intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Vận dụng phương pháp dạy học liên môn để giảng dạy về văn hóa cổ đại Lịch sử lớp 6

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

73
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là sưu tầm, tập hợp tư liệu liên quan đến đề tài văn hóa cổ đại phương Đông và phương Tây, qua đó thấy được sự vận dụng những nội dung của các môn học liên quan để nhằm tăng thêm hiệu quả giảng dạy về đề tài này. Việc đề cập đến những nội dung kiến thức, khái niệm chung hoặc giao thoa giữa các môn học giúp các bộ môn bổ sung kiến thức cho nhau, làm sáng tỏ hơn những kiến thức học sinh được học trong mỗi bộ môn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Vận dụng phương pháp dạy học liên môn để giảng dạy về văn hóa cổ đại Lịch sử lớp 6

  1. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LIÊN MÔN ĐỂ  GIẢNG DẠY VỀ VĂN HÓA CỔ ĐẠI  LỊCH SỬ LỚP 6      I. PHẦN MỞ ĐẦU Môn lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết   về lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người.  Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học lịch sử  trong nhà trường phổ  thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan   với nhiều sự kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn   hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được sự hứng   thú học sử đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm được  mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức  liên môn. Mặt thuận lợi của việc dạy học hiện nay là sự  tiến bộ  của khoa học kỹ  thuật nhân loại, đặc biệt là công nghệ  thông tin giúp mở  rộng tầm nhìn của con   người về  tri thức; chính sách  ưu tiên phát triển giáo dục của nhà nước ta, đầu tư  cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy.  Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho   giáo viên lịch sử nhiệm vụ: Làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử,  kích thích sự  hứng thú học sử  cho học sinh. Để  hoàn thành nhiệm vụ  này đòi hỏi  giáo viên dạy sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn lịch sử mà còn phải  có những hiểu biết vững chắc về  các bộ  môn Địa lý, Văn học, nghệ  thuật, khoa  học…để  vận dụng vào bài giảng lịch sử  làm phong phú và hấp dẫn thêm bài   giảng. Từ  thực trạng của vấn đề  trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số  phương pháp  "Vận dụng phương pháp dạy học liên môn để  giảng dạy về  văn hóa cổ  đại Lịch   sử lớp 6 " để nhằm trao đổi với đồng nghiệp về việc vận dụng phương pháp trên 
  2. để giải quyết một vấn đề  lịch sử  cụ  thể. Qua phương pháp này, giáo viên có thể  áp dụng cho các vấn đề lịch sử khác trong chương trình lịch sử phổ thông. I.1. Mục đích của phương pháp: Sưu tầm, tập hợp tư liệu liên quan đến đề tài văn hóa cổ đại phương Đông và  phương Tây, qua đó thấy được sự vận dụng những nội dung của các môn học liên  quan để  nhằm tăng thêm hiệu quả  giảng dạy về  đề  tài này. Việc đề  cập đến  những nội dung kiến thức, khái niệm chung hoặc giao thoa giữa các môn học giúp  các bộ môn bổ sung kiến thức cho nhau, làm sáng tỏ hơn những kiến thức học sinh   được học trong mỗi bộ môn. I.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Để   thực   hiện   phương   pháp   này,   tôi   chọn   3   lớp   khối   6   làm   thí   điểm  (6A,6B,6C). ­ Số lượng học sinh: 89 ­ Đặc điểm của học sinh: Học sinh có đặc điểm chung đều là các em theo học   các môn học tự  nhiên. Việc chọn học sinh sẽ  có những  ưu và nhược điểm nhất  định. Về ưu điểm: Các em đều là lớp khối 6A nên khả năng tư duy, phân tích, đánh   giá vấn đề tương đối tốt. Mặt khác, các em cũng có ý thức học tập, có niềm đam   mê tìm tòi, khám phá. Về  nhược điểm: Học sinh lớp 6B chưa có hiểu biết sâu về  các vấn đề  lịch   sử, một số em còn chưa chú trọng môn học mà tập trung nhiều vào các môn khoa  học tự nhiên. Chính vì vậy, khi chọn đối tương học sinh trên, tôi mong muốn với những đổi  mới của mình trong phương pháp sử dụng kiến thức liên môn sẽ làm tăng hứng thú   cho các em trong việc học tập lịch sử, giúp các em tìm tòi và khám phá, không còn e   ngại với các môn xã hội như Lịch sử. 2.2. Phạm vi nghiên cứu: ­ Mặt thời gian: Từ tháng 7 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017 ­ Mặt không gian: Phạm vi trường THCS – nơi bản thân đang giảng dạy.
  3. 2.3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu: 2.1. Nguồn tư liệu: ­ Từ Internet. ­ Sách báo tham khảo. II.  MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1.  Phương pháp thông tin ­ tái hiện lịch sử: GV trình bày tài liệu mới, nhắc lại những kiến thức đã học có liên quan đến   việc tiếp thu kiến thức mới. GV chủ  yếu trình bày các sự  kiện chính xác, được   quy định trong chương trình nhằm giúp học sinh ghi nhớ thông qua các hoạt động  về  quá trình tâm lí trong nhận thức và trong một số  trường hợp có thể  trình bày  những tài liệu mới. Việc thông tin tái hiện lịch sử  được thực hiện bằng trình bày  miệng với hệ thống dạy học tương  ứng: Tường thuật, miêu tả… và sử  dụng đồ  dùng trực quan. Ví dụ, giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh chữ tượng hình của người Ai  Cập, sau đó nhắc lại kiến thức về chữ viết của các quốc gia cổ đại phương Đông.   Sau đó, tiếp tục cho các em quan sát hình  ảnh chữ  của người phenixi và của Rô   Ma, từ đó trình bày về những thành tựu chữ viết của các quốc gia cổ đại phương   Tây. 2.  Phương pháp nhận thức lịch sử: Giáo viên trình bày sự kiện, hiện tượng trong hình thức tổng quát, trong những  mối liên hệ bản chất của nó, giúp học sinh từ biết đến hiểu sâu sắc các sự kiện và   quá trình lịch sử. Phương pháp nhận thức lịch sử  được tiến hành thông qua dạy  học nêu vấn đề, nêu câu hỏi có tính chất bài tập nhận thức. Ví dụ: Sau khi tường thuật và cho các em quan sát các tác phẩm nghệ  thuật  kiến trúc và điêu khắc của các quốc gia cổ  đại phương Tây ­ Hi Lạp và Rô Ma,  giáo viên đặt ra câu hỏi: Các em có nhận xét gì về  đặc điểm nghệ  thuật của các  quốc gia cổ đại phương Tây? 3. Phương pháp tìm tòi nghiên cứu: Phương pháp tìm tòi nghiên cứu được tiến hành thông qua các hình thức từ  thấp đến cao của những công việc học tập như sử dụng sách giáo khoa và tài liệu  
  4. tham khảo để  trả  lời các câu hỏi, hoàn thành bài tập, bước đầu tập dượt nghiên   cứu một vấn đề lịch sử. III. PHẦN KẾT LUẬN. Thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn  những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện   nên chưa tạo được hứng thú học lịch sử  đối với học sinh. Dạy học theo chủ  đề  tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy  học lịch sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát  huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học  tích hợp làm cho người học sử nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên   tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã  hội, khắc phục được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức. Thông qua phương pháp này, học sinh sẽ  được củng cố  thêm hiểu biết của  mình về các lĩnh vực khác bên cạnh sử học. Việc sử dụng kiến thức liên môn sẽ giúp học sinh hiểu được sâu sắc nhất các   vấn đề  lịch sử. Như  khi tìm hiểu về  vị  trí địa lí của các quốc gia cổ  đại phương   Tây, các em có thể hiểu được việc gần biển đã mở  ra một chân trời mới cho các  quốc gia này: Sự giao lưu được mở  rộng, tiếp thu được văn minh cổ  đại phương  Đông thông qua giao lưu buôn bán… Hoặc với việc tìm hiểu cụ  thể  các công trình kiến trúc tiêu biểu: Đền Pác tê  nông, đấu trường Rô Ma…học sinh sẽ thấy được sự hoàn mĩ, sự tinh tế trong văn  hóa Hi Lạp hay nét đồ sộ, hoành tráng mang đặc trưng kiến trúc Rô Ma… Với việc dạy học theo chủ đề tích hợp trên cũng có giá trị thực tiễn trong đời  sống xã hội nhất định. Ví dụ như khi học về cách tính lịch của các quốc gia cổ đại  phương Tây, học sinh sẽ liên hệ được tới cách tính lịch ngày nay của chúng ta về  cơ bản dựa trên cách tính của phương Tây cổ đại, chỉ có sự  thay đổi nhỏ  cho phù  hợp với đời sống sinh hoạt sản xuất ngày nay. Mặt khác, việc áp dụng kiến thức liên môn sẽ làm tăng hứng thú học tập môn   lịch sử cho các em học sinh. Trong những năm gần đây, một thực trạng không thể  phủ  nhận là học sinh đang quay lưng lại với lịch sử. Bởi kiến thức Lịch sử  khô   khan, lối truyền thụ của giáo viên không hấp dẫn sẽ làm các em từ không yêu thích 
  5. tới việc học mang tính chống đối, không hiệu quả. Việc thực hiện đề  tài sẽ  giúp  học sinh có hứng thú hơn với việc tìm hiểu và say mê hơn với môn học này.                                                 GV: Nguyễn Thị Quỳnh Hoa NỘI DUNG 1. Vài nét tổng quan về dạy học liên môn 1.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về dạy học liên môn: 1.1.1. Cơ sở lý luận:  Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học   nói chung và dạy học lịch sử nói riêng ở trường phổ thông. Dạy học liên môn thực   chất là sự vận dụng những nội dung và phương pháp các lĩnh vực, các môn học có  
  6. liên quan để  nhằm làm tăng thêm hiệu quả  dạy học lịch sử. Dạy học liên môn là  cho người học sử  nhận thức được sự  phát triển xã hội một cách liên tục, thống   nhất, thấy được mối liên hệ  hữu cơ  giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu   được tính toàn diện của lịch sử, khắc phục được tính tản mạn trong kiến thức. 1.1.2 Cơ sở thực tiễn: Qua quá trình dạy học, tôi nhận thấy việc tham khảo tài liệu từ  các lĩnh vực  khác có vai trò quan trọng trong việc khôi phục, tái hiện hình ảnh quá khứ. Tài liệu   tham khảo giúp người học khắc phục việc " hiện đại hóa" lịch sử hoặc hư cấu sai   sự kiện. Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu liên môn còn giúp người học có thêm cơ sở  để  nắm vững bản chất sự  kiện, hình thành khái niệm, hiểu rõ quy luật, bài học  lịch sử, rèn luyện cho người học thói quen nghiên cứu khoa học lịch sử.Tài liệu  tham khảo là phương tiện có hiệu quả để giúp giáo viên làm rõ nội dung sách giáo   khoa, kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng  dạy và học lịch sử. 1.2. Một số phương pháp vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn đối với  một số bộ môn cụ thể: 1.2.1. Sử dụng tài liệu văn học: Các tác phẩm văn học từ xưa đến nay, trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử  thế giới, có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trước   hết, các tác phẩm văn học, bằng những hình tượng cụ  thể  có tác động mạnh mẽ  đến tư tưởng, tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng tiêu biểu của các   hiện tượng kinh tế, chính trị, những quy luật của đời sống xã hội. Giữa văn học và  sử học có mối liên hệ khăng khít. Trong khi sáng tác một tiểu thuyết, nhà văn phải   nghiên cứu các tài liệu lịch sử. Không ít tác phẩm văn học, tự nó là một tư liệu lịch   sử, ví như  "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo, "Tuyên ngôn độc lập" của chủ  tịch Hồ  Chí Minh…Thứ  hai, các tác phẩm văn học góp phần quan trọng làm cho  bài giảng sinh động, hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh. Trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông, giáo viên thường sử dụng các  loại tài liệu văn học chủ yếu sau: Văn học dân gian, tiểu thuyết lịch sử… Mỗi loại  có ý nghĩa khoa học riêng trong việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử. Chúng ta 
  7. phải loại bỏ những loại truyện kiếm hiệp, tiểu thuyết võ hiệp xuyên tạc lịch sử,  có ảnh hưởng xấu đến việc hình thành tri thức lịch sử của học sinh. 1.2.2. Sử dụng tư liệu về các tác phẩm nghệ thuật: Hội họa, kiến trúc, sân khấu, điêu khắc…là kết quả  sáng tạo của xã hội loài  người. Một hình  ảnh nghệ  thuật giúp người học sử  dụng trí tưởng tượng của  mình tập trung vào những điểm quan trọng. Trong sách lịch sử bậc THPT, có nhiều  kênh hình thuộc các loại hình nghệ thuật này như là những đồ  dùng trực quan đòi   hỏi giáo viên phải khai thác để tạo biểu tượng cho học sinh. Học sinh tiếp nhận kiến thức lịch sử  qua tranh  ảnh, đồ  dùng trực quan kết   hợp với bài viết sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo sẽ  nhớ  lâu và hứng thú   hơn. Để việc khai thác tranh ảnh có hiệu quả, phát huy tính tích cực của học sinh,   giáo viên cần nghiên cứu kỹ  mục tiêu và nội dung của hình  ảnh trong bài học, tư  liệu thuyết minh hình ảnh. Ngày nay, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, giáo  viên trình chiếu kênh hình sẽ  có  ưu thế  hơn vì học sinh được trực quan với hình  ảnh rõ, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn. 1.2.3. Sử dụng tài liệu địa lý: Không chỉ  sử  dụng tài liệu văn học hay trong lĩnh vực nghệ  thuật, việc vận   dụng liên môn với các lĩnh vực khoa học khác cũng đóng vai trò quan trọng. Trong  đó không thể không kể  đến lĩnh vực địa lý. Việc xác định điều kiện tự  nhiên, khí  hậu, địa hình của một khu vực đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với lịch sử của  khu vực đó. Ví dụ  như  khi tìm hiểu điều kiện tự  nhiên của các quốc gia cổ  đại  phương Đông sẽ thấy được tại sao nhà nước lại ra đời sớm ở khu vực này, và tại   sao nông nghiệp lại là ngành đóng vai trò chính của các quốc gia cổ  đại phương   Đông. 1.2.4. Sử dụng tài liệu các lĩnh vực khoa học khác: Việc vận dụng kiến thức liên môn toán học, vật lí cũng giúp tìm hiểu thêm về  lịch sử.  Ở  đây các em cần kết hợp yếu tố  lịch sử  và yếu tố  khoa học tự  nhiên:  Yếu tố  sử  học thông qua việc tìm hiểu tiểu sử, cuộc đời của các nhà bác học.  Song như vậy chưa đủ, các em sẽ sử  dụng kiến thức toán học, vật lí học để  làm  cụ  thể  hơn những thành tựu của họ, qua đó để  thấy được đóng góp của các nhà   khoa học đối với nhân loại.
  8. 2. Vận dụng phương pháp dạy học liên môn để giảng dạy về văn hóa cổ  đại lịch sử 10 2.1. Liên môn địa lý: Khi tìm hiểu về văn hóa cổ đại, học sinh cần phải vận dụng kiến thức địa lý   vào trong bài học của mình. Qua việc tìm hiểu điều kiện tự nhiên của các quốc gia   cổ  đại phương Đông và các quốc gia cổ  đại phương Tây, các em sẽ  hiểu được   ảnh hưởng của địa lý đến toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị cũng như văn hóa của   các quốc gia này. Ví dụ: Khi tìm hiểu về  các quốc gia cổ  đại phương Đông. học sinh sẽ  biết   được vai trò của các con sông đối với sự phát triển của khu vực này. Do nằm ven   các con sông lớn: Trung Quốc có sông Hoàng Hà và Trường Giang, Ai Cập có sông   Nin, Ấn Độ có sông Ấn và sông Hằng…Các con sông đã cung cấp phù sa, mặt khác  đem lại nguồn nước tưới tiêu cho đồng ruộng. Chính vì vậy, đất đai ở đây tơi xốp  màu mỡ, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Điều này lí giải tại sao nhà  nước ra đời sớm ở các quốc gia phương Đông cổ  đại, mặt khác tại sao ở đây lại  có nền văn minh ra đời sớm nhất trên thế giới. Tìm hiểu về  văn hóa cổ  đại phương Tây, học sinh cần xác định được vị  trí  của Hi Lạp và Rô Ma cổ  đại, qua đó hiểu được vị  trí địa lí có  ảnh hưởng ra sao  đến sự phát triển của lịch sử phương Tây cổ đại nói chung và văn hóa phương Tây   cổ đại nói riêng: Phải biết được các quốc gia cổ đại phương Tây Hi Lạp ­ Rô Ma   nằm tiếp giáp biển Địa Trung Hải, đây là điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi. Nó  đã quy định nền tảng kinh tế  của các quốc gia cổ  đại phương Tây là thủ  công  nghiệp và thương nghiệp, đồng thời cũng mở  ra một chân trời mới cho nền văn   hóa phương Tây cổ  đại. Bởi khi gần biển, cư  dân  ở  đây đã giao lưu học hỏi và   tiếp thu được thành tựu văn hóa cổ  đại phương Đông, trên cơ  sở  đó phát triển   thành thành tựu riêng của mình. 2.2. Liên môn văn học: Giảng dạy về văn hóa cổ đại trong sách giáo khoa lịch sử lớp 10, có thể thấy  sự kết hợp giữa sử học và văn học giúp hình tượng cụ thể, có tác động mạnh mẽ  đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, nó giúp học sinh tiếp nhận kiến thức, khắc   sâu kiến thức một cách dễ dàng hơn. 
  9. Khi tìm hiểu văn học phương Đông và phương Tây cổ đại, HS sẽ kết hợp với  việc cụ  thể  các tác phẩm văn học, qua đó vừa nắm được kiến thức sử  học, vừa  được củng cố kiến thức văn học của mình. Ví dụ, khi tìm hiểu về  nền văn học phương Tây, giáo viên có thể  giao cho   học sinh về nhà tìm hiểu và thuyết trình về các tác phẩm, tác giả tiêu biểu thời kì   này. Qua việc tìm hiểu trên, các em vừa nắm được kiến thức sử học, vừa củng cố  thêm về lĩnh vực văn học. Về lĩnh vực thơ ca, các em có thể tìm hiểu cụ thể tác phẩm Iliat và Ô đi xê  của nhà thơ mù Hô me như sau: Tiêu biểu là Ili át và ô đi xê, hai bộ sử thi nổi tiếng   của đất nước Hi Lạp, thường được coi là sáng tạo của Hôme, nhà thơ  mù được  sinh ra bên dòng sông Mê lét vào khoảng thế kỉ IX – VIII trước công nguyên. Đề tài  của I li át và ô đi xê đều khai thác từ cuộc chiến tranh giữa các quốc gia ở Hi Lạp  với thành Tơ roa. Tập I li át dài 15.683 câu, chủ yếu miêu tả giai đoạn gay go nhát,   tức là năm thứ 10 của cuộc chiến tranh. Ô đi xê gồm 12.110 câu, khắc họa nên bức   tranh hoành tráng, hào hùng của người Hi Lạp, miêu tả  cảnh trở  về  của quân Hi   Lạp. Chủ đề chính của I li at và ô đi xê là chinh phục thiên nhiên để khai sáng, mở  rộng giao lưu, tái hiện xung đột giữa các nền văn minh, các trình độ văn hóa. Nếu   A sin, người anh hùng trận mạc xuất chúng trong sử thi I li at, là biểu hiện của sức   mạnh thể chất thì Uy lít xơ là biểu tượng sức mạnh trí tuệ của người Hi Lạp. Hai   tập I li át và ô đi xê không những là hai tác phẩm quan trọng trong kho tàng văn học   thế giới mà còn là những tác phẩm có giá trị  về lịch sử, giúp các nhà sử  học khôi  phục một thời kì lịch sử gọi là thời kì Hô me. Hoặc về lĩnh vực kịch, các em có thể tìm hiểu thêm kiến thức về Ê sin, Xô  phốc lơ… + Kịch: Êsin, ông được mệnh danh là cha đẻ  của bi kịch, sinh ra trong 1 gia  đình quý tộc. Êsin có một vốn sống rộng lớn, quý báu, có tác dụng lớn trong sự  nghiệp của ông. Hình  ảnh những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất, những  chiến thắng oanh liệt chống giặc ngoại xâm,  ước vọng công bằng và bình đẳng  hiện lên trong kịch của Êsin rất rõ nét. Ngoài ra, trong kịch của Êsin còn rất giàu  yếu tố  thần thoại, tất cả đã tạo nên một Êsin được quần chúng hâm mộ  và kính   phục. Vở kịch tiêu biểu nhất của ông là “ôrexti”.
  10. Thuộc lứa đàn em của Etsin, Xôphốclơ cũng rất thành công trong việc đóng  góp vào kho tàng văn học Hi Lạp những vở kịch đặc sắc. Ông được mệnh danh là :   Hôme của nghệ  thuật kịch vì tác phẩm của ông đã phản ánh thời đại hoàng kim   của Hi Lạp. Cũng như  Etsin, các vở  kịch của ông cũng thường xoay quanh quan   niệm về  số  phận, nhưng ông thường kết hợp số  phận với việc ca ngợi tài năng  của con người. Trong số các vở  kịch còn lại của xô phốc lơ, nổi tiếng nhất là vở  “Ơ đíp làm vua”. 2.3. Liên môn nghệ thuật: Khi tìm hiểu về  văn hóa cổ  đại, lĩnh vực nghệ  thuật chủ  yếu  ở  đây là kiến  trúc và điêu khắc. iến trúc là loại hình nghệ  thuật sử  dụng hình dáng, đường nét,  mảng, khối để biểu đạt ý tưởng và cảm xúc. Trên các công trình kiến trúc đều thể  hiện rõ trạng thái tâm hồn, lối sống của con người trong một hoàn cảnh và thời  đại nhất định.Thông qua việc tìm hiểu các công trình kiến trúc sẽ  hiểu đặc điểm   các công trình kiến trúc của các quốc gia cổ  đại phương Đông mang tính đồ  sộ  hoành tráng và có ảnh hưởng của thần thánh. Còn các công trình kiến trúc phương   Tây lại mềm mại, uyển chuyển và đặc biệt là mang vẻ đẹp của con người. Nhắc đến công trình kiến trúc phương Đông phải nhắc đến các công trình kim  tự tháp của Ai Cập. Giáo viên có thể miêu tả công trình kiến trúc này để học sinh  thấy được sự  đồ  sộ  của nó: Kim tự  tháp là những ngôi mộ  của các vua Ai Cập,   xây dựng vùng Tây Nam Cai rô ngày nay. Trong số các kim tự tháp ở Ai Cập, cao  lớn nhất, tiêu biểu nhất là Kim tự  tháp của Kê  ốp. Kim tự  tháp Kê  ốp xây thành  hình chóp, đáy là hình vuông mỗi cạnh 230 mét, bốn mặt là những hình tam giác  ngoảnh về  bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Toàn bộ  kim tự  tháp được xây bằng   những tảng đá vôi mài nhẵn, mỗi tảng nặng 2,5 tấn, có tảng nặng 30 tấn. Để  xây  kim tự  tháp này, người ta đã dùng đến 2.300.000 tảng đá với một khối lượng là   2408000 m3. Phương pháp xây kim tự tháp là ghép các tảng đá được mài nhẵn với  nhau chứ  không dùng vữa, thế  mà các mạch ghép kín đến mức một lá kim loại   mỏng cũng không thể lách qua được.  Hơn 2000 năm sau, nhà sử  học Hi Lạp Hê rô đốt dến Ai Cập còn được nghe  cư  dân  ở  đây kể  lại quá trình xây dựng kim tự  tháp. Hê rô đốt cho biết, sau khi   quyết định xây dựng kim tự  tháp, Kê  ốp đã huy động toàn thể  nhân dân lao động  
  11. trong   nước   đến   công   trường   làm   việc.   Họ   được   tổ   chức   thành   từng   đội   gần   100.000 người, cứ 3 tháng thì thay phiên một lần. Kim tự tháp được xây dựng ở tả  ngạn sông Nin, nhưng nơi khai thác đá lại ở hữu ngạn. Vì vậy, người ta phải dùng   thuyền chở đá từ  nơi khai thác đến xây kim tự  tháp. Từ  bến đá đến khu lăng mộ,   người ta phải xây một con đường bằng những tảng đá mài nhẵn, dài hơn 900 m,   rộng 18 m và chỗ  cao nhất là 15 m. Chỉ  riêng việc xây con đường này đã mất 10   năm. Không kể thời gian làm đường và hầm mộ dưới đất, việc xây kim tự tháp đã   kéo dài 20 năm mới hoàn thành. Việc xây dựng kim tự  tháp đã " đem lại cho nhân   dân Ai Cập không biết bao nhiêu tai họa". Nhưng nhân dân Ai Cập cổ  đại, bằng   bàn tay và khối óc của mình đã để lại cho nền văn minh nhân loại những công trình  kiến trúc vô giá. Trải qua gần 5000 năm, các kim tự  tháp hùng vĩ vẫn đứng sừng   sững ở vùng sa mạc Ai Cập bất chấp thời gian và mưa nắng. Vì vậy, người A rập   đã có câu: "Tất cả đều sợ thời gian, nhưng thời gian sợ kim tự tháp". Tìm hiểu về văn hóa cổ đại phương Tây, giáo viên có thể khắc họa cho học   sinh những nét tiêu biểu của kiến trúc nơi đây thông qua việc miêu tả một số công  trình tiêu biểu như: Đền Pác tê nông, tượng nữ  thần tự  do, đấu trường Rô Ma… Nghệ  thuật Hi Lạp lúc đầu học tập ở  người Ai Cập, nhưng trên cơ  sở  thành tựu  của người xưa, họ  đã phát triển 1 cách sáng tạo phong cách riêng biệt của mình,  phát huy lên một trình độ điêu luyện hơn. + Tượng thần vệ  nữ  Mi Lô là tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất của Hi   Lạp, khắc họa vị  nữ  thần tình yêu và sắc đẹp. Tượng được điêu khắc trên chất  liệu cẩm thạch trắng, nhưng đã mất cánh tay và bệ nguyên bản. Tuy nhiên, chính  sự thiếu hụt này lại càng làm nên giá trị của tác phẩm. Sau khi bức tượng được tìm  thấy, người ta đã tìm mọi cách khôi phục lại cánh tay nhưng không thành công.  Tương được tạo dáng đến mức hoàn hảo, đường nét mềm mại, tinh tế,vẻ  mặt   sống động, có thần. tượng là thần nhưng lại thể  hiện vẻ  đẹp con người, giá trị  hiện thực và nhân đạo cũng là  ở  đó. Tượng Hi Lạp trở  thành 1 kiểu mẫu nghệ  thuật, đến ngày nay, trong lịch sử  chưa có 1 thời đại nào, chưa có 1 nơi nào mà  nghệ thuật điêu khắc có thể vượt qua trình độ người Hi Lạp cổ đại. Công trình kiến trúc đẹp nhất của người Hi Lạp là đền Pác tê nông ở A Ten.   Pác tê nông là ngôi đền thờ nữ thần A tê na, nữ thần tượng trưng cho trí tuệ, cũng 
  12. là thần bảo trợ thành bang A Ten. Công trình được xây dựng trong 10 năm, dưới sự  kiến thiết của 2 kiến trúc sư giàu kinh nghiệm Ichti ốt và Canlicratét, góp phần vào   đó là bàn tay tài hoa của nhà điêu khắc Phi đi át.      Đền dài 70m, rộng 31m, cao chưa tới 14m, được xây dựng trên nền trụ đá với 3   bậc. Kết cấu đều khá rõ ràng, chia làm 3 gian là tiền sảnh, gian thờ (nơi đặt tượng   nữ  thần Atena bằng ngà voi nạm vàng) và phòng châu báu. Được chống đỡ  mái   bằng 46 cột tròn cao 10m bằng đá cẩm thạch. Hai phía đông tây đối xứng nhau là   bức phù điêu tạo cảnh nữ  thần A tê na chào đời và những truyền thuyết Hi Lạp   đương thời như: Đám rước thần A tê na, việc tranh chấp làm thần bảo hộ  thành   bang A ten giữa 2 vị thần tới cao là Phôn sai don và A tê na được ghi tạc trên đó. Pác tê nông nhìn từ  xa mang lại cảm giác vững trãi, vừa vặn, đẹp đẽ. Các   kiến trúc sư nổi tiếng đương thời đã nói rằng: “Nếu người ta làm những cột cao   hơn hay thấp hơn vài mươi phân, hoặc khoảng cách giữa những cột rộng hơn hay   gần nhau hơn thì sự cân xứng và hài hòa không còn nữa”. tóm lại, đền Pác tê nông  là một kiệt tác hoàn mĩ, tượng trưng cho sự  tinh tế, trí thông minh kiệt xuất của   người dân Hi Lạp Bàn   về   những   tác   phẩm   nghệ   thuật   của   người   Hi   Lạp,   sử   gia   La   Mã   Pưlutaco nói: “Trong những tác phẩm ấy, tác phẩm nào cũng hoàn mỹ cả, cho nên   từ trước đến nay được xem là có giá trị vĩnh cửu”. + Đấu trường Rô Ma: Rô ma là một vương triều hùng mạnh, người Rô ma  nổi tiếng mạnh mẽ, mưu chí và gan dạ, song hành với trí tuệ  họ  còn tôn vinh ca  phẩm chất dũng cảm và sức khỏe cơ bắp. Tượng trưng cho vẻ đẹp hùng tráng ấy,   kiến trúc Rô Ma đã xây dựng nên đấu trường Cô li dê uy nghi, mạnh mẽ. Đấu   trường có dạng hình clip với chu vi 527 m, được chia lầm 4 phần đối xứng .Với   thiết kế  vòng tròn, khán đài Rô Ma đã đưa tầm nhìn khán giả  một cách rõ nhất,   những hàng ghế trên nền dốc bậc, chạy vòng tròn chia làm 5 khu vực chứa 60 hàng  chỗ ngồi cho 50000 người. Tầng trệt dành cho tầng lớp vua chúa và những người   thân cận, khán đài cao hơn 5m để  đảm bảo an toàn cho người xem còn chỗ  ngồi   trên cùng cao 16. Nền tầng được lát gỗ và được ngăn thành nhiều phòng. Bên dưới  khán đài còn có những khoảng không gian troongs cho việc nghỉ ngơi.
  13. Từ ngoài nhìn vào, Cô li dê là một công trình đồ sộ với thiết kế mái vòm độc   đáo quấn quanh cả 3 tầng, có đến 80 vòng cuốn đá và 80 bức tường hình rẻ  quạt   đỡ toàn bộ khán đài và sàn của các tầng. Trong đấu trường còn đặt rất nhiều pho  tượng (Khoảng 60 pho), được bố  trí rất hợp lí làm tăng thêm vẻ  uy nghi, đồ  sộ,  hùng vĩ của công trình. Công trình mang một phong cách riêng của Châu Âu, to lớn   và khoa trương, các chi tiết kiến trúc cũng được chú ý để tạo nên vẻ uy nghi cũng  như không khí sôi động của trường đấu. 2.4. Liên môn với các lĩnh vực khoa học khác: Học sinh được tìm hiểu về  các nhà toán học, vật lí học vĩ đại của các quốc   gia cổ đại phương Đông và phương Tây. Ở đây các em cần kết hợp yếu tố lịch sử  và yếu tố khoa học tự nhiên: Yếu tố sử học thông qua việc tìm hiểu tiểu sử, cuộc  đời của các nhà bác học. Song như vậy chưa đủ, các em sẽ sử dụng kiến thức toán  học, vật lí học để  làm cụ  thể hơn những thành tựu của họ, qua đó để  thấy được  đóng góp của các nhà khoa học đối với nhân loại. Ví dụ, khi tìm hiểu về nền khoa học của các quốc gia cổ đại phương Tây, để  chứng minh cho việc những hiểu biết khoa học đến đây mới thực sự  trở  thành  khoa học, giáo viên có thể lấy dẫn chứng cụ thể bằng những hiểu biết của mình  về lĩnh vực này, + Về toán học:  Ta lét: Là nhà toán học, đồng thời cũng được coi là một trong bảy nhà hiền   triết thời bấy giờ. Quê hương ông là thành phố Milê, vùng I ô ni thuộc miền trung   bờ biển tiểu á. Sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng Ta lét chẳng mấy mặn mà  với việc kinh doanh. Ông chỉ  say mê sách vở. thấy con như  vậy nên cha ông đã   buộc ông theo một đoàn thương nhân sang Ai Cập học nghề buôn bán. Chẳng ngờ  rằng Ta lét sang Ai Cập chỉ thường xuyên bàn bạc với các nhà toán học, thiên văn  học, triết học của Ai Cập và cac nước cổ  đại phương Đông khác. Từ  những tri  thức đó ông đã phát minh ra nhiều định lí về hình học mà nổi tiếng hơn cả là định   lí Ta lét về các đoạn thẳng tỉ lệ với nhau khi có những đường song song cắt ngang   như chúng ta đều biết. Ông cũng là người đầu tiên đo được chiều cao kim tự tháp:  Kim tự  tháp là một công trình nổi tiếng được xây dựng hoành tráng, nhưng làm  thế  nào để  đo được chiều cao của nó? Đây quả  là một câu hỏi rất khó đối với  
  14. người Ai Cập cổ  đại. Một hôm ta lét đến Ai cập đã được vua lập tức mời vào   nhờ  giải bài toán hóc búa này. Giữa đám đông, ông chỉ  thực hiện bằng một cái  thước. Bằng cách đo bóng của một người đứng tại vị  trí đó, ta lét xác định được   khi nào bóng kim tự tháp bằng đúng chiều cao của nó, nhờ vậy ông đo được chiều   cao chính xác của kim tự tháp kê ốp là 146 m trước sự thán phục của nhiều người.   Thực ra, cách Ta lét vận dụng để  đo đạc chính là tuân theo nguyên lý tam giác  đồng dạng. Nhưng thời kỳ  đó nguyên lý đồng dạng chưa ra đời. ta lét chỉ  hoàn   toàn dựa vào trí thông minh của chính mình. Đó quả  là điều tuyệt vời vượt thời   đại. Pitago: Là nhà toán học, thiên văn học lớn của Hi Lạp. Ông được mệnh danh là  người thầy của các con số. Ngoài định lí Pitago nổi tiếng (trong 1 tam giác vuông,  bình   phương   cạnh  huyền   bằng  tổng  bình   phương   2  cạnh   góc  vuông,   ông  còn  chứng minh được tổng các góc trong 1 tam giác bằng 180 độ, xây dựng khái niệm  vô cực … + Vật lí:  Tiêu biểu nhất là Ác si mét, một trong số những nhà bác học vĩ đại nhất của HI   Lạp cổ  đại.Ác si met sinh ra  ở thành Xy ra cu dơ nhỏ bé trên đảo Xixilia. Ông đã  để  lại nhiều tài sản vô giá cho khoa học nhân loại. Ông đã sáng tạo ra máy bơm  hút nước tưới tiêu đồng ruộng, ông sử  dụng đòn bẩy và ròng rọc để  nâng các vật  lên cao. Ác si mét từng nói: “Hãy cho tôi một đòn bẩy và một điểm tựa vững chắc,   tôi sẽ  nâng cả trái đất lên”. Ông còn phát minh ra định luật về lực đẩy của nước   và có 1 câu chuyện rất nổi tiếng về định luật này: Vua  Hierôn II nghi ngờ  người   thợ kim hoàn của mình đã ăn bớt vàng khi làm chiếc vương miện của nhà vua bèn   nhờ Ac si mét xác minh rõ. Ác si mét ngày đêm suy nghĩ, cho đến cả lúc đi tắm ông  vẫn còn ám  ảnh vấn đề  này trong đầu. Chợt ông nhận ra khi ngâm mình vào bồn   nướ thì mực nước dềnh lên. Một tia sáng lóe lên trong đầu ông. Ông liền nhảy ra  khỏi bồn tắm, quên cả việc mặc quần áo và chạy về nơi làm việc, miêng kêu “ ơ  rê ka,  ơ  rê ka”( có nghĩa là tìm ra rồi, tìm ra rồi). Phương pháp ông tìm thật đơn  giản, chỉ  việc ngâm vật đó vào nước, thể  tích khối nước dâng lên vừa bằng thể  tích của vật đó. Về sau, Ác si mét đã phát triển thành định luật mang tên mình.
  15.   Ngày   nay   có   một   miệng   núi   lửa   và   một   dãy   núi   trên   mặt   trăng   mang   tên  Acsimet để vinh danh ông. Acsimet xuất hiện trên các con tem bưu chính của Đông   Đức, Hi Lạp, Italia. Huy chương danh giá của Fields giải thưởng được coi là Nobel  của toán học cũng khắc hình Ác si mét. Ác si mét đã sống cách chúng ta hơn 2000   năm trước, nhưng trí tuệ  của ông, phẩm chất đạo đức của ông đã vượt thời gian  và không gian trở thành tài sản vĩnh hằng của nhân loại. 3. Kết quả việc vận dụng phương pháp dạy học liên môn để  giảng dạy   về văn hóa cổ đại lịch sử 10 Để  kiểm tra kết quả  học tập của học sinh học theo đề  tài, tôi phát cho mỗi   học sinh một đề  trắc nghiệm khách quan, đề  là các nội dung của các bài học đã  giảng dạy trên lớp. Để đạt kết quả kiểm tra, đánh giá chính xác nhất, tôi thực hiện   ở cả ba lớp sau mỗi giờ dạy.  ­ Tiêu chí đánh giá: + Học sinh trả  lời đúng 80 ­ 100% số  câu trắc nghiệm: Các em đã hiểu bài  mức độ tốt. + Học sinh trả lời đúng 50 ­ 79 %: HS hiểu bài mức độ khá + Học sinh trả lời đúng dưới 50 %: HS chưa hiểu bài. ­ Thực hiện kiểm tra  ở cả ba lớp sau khi thực hiện đề  tài đã cho kết quả: 94  % số học sinh hiểu bài mức độ khá và tốt
  16. KẾT LUẬN Dạy học liên môn là sự  vận dụng những nội dung và phương pháp các lĩnh   vực, các môn học có liên quan để nhằm tăng hiệu quả dạy học lịch sử và làm sáng  tỏ  những kiến thức mà học sinh được học trong mỗi bộ  môn. Việc dạy học liên   môn làm cho các em nhận thức sự  phát triển của xã hội một cách liên tục, thống   nhất, mối liên hệ  hữu cơ   giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu được tính  toàn diện của lịch sử. Điều này khắc phục được tính tản mạn trong kiến thức của  học sinh.. Qua việc áp dụng phương pháp dạy học liên môn vào một chủ  đề  nhất định,  tôi nhận thấy học sinh đã phát huy được tính tích cực, chủ động, hiểu bài và hứng  thú hơn với bộ môn lịch sử. Nếu các giờ dạy học môn lịch sử  đều áp dụng được  phương pháp liên môn, tôi tin rằng giờ  học lịch sử  sẽ  không còn khô khan và sẽ  tạo được niềm yêu thích bộ môn đối với học trò.
  17. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Ngọc Liên ­ Trần Văn Trị (2004), Phương pháp dạy học lịch sử, NXB  Giáo dục, Hà Nội. 2. Nghiêm Đình Vì (chủ biên) (2006), Tìm hiểu kiến thức lịch sử 10, NXB  Giáo dục, Hà Nội. 3. Đặng Đức An (2003), Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, NXB Giáo dục,  Hà Nội. 4. Vũ Dương Ninh (chủ biên)  (2003), Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo  dục, Hà Nội. 5. Ngô Minh Oanh (2006), Một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp  dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông, ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh,  HCM.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0