vào các chi tiết vụn vặn, trùng lặp mà tập trung thảo luận sâu và phát triển vấn đề cốt lõi của bài. + Dạy học bằng bản đồ tư duy còn có tác dụng phân loại đối tượng học sinh. Từ đó, giáo viên định hướng được sự đầu tư kiến thức, phương pháp bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng học sinh hơn. Dạy học bằng bản đồ tư duy có thể áp dụng được ở tất cả các trường học ngay cả những trường cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đầy đủ. 2. Phải nắm được các bước thực hiện khi sử dụng bản đồ tư duy trong dạy- học lịch sử: Dựa vào nguyên tắc dạy học và tác dụng của bản đồ tư duy chúng ta áp dụng dạy được ở nhiều dạng bài: Bài mới, ôn tập, hệ thống chương hoặc giai đoạn,
  13. làm bài tập lịch sử, đặc biệt là củng cố bài. Giáo viên hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể, dựa trên cơ sở nguyên lý của bản đồ tư duy hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy: ( Nội dung chìa khóa là cây cành nhánh) từ đó học sinh mở rộng, phát triển thêm). Thực hiện dạy học bằng cách lập bản đồ tư duy được tóm tắt qua 4 bước như sau: - Bước 1: Học sinh lập bản đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên. - Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. - Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện bản đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh bản đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. - Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một bản đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một bản đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
  14. 3. Ứng dụng dạy học bằng bản đồ tư duy trong một số bài học lịch sử ở lớp 8 và lớp 9: 3.1. Sử dụng bản đồ tư duy trong việc kiểm tra bài cũ Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5-7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh để trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh roi vào tình trạng “học vẹt”, đọc thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó, cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng bản đồ tư duy vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ thường được giáo viên sử dụng ở dạng thiếu thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ: Trước khi dạy học bài 6: Các nước Châu Phi (lịch sử 9), giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện bản đồ tư duy về sự ra đời và quá trình phát triển thành viên của tổ chức ASEAN(mục II, III bài 5 Các nước Đông Nam Á)
  15. Hoặc trước khi dạy bài 15: Phong trào cách mạng Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất 1919-1925 (lịch sử 9), giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện bản đồ tư duy- bài 14: Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất (mục III).
  16. Sau khi học sinh đã hoàn thiện bản đồ, học sinh cần rút ra nhận xét về hoàn cảnh ra đời, mục tiêu hoạt động, sự phát triền thành viên của tổ chức ASEAN và nói rõ thái độ chính trị và khả năng cách mạng của từng gia cấp, tầng lớp xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hay nói cách khác là nhận xét về mối quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ chìa khóa trung tâm. Đây chính là phần hiểu bài của học sinh mà giáo viên cần căn cứ vào đó để đánh giá, cho điểm. 3.2 Sử dụng bản đồ tư duy trong việc giảng bài mới. + Khi dạy bài “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”- Lớp 9. Đặc điểm của bài này là học sinh đã nắm được những sự kiện, diễn biến và khí thế của phong trào cách mạng nước ta trước đó, nắm được những bước phát triển của cách mạng Việt Nam và điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa. Biết những hình ảnh, tư liệu về cách mạng tháng Tám năm 1945. Vì vậy khi dạy bài này chúng ta hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm thiết lập bản đồ tư duy với “chìa khóa” là “Tổng khởi nghĩa tháng tám và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Từ đó xậy dựng kiến thức của từng nội dung lớn, nhỏ (Cây  cành  nhánh) việc làm này giúp học sinh tư duy lựa chọn kiến thức để lập và phát triển thêm. Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ,
  17. dựa vào nội dung trong sách giáo khoa, bản đồ trong sách giáo khoa, bản đồ treo tường để hoàn thành bài tập. Cuối cùng, giáo viên cùng học sinh hoàn thiện được một bản đồ tư duy kiến thức theo ý muốn của mình, kết quả có thể như sau: + Với các bước tương tự, ví dụ : Khi dạy về cuộc khởi nghĩa Hương Khê ( Lịch sử 8). Sau khi vẽ bản đồ tư duy, giáo viên cho học sinh trình bày diễn biến, kết quả theo bản đồ, qua đó, các em nắm được trình tự và liên kết các sự kiện với nhau.
  18. + Có thể sử dụng bản đồ tư duy để trình bày từng phần nội dung bài học: Ví dụ : Khi dạy Lịch sử 8: Bài 29: Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân pháp và những chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam. Giáo viên có thể sử dụng bản đồ tư duy để trình bày về xuất thân, cuộc sống, thái độ của từng giai cấp, tầng lớp mới đối với cách mạng giải phóng dân tộc: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm học sinh để vẽ sơ đồ tư duy về 3 giai cấp tấng lớp mới như sau: 3.3 Sử dụng bản đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học: Phù hợp việc củng cố kiến thức cho học sinh sau bài học thì dạng bài tập thích hợp là cho học sinh tự thiết kế cho mình một bản đồ theo ý muốn sáng tạo của mình với màu sắc tùy ý, có thể bản đồ thiếu nội dung kiến thức cụ thể hoặc đầy đủ lượng kiến thức của bài học như vừa tiếp thu trong bài học, hoạt động cá nhân hoặc nhóm. Tuy nhiên, các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học.
  19. Ví dụ: Khi dạy bài 11: Trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (lịch sử 9), sau khi học sinh đã tự thiết kế cho mình một bản đồ tư duy, thì giáo viên có thể so sánh, đối chiếu, nhận xét đánh giá bài của học sinh với bản đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn. Lưu ý chỉ đánh giá, nhận xét về kiến thức được thể hiện ở bản đồ chứ không tập trung đánh giá, nhận xét về màu sắc, hình vẽ. Có thể tham khảo bản đồ tư duy ở bài 11 như sau. Hoặc khi dạy sử 8- Bài 20: Phong trào độc lập dân tộc ở châu Á (1918- 1939). Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy để củng cố kiến thức toàn bài như sau:
  20. Qua việc củng cố nội dung bài học theo hình thức này học sinh sẽ nhỡ lâu, nhớ kỹ nội dung bài học và phát huy được tính sáng tạo, tư duy của mình, giúp các em yêu thích môn lịch sử hơn. 3.4 Sử dụng bản đồ tư duy để ra bài tập về nhà: Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm hiểu tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh hoặc nhóm học sinh trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép(trình độ học sinh, thời gian, kinh tế). Yêu cầu đối với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn(cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh. Ví dụ: Để dạy tốt bài 26: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp(1950-1953) (lịch sử 9) giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm hiểu nội dung của bài học theo các câu hỏi cuối mỗi mục trong bài, và yêu cầu các em thể hiện những hiểu biết của mình về hoàn cảnh, âm mưu của Pháp, chủ trương của ta, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của chiến dịch Biên giới năm 1950 trên sơ đồ tư duy . Sau đó đến lúc dạy bài mới giáo viên cho học sinh đối chiếu so sánh nội dung đã chuẩn bị ở nhà xem đúng không, đầy đủ chưa, đồng thời giáo viên phải chuẩn bị một bản đồ tư duy có đầy đủ nội dung kiến thức của bài học này để giới thiệu và nhấn mạnh kiến thức cho học sinh nắm chắc, nhớ sâu bài học:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2