Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT
lượt xem 4
download
Đề tài này cũng giúp HS rèn luyện và nâng cao kĩ năng phân tích, cảm thụ truyện ngắn khi làm văn. Đối với học sinh các lớp học chương trình nâng cao, đề tài này còn định hướng và kích thích hứng thú sáng tác truyện ngắn của các em.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc - hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT
- SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT TRIỆU THÁI ---------- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN ĐẶC TRƯNG TRUYỆN NGẮN VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT Tác giả sáng kiến: NGUYỄN THÚY HẰNG Mã môn: 15.51.01 Lập Thạch, năm 2018 1
- MỤC LỤC Mụ Nội dung Trang c I Giới thiệu đề tài 3 II Tên sáng kiến 5 III Tác giả sáng kiến 5 IV Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thúy Hằng 5 V Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 5 VI Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 6 20.10.2014 VII Mô tả bản chất của sáng kiến: 6 1 Khái lược về truyện ngắn 6 2 Những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn 6 3 Định hướng cách đọc hiểu truyện ngắn trong nhà trường 13 THPT 4 Thực nghiệm 15 5 Kết quả nghiên cứu 40 6 Kết luận chung 41 VIII Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 42 IX Đánh giá lợi ích thu được 42 X Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử 42 hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu 2
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN I. Giới thiệu đề tài 1. Lý do chọn đề tài Có ý kiến cho rằng: Truyện ngắn là một thứ giọt nước mà không có nó không thể có đại dương. Đây cũng là một thể loại đánh dấu trình độ nghệ thuật của một nền văn học. Nhìn từ phương diện hình thức, truyện ngắn chỉ là một tác phẩm tự sự cỡ nhỏ bên cạnh những trường ca, những bộ tiểu thuyết đồ sộ. Nhưng ý nghĩa và giá trị của truyện ngắn lại không hề nhỏ và thua kém những tiểu thuyết hay trường ca. Đây là thể loại văn học có nội khí "một lời mà thiên cổ, một gợi mà trăm suy". Do đó, truyện ngắn là một trong những thể loại văn học khó nhất, đòi hỏi một công phu lao động lớn của nhà văn nhưng cũng là thể loại hấp dẫn và cuốn hút độc giả nhất trên thế giới. Trong chương trình Ngữ văn THPT, truyện ngắn (dân gian, trung đại và hiện đại) chiếm một ưu thế khá nổi trội, khoảng 1/2 số lượng văn bản văn học được học và đọc thêm. Thực tế này khẳng định vị trí quan trọng của thể loại truyện ngắn trong nền văn học cũng như trong quá trình giảng dạy và tiếp nhận văn học trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy người viết nhận thấy: khi tiếp cận tác phẩm truyện ngắn, học sinh mới chỉ tiếp nhận đơn thuần giá trị nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm đơn lẻ mà chưa nắm vững được những đặc trưng cơ bản của thể loại. Điều này dẫn đến tình trạng lúng túng trong quá trình viết bài văn phân tích một trong những vấn đề được đặt ra trong một tác phẩm truyện ngắn. Đặc biệt, đối với một đoạn truyện ngắn không nằm trong chương trình được đưa vào các bài đọc hiểu (trong các dạng đề thi THPT Quốc gia) thì học sinh hầu như không đọc hiểu được ý nghĩa cũng như những đặc sắc nghệ thuật 3
- của văn bản. Xuất phát từ cơ sở lí luận về thể loại văn học truyện ngắn cũng như thực tiễn kinh nghiệm giảng dạy văn bản truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nói trên, người viết lựa chọn đề tài: Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT như một hướng khai thác và nghiên cứu trong quá trình giảng dạy. 2. Ý nghĩa và tác dụng của đề tài Nghiên cứu và thực hiện đề tài này trong quá trình giảng dạy ở trường trung học phổ thông, người viết sẽ cung cấp cho học sinh một cái nhìn bao quát và toàn diện về đặc trưng của thể loại truyện ngắn, nắm vững cách thức đọc hiểu truyện ngắn. Trên cơ sở nắm vững lý thuyết chung đó, học sinh có thể vận dụng để tìm hiểu và giải mã sâu sắc những vấn đề đặt ra trong một đoạn truyện ngắn, một tác phẩm hoặc một nhóm tác phẩm truyện ngắn cụ thể trong chương trình. Ngoài ra, đề tài này cũng giúp HS rèn luyện và nâng cao kĩ năng phân tích, cảm thụ truyện ngắn khi làm văn. Đối với học sinh các lớp học chương trình nâng cao, đề tài này còn định hướng và kích thích hứng thú sáng tác truyện ngắn của các em. 3. Đối tượng Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc hiểu văn bản truyện ngắn. Phạm vi nghiên cứu: Bám sát vào các tác phẩm truyện ngắn hiện đại tiêu biểu trong nhà trường phổ thông (chẳng hạn như các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Tô Hoài, …). 4. Phương pháp tiến hành Nghiên cứu tài liệu Thực nghiệm (giảng dạy), đây là phương pháp chính 4
- Do tính chất đa dạng và phạm vi sâu rộng của kiến thức trong chuyên đề mà nó được sử dụng linh hoạt, uyển chuyển cho nhiều loại đối tượng học sinh khác nhau từ học sinh đại trà đến học sinh khá giỏi, với thời gian học khác nhau. Tùy từng đối tượng HS cụ thể mà giáo viên có phương pháp giảng dạy phù hợp từ cơ bản đến nâng cao kiến thức. Trong quá trình dạy, giáo viên có thể kết hợp các phương pháp sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp. Phương pháp so sánh, đối chiếu. Phương pháp đọc hiểu văn bản. Nếu đối tượng là học sinh đại trà, cụ thể là học sinh lớp 11 ban A, chuyên đề có thể được dạy trong 2 đến 3 tiết. Giáo viên sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản và ngắn gọn nhất về đặc trưng của truyện ngắn, định hướng cách đọc hiểu và áp dụng vào bài đọc hiểu một truyện ngắn cụ thể. Với học sinh lớp học nâng cao, cụ thể là học sinh lớp 11 ban C, D nội dung các kiến thức trên được tiến hành giảng dạy trong các tiết chuyên đề. Thời gian tuỳ thuộc vào sự phân bố số tiết học của từng chuyên đề đã được quy định cho các lớp, nhưng có thể gói gọn từ 4 đến 6 tiết. Ngoài những kiến thức cơ bản đã nêu, trong quá trình dạy đặc trưng thể loại truyện ngắn giáo viên có thể định hướng cho học sinh cái nhìn so sánh với đặc trưng của các thể loại văn học khác. Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu các văn bản cụ thể trong chương trình, giáo viên còn đưa ra các bài tập nâng cao, để học sinh vận dụng lí thuyết xử lí các đề bài liên quan đến thể loại truyện ngắn. Nếu học sinh tham gia đội tuyển thi học sinh giỏi cấp tỉnh thì cần xác định thời gian là cấp tốc, ngoài việc khái quát những kiến thức cơ bản, giáo viên định hướng và kích thích học sinh tự tìm hiểu phong cách viết truyện ngắn của một số nhà văn tiêu biểu trong chương trình với cái nhìn đối sánh. Đồng thời giáo viên cũng nên đưa ra những bài tập chọn lọc vận dụng nhiều 5
- kiến thức tổng hợp và các dạng đề thường gặp khi thi HSG. Thời gian học có thể từ 2 đến 4 tiết. II. Tên sáng kiến: Đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT III. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Nguyễn Thúy Hằng Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Triệu Thái Số điện thoại: 0987.137.977 Email: nguyenthuyhang.gvtrieuthai@vinhphuc.edu.vn IV. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thúy Hằng V. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Đề tài này, tôi tâp trung đi sâu vao nghiên c ̣ ̀ ưu ́ đặc trưng truyện ngắn và định hướng đọc hiểu văn bản truyện ngắn trong nhà trường THPT; vân dung ̣ ̣ phương pháp này vao day hoc các bài ̀ ̣ ̣ đọc văn về thể loại truyện ngắn trong chương trình ngữ văn 11. Từ đo, ́ giúp học sinh tim ra đ ̀ ược phương pháp học ̉ ̣ ̣ ̣ chu đông sang tao, khoa hoc va đ ́ ̀ ạt hiêu qua cao ̣ ̉ . VI. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 20.10.2014 VII. Mô tả bản chất của sáng kiến 1. Khái lược về truyện ngắn Khái niệm: truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ với một dung lượng hiện thực, số lượng nhân vật, sự kiện, thời gian, không gian…tương đối hạn chế. Thời gian xuất hiện: Truyện ngắn đích thực (phân biệt truyện ngắn hiện đại với truyện ngắn thời trung đại, truyện kể dân gian) xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học, khoảng thời cận hiện đại, gắn liền với sự ra đời và phát triển của báo chí và chủ yếu phát triển trong 150 năm gần đây. Đây là thể loại gần với tiểu thuyết hơn cả bởi là hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời. 6
- 2. Những đặc trưng cơ bản của truyện ngắn 2.1. Truyện ngắn là một giới hạn về thế giới nghệ thuật (“ngắn”). Một trong những đặc trưng nổi bật của truyện ngắn là: Truyện ngắn phải ngắn. Chính việc truyện ngắn phải ngắn khiến nó tự phân biệt một cách dứt khoát và rành rọt bên cạnh truyện vừa và tiểu thuyết. Đặc trưng này được biểu hiện qua một số phương diện cụ thể như sau: Ngôn ngữ, dung lượng: ngôn ngữ ít, số trang ngắn và bị giới hạn (thường dưới 10 trang), đặc biệt có những truyện rất ngắn (chỉ một vài câu). Về mặt đề tài, chủ đề: dung lượng hay phạm vi đời sống được phản ánh là có hạn. Truyện ngắn không đặt ra nhiều vấn đề đời sống khác nhau trong tác phẩm mà thường chỉ xoay quanh một vấn đề. Chẳng hạn trong “Đời thừa” Nam Cao: Đề tài và chủ đề dù có sự xung đột giữa ước mơ cao đẹp, lí tưởng nhân đạo và hiện thực xã hội khắc nghiệt nhưng bi kịch của Hộ là bi kịch cá nhân của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Thời gian trong truyện ngắn: truyện ngắn không phản ánh một quá trình mà chỉ tập trung phản ánh một thời điểm tiêu biểu, một lát cắt, một “moment” của đời sống. Ví dụ: “Chí Phèo” (Nam Cao) tập trung kể lại khoảng thời gian 6 ngày cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo. “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) xoay quanh tình huống gặp gỡ của Huấn Cao và quản ngục ở nhà tù trong mấy ngày cuối đời của Huấn Cao trước khi ra pháp trường để chịu án tử hình. “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) được kể trong một đêm khi Tnú được nghỉ phép về thăm làng. Thậm chí tác phẩm “Sống chết mặc bay” (Phạm Duy Tốn) chỉ kể lại những sự việc diễn ra trong 1 giờ. Không gian được miêu tả trong truyện ngắn là không gian hẹp với 1 địa điểm cụ thể. 7
- Ví dụ: Làng Vũ Đại trong "Chí Phèo", làng Xô Man trong "Rừng xà nu", một phố huyện nghèo trong “Hai đứa trẻ”, một xóm ngụ cư trong "Vợ nhặt", một nhà lao ở vùng tỉnh Sơn trong “Chữ người tử tù”, thậm chí chỉ trong căn nhà của vợ chồng văn sĩ Hộ ở tác phẩm "Đời thừa". Sự kiện: Truyện ngắn thường ít sự kiện. Trong tác phẩm thường tập trung kể về một sự kiện chính nên cốt truyện tương đối đơn giản. Ví dụ: “Chí Phèo” (Nam Cao) xoay quanh sự kiện chính là cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở, Chí Phèo đã thức tỉnh lương tri tiềm ẩn trong con quỷ dữ làng Vũ Đại, hắn khát khao lương thiện nhưng không được, cuối cùng Chí tìm đến cái chết. “Hai đứa trẻ” tập trung khắc họa cảnh vật và một số hoạt động sinh hoạt của phố huyện nghèo từ chiều tà đến đêm tối qua con mắt của nhân vật Liên. “Chữ người tử tù” với sự kiện chính là xin chữ và cho chữ giữa Huấn Cao và Quản ngục. "Vợ nhặt" xoay quanh tình huống nhặt được vợ của anh cu Tràng. Nhân vật: số lượng nhân vật thường ít, tính cách không quá phức tạp. Nếu trong tiểu thuyết, số lượng nhân vật có thể lên đến hàng trăm thì nhân vật trong truyện ngắn rất ít. “Chữ người tử tù” xoay quanh 3 nhân vật: Huấn Cao, quản ngục, thơ lại. “Hai đứa trẻ” tập trung khắc họa Liên và An. “Chí Phèo” tập trung khắc họa 3 nhân vật: Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến. "Vợ chồng A Phủ" tập trung khắc họa nhân vật Mị và A Phủ. 2.2. Truyện ngắn vẫn khắc phục những giới hạn này để vươn tới sức khái quát hiện thực, tạo ra sự hấp dẫn riêng Truyện ngắn phải ngắn đòi hỏi phải cô đọng đến mức cao nhất. Ngắn ở truyện ngắn đồng nghĩa với cô đọng, tinh chất nhìn vào đó có thể thấy cuộc sống hiện ra với đủ sắc màu của nó. Theo tôi hiểu, toàn bộ truyện ngắn là một tấm thảm lớn lao về cả thời đại. Với những mảnh tưởng như rất nhỏ bé, nó góp phần tạo nên cả tấm chân dung hoàn chỉnh. Sêkhôp bậc thầy truyện ngắn cũng quan niệm rằng: truyện ngắn là biết nói ngắn những truyện 8
- dài, lời chật mà ý rộng. Cụ thể như sau: Đề tài nhỏ nhưng chủ đề lớn, có ý nghĩa hiện thực, nhân sinh và có tính triết lí cao. + “Số phận con người” của Sôlôkhốp với chủ đề: con người đứng dậy sau những mất mát, đớn đau bằng tình thương. + “Chí Phèo” của Nam Cao với chủ đề: tình người làm hồi sinh tính người. + Trong “Tư cách mõ”, Nam Cao muốn nêu lên một triết lí: tính cách con người nảy sinh do hoàn cảnh chứ không phải bản tính trời cho. Tính cách ấy có thể bị biến đổi theo chiều hướng tốt lên hoặc xấu đi là do hoàn cảnh chi phối. Đặc biệt, chính sự ghen ghét, đố kị của con người có thể đẩy người khác đến chỗ biến dạng, đánh mất chính bản thân mình. + Ở tác phẩm “Một bữa no”, Nam Cao khái quát chủ đề: Miếng ăn không phải là nghệ thuật ẩm thực nữa mà là miếng khổ, miếng nhục. Tên tác phẩm là " Một bữa no" nhưng để nói về cái đói, về số phận rẻ rúng của con người trước cái đói, miếng ăn. Trước cái đói, miếng ăn, con người trở nên thấp hèn với chính mình, với những người xung quanh. + Với "Chữ người tử tù", Nguyễn Tuân muốn hướng tới chủ đề: Sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện với cái xấu, cái ác. Không gian, thời gian dù bị hạn chế nhưng: + Không gian được lựa chọn ở những thời khắc và những điểm không gian có ý nghĩa, có khả năng dồn nén sức nặng hiện thực và có khả năng nhận thức đối với nhân vật. Ví dụ: Truyện ngắn “Chí Phèo” chỉ chọn sáu ngày cuối cùng của cuộc đời Chí Phèo khi Chí gặp Thị Nở và thức tỉnh bản tính lương thiện. Đó cũng là tư tưởng chủ đạo mà Nam Cao gửi gắm trong tác phẩm. Chọn không gian là một làng Vũ Đại làng hội tụ tất cả những áp bức, bất công của bọn cường hào và nỗi cực khổ của người nông dân chính là bức tranh thu nhỏ của xã hội Việt Nam đương thời. 9
- Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” chỉ chọn thời điểm một giờ trước và khi đê vỡ thời điểm nguy kịch, góp phần vạch trần bản chất bàng quan, vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ được coi là cha mẹ dân. Truyện ng ắn "Ch ữ ng ười t ử tù" chỉ tập trung khắc họa nhân vật Huấn Cao trong mấy ngày cuối cùng của cuộc đời khoảng thời gian vô cùng ngặt nghèo và quý báu, trong nhà lao nơi tồn tại cái xấu, cái ác, sự nhơ bẩn. Từ đó góp phần làm nổi bật khí phách anh hùng, thiên lương trong sáng, chất nghệ sĩ tài hoa, cao hơn là sự chiến thắng của cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn. + Không gian, thời gian còn được mở rộng bằng sự hồi tưởng bằng việc kể lại quá khứ, bằng giấc mơ và kỉ niệm. Do đó nhà văn vẫn khái quát được cả cuộc đời và cả một thế hệ, nhân vật vẫn hiện lên trọn vẹn. Ví dụ: Chí Phèo chỉ xuất hiện trong truyện với khoảng thời gian 6 ngày nhưng truyện đã tái hiện được cả cuộc đời của nhân vật từ khi sinh ra đến khi chết, nhân vật vẫn hiện lên trọng vẹn, sống động thông qua dòng thời gian hồi tưởng về quá khứ. Trong truyện ngắn "Rừng xà nu", thời gian trần thuật là một đêm Tnú được nghỉ phép về thăm buôn làng nhưng truyện đã tái hiện được toàn bộ cuộc đời Tnú từ khi sinh ra đến khi tiếp tục cầm súng tham gia chiến đấu sau những mất mát lớn lao. Cùng với đó là cuộc đấu tranh và nổi dậy của dân làng Xô Man từ những ngày đau thương đến chiến thắng thông qua lời kể lại của cụ Mết già làng. + Thời gian, không gian còn được mở rộng về hướng tương lai, hướng “mở” khiến câu chuyện được tiếp diễn, dòng đời chảy trôi vô tận. Do đó, câu chuyện không phải là một khoảnh khắc, không dừng lại ở một lát cắt của cuộc đời mà là một dòng chảy trong đời sống. Ví dụ: “Chí Phèo” với kết thúc mở, gợi suy nghĩ về một Chí Phèo con ra đời nối nghiệp bố và cuộc sống khổ cực, bi thảm của người nông dân vẫn là một vòng luẩn quẩn, bế tắc. Hiện tượng Chí Phèo dường như vẫn chưa 10
- kết thúc. Trong “Số phận con người”, Sôlôkhốp không chỉ tái hiện cuộc đời nhân vật trong quá khứ, hiện tại mà có cả niềm tin vào tương lai tươi sáng (qua dòng trữ tình ngoại đề). Nhân vật trong truyện ngắn tuy ít nhưng: + Nhân vật được miêu tả ở những khía cạnh nổi bật nhất: ngoại hình, nội tâm, hành động… Ví dụ: nhân vật Chí Phèo được tập trung miêu tả ở các phương diện sau: Ngoại hình được miêu tả tỉ mỉ từ đầu tóc, quần áo, tay, ngực, mặt… khi Chí mới đi ở tù về nhằm nhấn mạnh dấu hiệu báo trước về sự khác biệt đến dị thường của con người này. Nội tâm: chỉ được miêu tả nội tâm ở đoạn đời sau khi gặp Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao năm tha hoá, biến chất thành “quỷ dữ”, Chí Phèo đã thoát khỏi cơn say triền miên không ngày tháng để suy nghĩ về cuộc đời mình: đoạn đời đã qua, những ước mơ trong quá khứ chưa bao giờ thực hiện được và tương lai mờ mịt sắp tới. Từ đó Nam Cao muốn khẳng định: bản chất lương thiện luôn tồn tại trong con người ở bất cứ hoàn cảnh nào. Hành động: Chí Phèo được miêu tả là kẻ lưu manh nên hành động của Chí phù hợp với tính cách lưu manh: uống rượu, rạch mặt ăn vạ ở nhà Bá Kiến, đòi nợ Đội Tảo, tỏ tình với Thị Nở, giết Bá Kiến… + Nhân vật còn được đặt trong tình huống để bộc lộ nhận thức và hành động. Tình huống là kết quả của nhiều sự kiện. Nó buộc nhân vật phải hành động, trong tình huống ấy nhân vật bộc lộ mình rõ nhất. Ví dụ: “Vợ chồng APhủ” Tô Hoài. Nhân vật Mị sau bao ngày thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm trước APhủ bị trói đứng. Nhưng một đêm chợt nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của APhủ giọt nước mắt đau khổ và tuyệt vọng Mị nhớ tới mình trong quá khứ (thương 11
- mình) thương APhủ thấy sự tàn ác của cha con Thống lí Thấy sự bất công trong cái chết của APhủ cuối cùng nỗi thương người chiến thắng nỗi sợ hãi nên Mị đã quyết định cắt dây trói cho APhủ. APhủ đi rồi, còn lại 1 mình nỗi sợ hãi bao trùm, niềm khát khao sống bùng dậy mãnh liệt Mị chạy theo APhủ. Với "Chí Phèo", nhà văn Nam Cao đã thức tỉnh bản tính lương thiện, khao khát ở nhân vật Chí Phèo và Chí hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn nhưng cuối cùng lại bị từ chối. Con đường hoàn lương đóng sầm trước mắt, bản tính lương thiện trở về khiến hắn không thể tiếp tục lựa chọn con đường làm quỷ dữ. Vì thế, Chí Phèo phải giết kẻ đã gây ra bi kịch này cho mình (giết Bá Kiến) và tự sát để bảo toàn nhân cách. Đặc biệt: Sức hấp dẫn, sinh động của truyện ngắn còn được tạo ra từ những chi tiết đắt. Truyện ngắn rất đề cao chi tiết. Đó là những chi tiết có sức cô đọng, khái quát, gợi mở, tạo được không khí cho truyện, có những chi tiết thể hiện con người, tạo vấn đề, thể hiện ý nghĩa, giá trị tư tưởng của tác phẩm… + Ví dụ trong “Chí Phèo” cần nói đến các chi tiết: mùi hương cháo hành, cái lò gạch, cái mặt sẹo của Chí, giọt nước mắt của Chí… + Ví dụ trong “Rừng xà nu” chi tiết đôi bàn tay của Tnú: hình ảnh biểu trưng cho cuộc đời và phẩm chất, tính cách của nhân vật. + Ví dụ: “Vợ chồng APhủ” chi tiết Mị ăn lá ngón tự vẫn, chi tiết dòng nước mắt của APhủ… Kết cấu của truyện ngắn luôn tạo những bất ngờ và đột biến. Đây là một yếu tố được đề cao trong truyện ngắn. Vì thế truyện ngắn thường tập trung tô đậm cái mở đầu và cái kết thúc. Mở đầu thường tạo ấn tượng và sự hấp dẫn đặc biệt. Kết thúc luôn tạo được những bất ngờ, thú vị, không theo phán đoán của người đọc (tưởng thế này mà hoá ra thế khác) và thường để lại nhiều dư âm. 12
- + Ví dụ mở đầu tác phẩm "Chí Phèo" là sự xuất hiện trực tiếp, đầy ấn tượng của nhân vật chính Chí Phèo với những bước đi xiêu vẹo và tiếng chửi đặc biệt của một kẻ nửa say nửa tỉnh. Kết thúc bất ngờ: tưởng Chí Phèo đến giết bà cô Thị Nở nhưng hóa ra Chí lại xách dao đến nhà Bá Kiến và giết hắn. + Kết thúc tác phẩm “Lão Hạc” cũng là một kết thúc bất ngờ để lại nhiều dư âm cho người đọc. Ông giáo và cả người đọc tưởng lão xin bả chó là hành động tha hoá, làm liều khi đói quá, cuối cùng lão lại dùng bả chó tự vẫn, từ đó bộc lộ đức hi sinh, phẩm chất trong sạch của lão. Truyện ngắn còn tạo được “màu sắc, hương vị, không khí, nắng mưa, thời tiết riêng, hơi thở riêng, một không gian ba chiều, thậm chí bốn chiều” (Nguyên Ngọc) để đưa người đọc vào ấn tượng và cảm giác sát thực đối với hoàn cảnh của câu chuyện. Ví dụ: Với tác phẩm “Dưới bóng hoàng lan”, Thạch Lam đã tạo được không khí trữ tình nhẹ nhàng, man mác. Truyện “Hai đứa trẻ” vừa mang màu sắc lãng mạn vừa mang màu sắc hiện thực: lãng mạn ở cảnh chiều tà đẹp mà buồn, ở hình ảnh đoàn tàu rực rỡ ánh sáng và sôi động âm thanh chạy qua phố huyện…, hiện thực ở cuộc sống nghèo nàn, tăm tối của người dân, không khí buồn tẻ và đêm tối dày đặc ở phố huyện. Truyện ngắn cũng mang khả năng tổng hợp cao: ghép vào đó chất triết lí của ngụ ngôn, chất trữ tình, chất thơ của thơ ca, chất kịch… + Ví dụ: Truyện ngắn mang tính chất trữ tình của Thạch Lam, Hồ Zếch, Thanh Tịnh. + Truyện ngắn mang chất kịch của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan. + Truyện ngắn mang chất tiểu thuyết, chất triết lí của Nam Cao. * Tóm lại: Đặc trưng cơ bản của truyện ngắn là phải ngắn, nhưng lại có sức khái quát, sự cô đọng, tinh chất. Chính vì thế, sự thách đố ở đây là ai viết được ngắn gọn nhất! Lep Tonxtoi nói: Tôi không có thời gian để viết ngắn. 13
- Còn A.Tsekhop nói: Để có một truyện ngắn tốt, trong truyện đó, không có cái gì được thừa, cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả đâu vào đấy, không có gì được thừa, truyện ngắn cũng vậy. Nghệ thuật viết truyện ngắn, nói cho đúng ra, không phải ở chỗ viết như thế nào, mà là nghệ thuật vứt bỏ đi những gì dở kém như thế nào… Tương tự như thế, có ý kiến cho rằng: Trong các thể loại văn chương, truyện ngắn đóng vai trò hổ báo trong đại gia đình các loài vật. Ở loài thú dữ này, không được có chút mỡ thừa dính vào mọi cơ bắp, nếu không chúng không thể săn mồi được. Ngắn gọn là qui luật của việc cấu tạo truyện ngắn. Nhờ có khả năng phản ánh hành động một cách ngắn gọn, truyện ngắn có khi còn có thể đạt tới trình độ anh hùng ca và đó là cả một bí mật của nó (Hoan Bốtsơ). 3. Định hướng cách đọc hiểu truyện ngắn trong nhà trường THPT Như đã trình bày trong phần Đặt vấn đề, truyện ngắn (truyện ngắn hiện đại) chiếm một tỉ lệ khá lớn trong chương trình Ngữ văn bậc THPT. Do đó, việc định hướng cho học sinh cách đọc hiểu một tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn là một việc làm cần thiết trong quá trình giảng dạy. Qua việc nghiên cứu tìm hiểu đặc trưng và phương pháp dạy học truyện ngắn, cùng với những kinh nghiệm trong thực tiễn giảng dạy, người viết mạnh dạn chia sẻ một số kinh nghiệm giảng dạy truyện ngắn sau đây: 3.1. Những hoạt động cần thiết trước tiết đọc hiểu tác phẩm truyện ngắn. Để phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học, giáo viên nên giao những yêu cầu và bài tập cụ thể cho học sinh chuẩn bị thật kĩ ở nhà: Yêu cầu học sinh đọc kĩ tác phẩm ở nhà. Trong quá trình đọc văn bản cần phải biết gạch chân vào những sự kiện, chi tiết quan trọng để tìm ra mạch truyện. Trước ngổn ngang sự kiện, từ ngữ, giáo viên định hướng học sinh nhận diện được những vấn đề sau đây: 14
- + Bối cảnh xảy ra câu chuyện: thời gian, địa điểm xảy ra câu chuyện, hoàn cảnh, tình hình, điều kiện gắn liền với các sự việc, sự kiện... + Số lượng nhân vật trong tác phẩm là bao nhiêu, đâu là nhân vật chính, nhân vật phụ, các nhân vật có quan hệ với nhau như thế nào? + Câu chuyện diễn ra theo tiến trình như thể nào: mở đầu, thắt nút, cao trào, mở nút... Sau đó, học sinh tự tóm tắt tác phẩm một cách ngắn gọn để nắm vững cốt truyện của truyện ngắn. Đây là một trong những thao tác quan trọng khi đọc hiểu truyện ngắn. Học sinh tự đọc và trả lời vào vở chuẩn bị các câu hỏi ở phần Hướng dẫn đọc bài trong SGK. 3.2. Những hoạt động trong tiết dạy đọc hiểu một tác phẩm truyện ngắn. Bước 1: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu tổng quát. Bước này giúp HS thâu tóm được nội dung khái quát nhất của truyện ngắn thông qua việc giáo viên tổ chức cho học sinh hoặc các nhóm học sinh trình bày tóm tắt cốt truyện, nêu đề tài và chủ đề của truyện. Từ đó, học sinh có thể hiểu được ý nghĩa chung của tác phẩm và tư tưởng, thái độ chung của tác giả. Đây là bước cơ sở để học sinh sẽ dễ dàng đi đọc hiểu chi tiết tác phẩm. Bước 2: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu chi tiết tác phẩm: Một trong những yếu tố quan trọng trong truyện ngắn là nhân vật. Nhân vật là linh hồn của truyện ngắn. Thông qua nhân vật, nhà văn gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình về nhân sinh. Muốn đọc hiểu chi tiết giá trị của truyện ngắn, GV sẽ hướng dẫn học sinh phân tích nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính theo các yếu tố: ngoại hình, hành động, ý nghĩ, ngôn từ của nhân vật, các chặng đường đời của nhân vật, mối quan hệ của nhân vật với hoàn cảnh và các nhân vật khác. Các chi tiết này vừa cho ta biết về nhân vật 15
- một cách cụ thể, sống động, vừa là căn cứ để suy nghĩ về nhân vật, tìm ra được những tư tưởng và thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Quá trình này giáo viên có thể tổ chức chia nhóm cho học sinh thảo luận từng vấn đề, hoặc từng chặng đường đời của nhân vật chính, sau đó khái quát ý nghĩa của từng vấn đề đó. Kết quả của quá trình này là học sinh có thể nắm được toàn bộ nội dung chi tiết, cụ thể của tác phẩm truyện ngắn Bước 3: Hướng dẫn đọc hiểu cảm thụ. Trên cơ sở học sinh đã nắm tương đối vững nội dung chi tiết của văn bản, giáo viên có thể định hướng học sinh: Phát hiện những chi tiết đặc sắc của văn bản và trình bày cảm nhận của mình về những chi tiết ấy. Phát hiện và cảm nhận những đặc sắc về mặt nghệ thuật của truyện: kết cấu, tình huống truyện, ngôn ngữ (ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ của người kể chuyện), giọng văn, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật... Bước 4: Củng cố và thực hành. GV yêu cầu HS khái quát những giá trị nội dung và nghệ thuật cơ bản của truyện ngắn. GV nêu câu hỏi nhằm củng cố bài học để học sinh trả lời hoặc thảo luận. Có thể kết hợp giao những bài tập viết cho HS về nhà thực hành. 4. Thực nghiệm 4.1. Hướng dẫn HS đọc hiểu truyện ngắn "Chữ người tử tù" Nguyễn Tuân. Hoạt động dạy thực nghiệm bài học "Chữ người tử tù" được tiến hành tại các lớp: 11A1, 11A4, 11A5 trường THPT Triệu Thái. Tất nhiên, để phù hợp với từng đối tượng học sinh của các lớp trên, hoạt động dạy học có thể linh hoạt thay đổi ở một số đơn vị kiến thức hoặc hoạt động tổ chức giờ dạy. 16
- A. Mục tiêu bài học Cảm nhận được vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao, qua đó hiểu được quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Hiểu và phân tích được nghệ thuật của thiên truyện: Tình huống truyện độc đáo, không khí cổ xưa, thủ pháp đối lập, ngôn ngữ góc cạnh, giàu giá trị tạo hình. B. Phương pháp Kết hợp các thao tác phát vấn, gợi mở, hoạt động nhóm. Tích hợp với kiến thức về thư pháp, về tác giả Cao Bá Quát, lịch sử, với tranh ảnh có liên quan. C. Tiến trình giảng dạy 1. Chuẩn bị ở nhà Chuẩn bị của GV Chuẩn bị của HS Thiết kế bài giảng Chuẩn bị bài học Đọc tài liệu về nghệ thuật thư pháp, về Cao Bá Xem lại kiến thức về Quát. Chuẩn bị tranh ảnh về Nguyễn Tuân, về Cao Bá Quát. cảnh cho chữ. 2. Tiến trình lên lớp * Ổn định tổ chức (1’) * Kiểm tra bài cũ Câu hỏi: Trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ", những kiếp người nơi phố huyện được tác giả Thạch Lam miêu tả như thế nào, bằng những đặc sắc nghệ thuật gì? Diễn biến tâm trạng nhân vật Liên từ chiều đến tối đến đêm ra sao? Điều đó chứng tỏ Liên là một cô bé như thế nào? * Bài mới HĐ của GV và HS Nội dung cần đạt I. Tiểu dẫn 17
- Bằng hiểu biết của 1. Tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” mình, em hãy giới In lần đầu năm 1940, gồm 11 truyện ngắn. thiệu đôi nét khái Nhân vật chính: Là những nho sĩ cuối mùa, tài hoa, quát về tập truyện bất đắc chí, coi thường danh lợi, mâu thuẫn với xã hội ngắn “Vang bóng Tây Tàu nhố nhăng, cố giữ “thiên lương” và “sự một thời”? trong sạch của tâm hồn”, Nội dung: + Viết về những con người, những thú vui tao nhã của một thời chưa xa lắm nhưng chỉ còn vang bóng (Thời nhà Nguyễn suy tàn, Pháp xâm lược) thể hiện ý thức giữ gìn những vẻ đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc. + Tỏ bày thái độ bất hoà sâu sắc của các nho sĩ cuối mùa với xã hội đương thời, không chịu vứt bỏ lương tâm, chạy theo danh lợi, cố giữ tâm hồn trong sạch. “Vang bóng một thời” là tác phẩm nổi tiếng nhất, kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, một tác phẩm gần đạt tới sự toàn thiện, Nêu xuất xứ và toàn mĩ (Vũ Ngọc Phan). nhan đề của truyện 2. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” ngắn "Chữ người tử Được sáng tác trên cơ sở những câu chuyện mà tù"? Nguyễn Tuân nghe được từ người cha là cụ tú Nguyễn An Lan về nhà nho tài hoa – anh hùng Cao Bá Quát. Tác phẩm in trên tạp chí Tao đàn với tên “Dòng chữ cuối cùng”, khi đưa vào tập “Vang bóng một thời” mới đổi tên là “Chữ người tử tù”. + Dòng chữ cuối cùng: chỉ đề cập đến dòng chữ cuối 18
- cùng – tác phẩm nghệ thuật cuối cùng HC để lại cho đời + Chữ người tử tù: Khái quát được cả quá trình xin chữ và cho chữ của Huấn Cao và quản ngục. II. Đọc hiểu văn bản GV đọc mẫu một Yêu cầu: đoạn, sau đó gọi HS + Đọc chậm, trang trọng, cổ kính, chú ý những câu đọc tiếp tác phẩm thoại ngắn của các nhân vật. GV yêu cầu HS + Tóm tắt ngắn gọn, rõ ràng và đầy đủ. tóm tắt tác phẩm. Căn cứ vào diễn Tình huống truyện độc đáo. biến cốt truyện, tìm Hình tượng nhân vật Huấn Cao một sáng tạo nghệ những tình huống, thuật tuyệt vời của Nguyễn Tuân. chi tiết, nhân vật có Hình tượng nhân vật Quản ngục. vai trò vào việc thể Cảnh cho chữ một cảnh tượng xưa nay chưa từng hiện chủ đề của tác có. phẩm? 1. Tình huống truyện Tình huống truyện * Khái niệm tình huống truyện: Là một sự kiện đặc là gì? biệt của đời sống, trong đó nó chứa đựng những tương quan bất thường giữa con người với con người, con người với hoàn cảnh...Từ đó là nổi bật tính cách của nhân vật cũng như tư tưởng mà nhà văn gửi gắm. Tình huống truyện có vai trò là nòng cốt của một truyện ngắn. Có 3 loại tình huống truyện: tình huống truyện nghiêng về hành động, tình huống truyện nghiêng về tâm trạng, tình huống truyện nghiêng về nhận thức. Trong “Chữ người * NT đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo: tử tù”, Nguyễn Tuân Cuộc gặp gỡ đầy éo le, kịch tính giữa Huấn Cao và 19
- đã xây dựng một quản ngục. tình huống truyện Không gian gặp gỡ: nhà tù không gian dành cho như thế nào? cuộc gặp gỡ bất đắc dĩ. Ý nghĩa của tình Thời gian gặp gỡ: những ngày cuối cùng của cuộc huống truyện đó là đời HC > đầy tính éo le. gì? Mối quan hệ giữa 2 nhân vật + Trên bình diện xã hội: tử tù > Nguyễn Tuân đã đặt Quản ngục trước sự lựa chọn có tính xung đột: Hoặc làm tròn bổn phận của một viên quan thì phải chà đạp lên tấc lòng tri kỉ, trở thành kẻ tầm thường; hoặc trọn đạo tri kỉ thì phải vượt lên phép nước, bỏ qua chức phận của một viên quan, bất chấp phép tắc và phải chấp nhận những hậu quả có thể liên quan đến tính mạng * Ý nghĩa của tình huống truyện Làm sáng rõ vẻ đẹp anh hùng nghệ sĩ của Huấn Cao và tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của quản ngục Làm sáng lên chủ đề của tác phẩm: Ca ngợi cái ĐẸP, cái THIỆN. Cái đẹp, cái thiện chiến thắng cái xấu, cái ác ngay trong lòng cái xấu, cái ác. Biến cuộc kì ngộ của hai nhân vật thành một cuộc hạnh ngộ. 2. Hình tượng Huấn Cao Dựa vào những Vẻ đẹp nhân vật Huấn Cao được thể hiện trên 3 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đặc trưng chủ nghĩa lãng mạn qua những tác phẩm văn học lãng mạn Việt Nam trong chương trình Ngữ văn THPT
49 p | 58 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp rèn luyện kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc nhằm hình thành khả năng ứng phó với căng thẳng của học sinh trường THPT Kim Sơn C
50 p | 15 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng kĩ thuật giao nhiệm vụ nhằm nâng cao hiệu quả về năng lực tự quản, khả năng giao tiếp và hợp tác nhóm cho học sinh lớp 11B4 - Trường THPT Lê Lợi
13 p | 118 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp thử và đặc biệt hóa trong giải toán trắc nghiệm
32 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực đặc thù cho học sinh thông qua phân tích kênh hình phần Di truyền học và Sinh lý động vật trong bồi dưỡng HSG quốc gia, HSG cấp tỉnh môn Sinh học
37 p | 14 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phân loại và phương pháp giải bài tập chương andehit-xeton-axit cacboxylic lớp 11 THPT
53 p | 28 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học chương Halogen, chương Oxi – Lưu huỳnh Hóa học lớp 10 THPT nhằm nâng cao hứng thú cho người học và chất lượng dạy học Hóa học
59 p | 11 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hệ thống bài tập Hóa học rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong chương trình Hóa học THPT
47 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi phần Lịch sử thế giới hiện đại (1945 - 2000)
24 p | 118 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Áp dụng một số trò chơi vận động nhằm nâng cao sức bền cho học sinh nữ khối 10 THPT
55 p | 48 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp giúp học sinh làm nhanh các bài toán trắc nghiệm: Xác định khoảng thời gian đặc biệt trong dao động có tính chất điều hòa
43 p | 62 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy - học qua việc tích hợp nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu trong bài 14 và 15 Địa lí 12
32 p | 32 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Sinh học theo tiếp cận năng lực ở trường Trung học phổ thông Mường Luân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên
28 p | 37 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hoạt động khởi động (Warm up) tích cực trong dạy học Listening Tiếng Anh lớp 10 – Chương trình thí điểm
17 p | 13 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đọc - hiểu “phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu theo thể loại
20 p | 24 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Áp dụng một số trò chơi vận động nhằm nâng cao sức bền cho học sinh nữ khối 10 Trung Học Phổ Thông
55 p | 42 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn