intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đổi mới kĩ năng đọc hiểu truyện cổ tích Tấm Cám trong giảng dạy theo đặc trưng thi pháp thể loại

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:42

30
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Làm thế nào để học sinh có cách tiếp cận mới, có cách nhìn đa chiều, thoát khỏi sự dập khuôn? Đó chính là mục đích của sáng kiến. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đổi mới kĩ năng đọc hiểu truyện cổ tích Tấm Cám trong giảng dạy theo đặc trưng thi pháp thể loại

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu   Chuyển trọng tâm từ giáo dục tri thức sang giáo dục năng lực cho người học  là tư  tưởng đổi mới trong giáo dục Việt Nam hiện nay. Dạy học môn Ngữ  văn  ở  trường phổ thông cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Bên cạnh nhiệm vụ cung   cấp kiến thức, dạy học văn còn nhằm hình thành, bồi dưỡng và phát triển các kỹ  năng, năng lực văn học, phát huy sự chủ động, sáng tạo của học sinh. Vì vậy, việc  đổi mới phương pháp dạy học, tìm hướng tiếp cận mới trong dạy học môn Ngữ  văn, tạo hứng thú, nâng cao năng lực học tập, giúp học sinh cảm nhận được cái hay,  cái đẹp, biết cảm thông, yêu thương chia sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua  mỗi trang sách, là điều rất cần thiết.  “Văn học là nhân học” giúp hình thành nhân  cách con người. Từ  đó khơi gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về  với   giá trị đời sống tâm hồn của con người. Những thay đổi về  phương pháp dạy học  trong môn Ngữ  văn nói riêng và  trong giáo dục nói chung đã làm chuyển đổi toàn bộ  cách dạy và học trong nhà  trường. Nếu không tiếp cận và thay đổi nhận thức đánh giá, kết quả  học tập của  học sinh sẽ  theo một hướng khác và không phù hợp với yêu cầu, mục tiêu đặt ra   trong đổi mới. Với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học  tập của học sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm tòi, xây dựng hướng tiếp cận mới,   phương pháp mới để  phát huy tính tích cực sáng tạo của người học. Luận ngữ  có  câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”.  Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ  lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta. Trong chương trình Ngữ  văn THPT các tác phẩm đưa vào giảng dạy khá  nhiều, phong phú về thể loại từ văn học dân gian đến văn học trung đại. Đặc biệt  trong số  đó văn học dân gian, chương trình lớp 10 chiếm vị  trí đặc biệt quan  trọng, là bộ phận chính của nền văn học và văn hóa của mỗi dân tộc; là cây đàn  muôn điệu, cội nguồn của văn học viết.  Nhiều thể  loại  văn  học  viết  được  xây  dựng  và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác  phẩm , nhiều hinh ̀   tượng  do  văn  học  dân  gian  tạo  nên  là  nguồn  cảm  hứng,  là  thi liệu, văn liệu của văn học viết.  Văn học dân gian rất đa dạng với nhiều thể loại như: tục ngữ, câu đố, thần  thoại, truyền thuyết, truyện cổ  tích…Trong đó, truyện cổ  tích là một thể  loại tiêu   biểu của văn học dân gian nói chung và các thể loại tự sự nói riêng. Truyện cổ tích   là di sản văn hóa tinh thần phong phú, có giá trị  tồn tại lâu dài trong lịch sử  hình   thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Truyện cổ tích thể hiện tập trung và sáng   tỏ  thế  giới quan và nhân sinh quan của người dân lao dộng, đấu tranh xã hội cho  một cuộc sống tốt đẹp hơn theo những khát vọng, ước mơ lí tưởng của nhân dân. 1
  2. Bước vào thế  giới truyện cổ  tích, thế  giới của trí tưởng tượng phong phú,  người đọc dù bất kì đối tượng nào cũng cảm thấy thích thú. Điều đó khẳng định   sức hấp dẫn đặc biệt của thể loại này trong hệ thống các tác phẩm tự sự dân gian.   Sống trong thế  giới đó, người đọc hồn nhiên hơn, thanh thản hơn với những bài  học nhân sinh nhuốm màu kì diệu, rồi từ  đó giải mã những hồi  ức của quá khứ  người xưa gửi gắm. Quá trình tiếp cận truyện cổ  tích hết sức hấp dẫn, thú vị. Truyện cổ  tích  được coi là thể  loại mang chức năng giáo dục là chủ  yếu, bồi đắp thái độ  thẩm   thấu cái đẹp. M. Gorki từng viết: Trong các truyện cổ tích, điều trước tiên có tác   dụng giáo dục là sự hư cấu. Chính trong sự bay bổng có thể xem là “tiền thân của  loại truyện viễn tưởng về xã hội” đã cuốn hút tạo ra hứng thú tiếp cận và từ đó mở  ra những bài học đạo đức nhân sinh. Do đó truyện cổ  tích góp phần giáo dục cho   học sinh giá trị nhân văn, những phẩm chất tốt đẹp trong truyền thống văn học, tinh   thần của dân tộc Việt Nam. Tuyện cổ tích Tấm Cám là một trong những tác phẩm tiêu biểu, có tính phổ  biến rộng rãi nhất. Giá trị  của tác phẩm đã được khẳng định qua hàng ngàn năm  trong đời sống tinh thần của người Việt. Chọn truyện cổ tích  Tấm Cám làm đề tài  cho sáng kiến kinh nghiệm, tôi mong muốn giáo viên và học sinh có cái nhìn sâu hơn   về tác phẩm. Vì khi đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 10 thì xung quanh tác   phẩm này vẫn còn nhiều tranh cãi trong xã hội và cả  trong giới học thuật. Nhất là   chi tiết Tấm trừng phạt Cám  ở  cuối tác phẩm. Việc định hướng để  học sinh hiểu   đúng về nhân vật Tấm và hiểu thấu đáo về ý nghĩa của hành động ở cuối tác phẩm  là vấn đề  không hề  đơn giản. Phải xem xét vấn đề  từ  đặc trưng thi pháp thể  loại  của truyện cổ  tích và VHDG. Mặt khác, một số  giáo viên khi dạy truyện cổ  tích  vẫn dạy theo lối cũ. Nghĩa là dạy học truyện cổ tích như dạy học truyện hiện đại.   Tác giả Nguyễn Xuân Lạc đã chỉ  ra: “ giáo viên đồng nhất dạy học truyện cổ  tích   với văn học viết”. Thậm chí một số giáo viên còn coi nhẹ thể loại này, cho rằng nó  ít có giá trị  hay không quan trọng. Điều đó đã  ảnh hưởng đến chất lượng day học   truyện cổ tích Tấm Cám nói riêng và truyện cổ tích nói chung.  Với những lí do cơ bản như trên, cùng với kinh nghiệm của bản thân, tôi xin   trình bày đề tài Đổi mới kĩ năng đọc hiểu TCT Tấm Cám trong giảng dạy theo đặc   trưng thi pháp thể  loại.  Qua đề  tài này, tôi muốn nhắn gửi đến các em học sinh:  trong vòng quay của xã hội hiện đại, có những giá trị đang bị lung lay thì việc giáo  dục các em có niềm tin vào cuộc sống, được nuôi dưỡng và phát triển nhân cách,  khả năng thẩm mĩ trong những sáng tạo tuyệt vời bằng trí tưởng tượng táo bạo và  nên thơ  của truyện cổ tích là điều vô cùng cần thiết để  từ  đó biết sống bao dung,   cảm hóa những con người lầm đường lạc lối.  1. Tên sáng kiến Đổi mới kĩ năng đọc hiểu TCT “Tấm Cám” trong giảng dạy theo đặc trưng  thi pháp thể loại. 2
  3. 2. Tác giả sáng kiến Họ và tên: Phạm Thị Thùy Giang Địa chỉ tác giả sáng kiến: Giáo viên trường THPT Yên Lạc 2 Số điện thoại: 0975485402. E_mail: bongbang0910    @gmail.com     4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến Phạm Thị Thùy Giang – Trường THPT Yên Lạc 2 – Vĩnh Phúc 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Áp dụng trong giảng dạy học sinh lớp 10 môn Ngữ  văn, đặc biệt là các lớp  chuyên văn và bồi dưỡng học sinh tham gia kì thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ văn. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu Lần 1: Năm học 2017­ 2018, áp dụng ở lớp 10C Lần 2: Năm học 2019­ 2020, áp dụng ở lớp 10A1 7. Mô tả bản chất sáng kiến 7.1. Tổng quan về các vấn đề nghiên cứu 7.1.1. Mục đích nghiên cứu Làm thế nào để  học sinh có cách tiếp cận mới, có cách nhìn đa chiều, thoát   khỏi sự  dập khuôn? Đó chính là mục đích của sáng kiến mà tôi muốn thực hiện. Từ đặc trưng thể loại truyện cổ tích, giáo viên định hướng cho học sinh hiểu  được ý nghĩa của các mâu thuẫn, xung đột và cuộc đấu tranh giữa Tấm và mẹ  con  Cám, từ  đó hiểu đúng bản chất của nhân vật Tấm cũng như  giá trị  của truyện cổ  tích Tấm Cám,  ở hiền gặp lành, ác giả  ác báo. Đó cũng chính là ước mơ  của nhân  dân lao động gửi gắm vào truyện cổ  tích thần kì. Đồng thời qua  Tấm Cám  thấy  được  giá trị  nghệ  thuật của việc sử dụng yếu tố kì ảo và lối kể  truyện hấp dẫn  với kết thúc có hậu của tác giả  dân gian đã tạo nên giá trị  đặc sắc của truyện cổ  tích nói chung và truyện cổ tích thần kì nói riêng. Như  vậy, chúng ta hiểu tác phẩm văn học dân gian theo đúng đặc trưng thi  pháp thể loại sẽ tạo cho học sinh sự hứng thú, kích thích sự tò mò, sáng tạo của học   trò. 7.1.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu của tôi là kĩ năng đọc hiểu truyện cổ tích và tác phẩm   Tấm Cám theo đặc trưng thi pháp thể loại.  Phạm vi nghiên cứu: Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám,  đặc biệt là hành  động Tấm trừng phạt mẹ con Cám ở cuối truyện. 7.1.3. Phương pháp nghiên cứu Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những phương   pháp chủ yếu: ­ Phương pháp nghiên cứu lí luận ­ Phương pháp thống kê, nêu ví dụ. ­ Phương pháp phân loại, phân tích. ­ Phương pháp đóng vai 3
  4. ­ Phương pháp tổng hợp.  ­ Phương pháp thực nghiệm sư phạm 7.2.  Nội dung sáng kiến 7.2.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc đổi mới kĩ năng đọc hiểu TCT  Tấm Cám theo đặc trưng thi pháp thể loại 7.2.1.1.  Khái niệm kỹ năng Kỹ  năng  là một khái niệm phức tạp, có nhiều cách định nghĩa quan niệm  khác nhau. Theo từ điển tiếng việt phổ thông: kỹ năng hiểu một cách chung nhất là  khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào  thực tế. Có quan niệm cho rằng: kỹ  năng đồng nghĩa với việc nắm vững các cách  thức của hành động, quan niệm khác lại cho là: kỹ  năng nghiêng về  mặt năng lực  của con người. Nguyễn Thanh Hùng quan niệm  kỹ năng là  kết hợp nhuần nhuyễn   giữa hiểu biết ­ năng lực và những thao tác tri giác của chủ thể hoạt động trong một   lĩnh vực. Như  vậy có nhiều quan niệm khác nhau về  khái niệm kỹ  năng. Tóm lại có   thể hiểu, kỹ năng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tri thức và kỹ thuật hành động,  là sự thực hiện có kết quả một hành động theo một yêu cầu, mục đích nhất định. *  Kỹ năng tiếp nhận văn học Theo từ điển thuật ngữ văn học, tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh  các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản   ngôn từ, hình tượng nghệ  thuật, tư  tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ  thuật cho   đến sản phẩm sau khi đọc, cách hiểu ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt  động sáng tạo. Trong thực tiễn nghiên cứu và dạy học có một số  khái niệm được sử  dụng   với nội hàm tương đương tiếp nhận, chẳng hạn “lĩnh hội” hay “cảm thụ”. Khái  niệm lĩnh hội dễ gợi hàm ý thụ  động. Khái niệm “cảm thụ” thường gắn với việc   thưởng thức các tác phẩm văn chương hình tượng bởi nó yêu cầu có sự  tham gia  của nhiều yếu tố, năng lực đọc văn đặc thù như  cảm xúc, tưởng tưởng, tri giác   ngôn ngữ nghệ thuật. Có thể hiểu, kỹ năng tiếp nhận tác phẩm văn học nhà trường   là sự thực hiện linh hoạt, sáng tạo, có kết qủa các thao tác theo một trình tự hợp lí  để tiếp cận, khám phá thưởng thức giá trị  nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm   văn học trong nhà trường trên cơ sở các tri thức về tác giả, tác phẩm và các tri thức  khác có liên quan. Trong xu thế  đổi mới giáo dục hiện nay, rèn luyện kỹ  năng cho học sinh là  một trong ba mục tiêu của dạy học nói chung, dạy văn nói riêng. Để hoạt động tiếp   nhận văn chương của học sinh mang tính tích cực, chủ động, linh hoạt và hiệu quả.  *  Kỹ năng đọc hiểu 4
  5. Từ trước đến nay, câu hỏi trong dạy học luôn được xem là một trong những  cách thức tích cực hóa vai trò của người học. Đó là một trong những công cụ  quan   trọng để hướng dẫn người học chiếm lĩnh tri thức và hình thành kỹ năng. Chương   trình Ngữ văn những năm gần đây được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực, hệ  thống câu hỏi   đọc hiểu văn bản không đơn giản chỉ  là hướng dẫn học sinh thu  nhận kiến thức về nội dung của văn bản mà còn phải hướng đến việc hình thành  và rèn luyện năng lực đọc hiểu cho người học.   Đọc là tiến trình tạo nghĩa từ  văn  bản viết. Trong quá trình tạo nghĩa từ văn bản, người đọc kết hợp những gì họ biết  về  thế  giới, về  đề  tài của văn bản, về  cấu trúc ngữ  pháp của ngôn ngữ  được sử  dụng trong văn bản, và cái cách mà ngôn ngữ nói có liên quan đến những ký tự, từ  ngữ, yếu tố  hình  ảnh và những kí hiệu trên trang sách . Để  người học có thể  phát  huy tối đa vai trò của mình thì các nhà giáo dục phải xây dựng được một môi  trường giáo dục giúp học sinh có thể  sử  dụng năng lực tư  duy  ở  mức tối đa. Môi  trường ấy sẽ được xây dựng bằng các hoạt động tương tác giữa giáo viên với học   sinh và giữa học sinh với nhau mà hệ thống câu hỏi là công cụ quan trọng để “kích   hoạt” và dẫn dắt những hoạt động tương tác đó. Việc sử dụng câu hỏi trong những   tình huống dạy học nhất định sẽ đòi hỏi học sinh phải vận dụng các thao tác tư duy  như phân tích, so sánh, phán đoán,  suy luận, đánh giá và giải quyết vấn đề. Qua quá  trình giải quyết vấn đề, học sinh vừa lĩnh hội kiến thức, hình thành kỹ năng vừa rèn  luyện tư duy 7.2.1.2. Thực trạng giảng dạy TCT Tấm Cám trong chương trình lớp 10  ở trường phổ thông Môn Ngữ  văn không chỉ  là một môn khoa học như  những môn học khác mà   nó còn mang những đặc thù riêng của một môn nghệ  thuật ­ nghệ  thuật ngôn từ.  Khi xem xét một tác phẩm văn học ta phải xem xét cả những yếu tố trong văn bản   và yếu tố ngoài văn bản. Nếu không có một quan điểm tiếp cận đúng đắn và khoa  học dẫn đường thì phương pháp dạy học văn chắc chắn sẽ gặp những sai lầm và   thiếu sót. Nhìn chung giáo viên đều thừa nhận tầm quan trọng của việc kiểm tra đánh   giá kỹ năng đọc hiểu. Tuy nhiên, thực trạng dạy học ở trường phổ thông cho thấy,   giáo viên chưa chú ý đúng mức, học sinh chưa nắm được các thao tác cần thiết dẫn  đến khả năng phát hiện và phân tích luận điểm còn yếu. Chẳng hạn khi tìm hiểu về  TCT Tấm Cám, người thầy cần hướng cho các em tìm hiểu dưới góc độ  thi pháp,  thể loại. Thi pháp học là cách thức tiếp cận tác phẩm bám vào văn bản là chính, ít   đi sâu vào những vấn đề nằm ngoài văn bản như: hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu  nhân vật, tác dụng xã hội. Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình thức nghệ  thuật như: không gian, thời gian, nhân vật, kết cấu, cốt truyện, điểm nhìn, ngôn  ngữ…. của tác phẩm văn học. Để  giải mã được nội dung, tư  tưởng của tác phẩm   cần phải tiếp cận hình thức nghệ thuật của nó. Bởi tác phẩm văn học là chỉnh thể  thống nhất của hai mặt hình thức và nội dung. Hình thức là sự  biểu hiện của nội   5
  6. dung. Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học chủ  thể  tiếp nhận cần phải nắm vững   mối quan hệ biện chứng giữa hình thức và nội dung. Tuy nhiên trong thực tế giảng   dạy văn, không ít cách dạy, cách học vi phạm nguyên tắc tách nội dung ra khỏi hình   thức. Học tác phẩm văn học nhưng thoát ly văn bản (nhất là với các tác phẩm dài),   có rất nhiều hiện tượng dạy tác phẩm văn chương nhưng lại tìm hiểu qua loa văn   bản, học sinh học đôi khi chỉ  học lướt qua văn bản, giáo viên thì chỉ  coi trọng tìm   “ý”, vì thế mới có tình trạng dạy thơ không cần thuộc, dạy truyện không không cần  kể  mà chỉ  nêu ý chính.  Do áp lực thi cử, hiện nay, tình trạng giáo viên “đọc hộ”,  “hiểu hộ”, “cảm thụ hộ” học sinh diễn ra khá phổ biến. Trong các giờ đọc hiểu văn   học, học sinh thường nghe và chép lại những bài giảng của giáo viên hơn là tự mình   cảm thụ, tìm kiếm, khám phá văn bản. Giáo viên chưa có các biện pháp cụ thể thể để tổ chức, hướng dẫn học sinh   rèn kỹ năng đọc, cảm thụ một cách phù hợp có hiệu quả. Khi kiểm tra đánh giá chỉ  tái hiện lại những lời thầy cô dạy để  cốt sao cho đủ ý, cho có điểm mà không cần  phải tư duy hay rung động những cái hay cái đẹp của văn bản. Do đó yêu cầu đặt ra   là phải có phương pháp giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Thực tế ở một số giáo viên, việc đổi mới phương pháp dạy học chưa được   sâu, hình thức tổ chức dạy học còn đơn giản, nghèo nàn, còn sử dụng nhiều phương  pháp dạy học truyền thống. Bên cạnh đó, một số giáo viên chưa thực sự nhiệt tình  trong những giờ lên lớp. Họ cứ bám theo nội dung kiến thức trong chương trình mà   giảng dạy một cách cứng nhắc (lên lớp đầy đủ 5 bước, truyền đạt kiến thức chạy  theo thời gian tiết học, thầy đọc – trò ghi chép, kiểm tra bài cũ của học sinh qua   hình thức học thuộc lòng nội dung kiến thức trong vở…) khiến cho tiết học khô  khan, thiếu sức sống và buồn tẻ. Một số thầy cô đã áp dụng phương pháp dạy học  mới nhằm phát huy tính tích cực của học sinh như: tổ chức trò chơi, thuyết trình…   nhưng rất ít giáo viên áp dụng phương pháp dạy học lồng ghép.  Việc tìm hiểu tác phẩm quá chú trọng nội dung tư tưởng tác phẩm trong dạy  học văn trong một thời gian dài đã gây hậu quả  nghiêm trọng. Chất nghệ  thuật,   chất văn đã bị thủ  tiêu, giờ  văn như một giờ  giảng đạo đức, một giờ  bàn luận về  những vấn đề lịch sử, chính trị, xã hội …người học trở lên chán học, người dạy thì  quen với cách dạy như  vậy, ít chịu tìm tòi, khám phá, sáng tạo mà coi đó là những  lối mòn trong đời dạy học. Chất lượng giờ dạy vì thế mà ngày càng đi xuống, môn  Văn ngày càng mất đi vị thế quan trọng của mình trong việc trang bị kiến thức khoa   học, nghệ  thuật, và quan trọng hơn là thiên chức giáo dục nhân cách đạo đức cho  học sinh. Cách dạy tác phẩm văn chương từ hướng tiếp cận thi pháp học nhằm trang  bị cho học sinh những tri thức lí thuyết văn học, giúp các em tiếp cận văn bản văn   học một cách bài bản, thấy hết được cái hay cái đẹp của một chỉnh thể thẩm mĩ, từ  đó hình thành năng lực giải mã các tác phẩm văn chương, bồi dưỡng khả  năng tự  6
  7. học và niềm đam mê đối với văn chương ngay cả  khi các em không còn ngồi trên  ghế nhà trường. Thiết nghĩ đây là một việc làm cấp thiết và đầy ý nghĩa. Khám phá tác phẩm theo đặc trưng thi pháp giúp học sinh dễ dàng trong việc   luyện các dạng đề  so sánh để  thấy được sự  giống nhau và khác nhau giữa các tác   phẩm. Từ đó có thể lý giải sự khác nhau dựa trên đặc trưng thi pháp bởi vì mỗi giai   đoạn văn học. Thông qua việc liên hệ so sánh giữa các tác phẩm theo chiều ngang,   học sinh không chỉ  được học theo chủ  đề  mà còn nâng cao năng lực cảm thụ  tác   phẩm từ tái hiện hình tượng tác phẩm lên liên tưởng cảm nhận và biết cách nhận   thức, đánh giá vấn đề. Chính vì vậy, chúng tôi xin đưa ra định hướng dạy học văn   học theo hướng tiếp cận thi pháp theo đặc trưng thể  loại đối với tác phẩm truyện  cổ tích Tấm Cám. 7.2.2. Một số  phương pháp tiếp cận TCT  Tấm Cám  theo đặc trưng thi  pháp thể loại 7.2.2.1. Khái quát về văn học dân gian VHDG là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản phẩm của quá   trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau   trong đời sống cộng đồng. * Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian VHDG là những tác phẩm nghệ  thuật ngôn từ  truyền miệng: đây là dặc trưng  nổi bật nhất tạo nhật tạo nên điểm khác biệt rất cơ bản giữa văn học dân gian và   văn học viết. Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian (từ vùng  này qua vùng khác), hoặc theo thời gian (từ đời trước đến đời sau).  Quá trình truyền  miệng thường được thực hiện thông qua diễn xướng ­ tức là hình thức trình bày tác   phẩm một cách tổng hợp (nói, hát, kể).   Ảnh hưởng: Làm cho tác phẩm văn học dân gian được trau chuốt, hoàn thiện,   phù hợp hơn với tâm tình của nhân dân lao động. Tạo nên tính dị  bản (nhiều bản  kể) của văn học dân gian. Văn học giân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể. Quá trình sáng tác  tập thể: cá nhân khởi xướng ­   tập thể  hưởng  ứng (tham gia cùng sáng tạo hoặc   tiếp nhận) cùng tu bổ, sửa chữa, thêm bớt cho phong phú, hoàn thiện. Trong    khi  tham gia lao động sản xuất, mọi người thường có những câu ca hay những câu   chuyện hay kể cho cả một tập thể nghe. Đã có những câu hò hay những điệu nhạc   reo vang, nó trở thành những tác phẩm vẻ vang trong thời kì lịch sử . Ngoài ra, văn học dân gian còn có tính thực hành, là sự gắn bó và phục vụ  trực  tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. * Nhưng ̃  giá trị cơ ban ̉  của Văn hoc̣  dân gian Viêṭ  Nam. Giá  trị  nôị  dung: phản ánh chân thực cuộc sống lao động, chiến  đấu để dựng  nước  và  giữ  nước  của  dân  tộc; thể hiện truyền thống dân chủ và tinh thần nhân  văn của nhân dân; bộc lộ đơì sống tâm hồn phong phú, tinh tế và sâu sắc của nhân  7
  8. dân (yêu đời, lạc quan,  yêu  cái  thiện,  cái  đẹp  trong  cuộc  sống,  căm  ghét  cái  xấu,  sự  độc  ác,  sống  tinh ̀   nghia, ̃   thuỷ  chung,...); tông ̉   kết  những  tri  thức,  kinh  nghiệm  của nhân dân về mọi linh ̃  vực trong mối quan hệ  giữa con ngươì với tự nhiên, xã  hội và chinh́  bản thân mình. Giá trị nghệ thuật: xây dựng được những hình ảnh nhân vật đẹp, tiêu biểu cho   truyền thống quý báu của dân tộc; văn học dân gian là nơi hình thành nên những thể  loại văn học cơ bản và tiêu biểu của dân tộc do nhân dân lao động sáng tạo nên. Văn  học dân gian còn là kho lưu trữ những thành tựu nghệ thuật mang đậm bản sắc dân  tộc mà các thế hệ đời sau cần học tập và phát huy. * Vai trò của  văn hoc̣  dân gian ̣  trong đơì sống tinh thâǹ  của  xã hôi:  Vai trò và  tać  dung ̣ văn học dân gian nêu  cao những bài học về phẩm chất tinh thần, đạo đức, truyền thống  tốt đẹp của dân  tộc:  tinh thần nhân đạo,  lòng  lạc  quan, ý  chi đ ́ ấu tranh  bền bỉ  để  giải  phong ́   con  ngươì khỏi bất công, ý chí độc lập, tự cương, ̀  niềm tin bất diệt vào cái thiện... Văn  học  dân  gian  goṕ   phần  quan  trọng  bồi  dưỡng  cho  con  ngươì  những  tinh ̀   cảm  tốt  đẹp, cách nghi,̃ lối sống tich ́  cực và lành mạnh.  Vai trò, tać  dụng trong nêǹ  văn hoc̣  dân tôc̣ : nhiều tác phẩm văn học dân gian  đã  trở  thành  những  mâũ   mực  về  nghệ  thuật  của  thơì  đại đã  qua mà  các  nhà văn  cần học tập để sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị. Văn học dân gian mãi mãi là  ngọn nguồn nuôi dưỡng, là cơ sở của văn học viết về các  phương diện đề tài, thể  loại, văn liệu,... * Môṭ  số lưu ý về phương phap ́  đoc̣  – hiểu văn hoc̣  dân gian. Để hiểu đúng  văn bản văn học dân gian, chúng ta cần chú ý một số vấn đề  sau: ­ Nắm vững đặc trưng của thể loại, bởi lẽ không một nét độc đáo nào của  một tác phẩm  văn  học  dân  gian  cụ  thể  lại  vượt  ra  khỏi  những  đặc  trưng  cơ  bản  của  thể  loại.  Cần  lấy  những đặc trưng chung  về thể loại làm căn cứ để  đọc hiểu những tác phẩm cụ thể. ­ Muốn  đọc  hiểu  chinh ́   xác  một  tác  phẩm  văn  học  dân  gian,  cần  đặt  nó  vào  trong  hệ  thống  những  văn  bản  tương  quan,  thich ́   ứng  (về  đề  tài,  thể  loại,  cách diễn đạt) ­ Trong  quá  trinh ̀   thành,  biến  đôi, ̀   hinh ̉   lưu  truyền,  tác  phẩm  văn  học  dân  gian  luôn  gắn  bó  mật  thiết  và  phục  vụ  trực  tiếp  cho  các  hinh ̀   thức  sinh  hoạt  cộng  đồng khác nhau (gia đinh, ̀  xã hội, tôn giáo, tin ́  ngưỡng, phong tục, tập quán,  lao  động,  vui  chơi,  ca hát,  lễ  hội,...)  của  nhân  dân.  Bởi  thế,  để  đọc  hiểu  chinh ́   xác và sâu sắc ý nghiã  tác phẩm, cần đặt nó  trong  mối quan hệ với các hinh ̀  thức  sinh hoạt cộng đồng. 7.2.2.2. Khái quát về truyện cổ tích  * Khái niệm: 8
  9.   Truyện cổ tích là tác phẩm tự sự dân gian, cốt truyện và hình tượng được hư  cấu có chủ định kể  về số phận con người bình thường trong xã hội  thể  hiện tinh   thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động. Trong truyện có một số  kiểu nhân vật chính: nhân vật bất hạnh (người mồ  côi, con riêng, người em út, người có hình dạng xấu xí,...), nhân vật có tài năng kì  lạ, nhân vật thông minh, nhân vật ngốc nghếch, nhân vật là động vật (các con vật  biết nói năng, có hoạt động và tính cách như con người,...). Truyện cổ tích thường  có những yếu tố  hoang đường, kì  ảo, đóng vai trò cán cân công lí, thể  hiện khát  vọng công bằng, mơ ước và niềm tin của nhân dân về sự chiến thắng của cái thiện  đối với cái ác, cái tốt với cái xấu... * Phân loại: Truyện cổ tích được chia làm ba loại: Truyện cổ  tích về loài vật: nhân vật chính là các con vật. Từ việc giải thích  những đặc điểm, thói quen, quan hệ của các con vật, tác giả dân gian đúc kết những  kinh nghiệm về thế giới loài vật và các vấn đề đạo đức, kinh nghiệm sống trong xã   hội loài người. Truyện cổ tích sinh hoạt: kể về sự thông minh, sắc sảo, tài phân xử của các  nhân vật gắn với đời thực, ít có hoặc không có các yếu tố thần kì. Truyện cổ  tích thần kì: có nhiều yếu tố  thần kì, kể  về  các nhân vật như  người em út, người mồ côi, người có tài năng kì lạ... Truyện cổ tích thần kì ra đời từ giai đoạn cuối của xã hội nguyên thủy, phát  triển mạnh trong xã hội có giai cấp, nên đề tài của truyện cổ tích thần kì chủ yếu  hướng đến những vấn đề như:            + Phản ánh hiện thực xã hội phân chia giai cấp, kể về số phận của những  kiểu nhân vật người con riêng, người em, người lao động bất hạnh, người dũng sĩ  người mang lốt, người thông minh, tài giỏi.            + Phản ánh ước mơ công lí, ước mơ đổi thay số phận cho những nhân vật  bất hạnh.            + Nêu những bài học theo quan điểm đạo đức của nhân dân như nghĩa bạn  bè, tình vợ chồng, lòng yêu thương con người với bức tranh phản chiếu muôn vàn  nỗi éo le, phức tạp trong quan hệ xã hội. Truyện cổ tích là thể loại tự sự dân gian, nên những yếu tố thi pháp cơ  bản  cần được khảo sát ở  truyện cổ  tích là hệ  thống nhân vật, kết cấu, cốt truyện (mô   típ, típ) yếu tố  thần kì. Nhân vật chính: nếu như  nhân vật chính của thần thoại là  các vị thần, nhân vật chính của truyền thuyết là các nhân vật lịch sử có tầm vóc lớn  lao đối với lịch sử  dân tộc hoặc một địa phương nào đó thì nhân vật chính trong  truyện cổ  tích thần kì là những người lao động bình thường, chịu nhiều bất hạnh,  thua thiệt trong cuộc sống. Phân tích truyện cổ tích phải chú ý đến phương pháp so   sánh loại hình, nghĩa là đặt truyện hay nhân vật trung tâm trong kiểu truyện hay   kiểu nhân vật cùng loại.  7.2.2.3. Truyện cổ tích Tấm Cám 9
  10. Truyện cổ tích Tấm Cám thuộc loại cổ tích thần kì.  Kiểu truyện Tấm Cám  phổ  biến  ở  nhiều dân tộc khác nhau trên thế  giới. Ví dụ  như  Cô Lọ  Lem  (Pháp),  Chiếc hài cườm pha lê (Đức), Nàng Diệp Hạn (Trung Quốc). Dù tên gọi khác nhau  nhưng chúng có điểm chung về  nội dung là: Phản ánh số  phận của những con  người nhỏ bé, bất hạnh, thể hiện ước mơ về sự công bằng, dân chủ, hạnh phúc. *Tóm tắt truyện Cổ tích Tấm Cám theo nhận vật Tấm bằng sơ đồ  tư duy và  bằng hình ảnh minh họa Mồ côi cha  Bị dì ghẻ bắt làm  Sống với dì  việc vất vả Phải làm việc  Bị tước đoạt tài  Hoàn  Hiền lành quần quật ngày  sản    (yếm đào, cá  cảnh yếu đuối cam chịu Không được đi xem  hội Nhân vật Tấm Nhiều lần hóa thân Mạnh mẽ  Tấm hồi sinh Sức phản kháng  Trừng  quyết  mạnh mẽ trị cái  chống lại  Trừng phạt mẹ con  cái ác ác Cám yếu  đuối cam  chịu 10
  11. 11
  12. 7.2.2.4. Liệt kê các sự việc và chi tiết tiêu biểu trong TCT Tấm Cám 12
  13. Sự Việc  Chi tiết Tấm và Cám đi bắt con tôm cái tép. Chiếc yếm đỏ. Tấm bị Cám lừa hết giỏ tép. Tấm khóc. Bụt hiện lên. Cá bống bị giết. Cám rình Tấm cho bống ăn. Con cá chỉ còn bộ xương. Tấm khóc.  Bụt hiện lên. Tấm đi dự hội. Dì   ghẻ   trộn   thóc   với   gạo   bắt   Tấm   nhặt. Tấm khóc. Bụt hiện lên. Trên đường đi dự hội. Tấm đánh rơi chiếc giày.  Tấm vào cung. Cuộc thi thử giày của nhà vua. 13
  14. 7.2.2.5. Quá trình phát triển mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám Từ những sự việc và chi tiết tiêu biểu đã nêu ở trên, giáo vên định hướng cho   hoc sinh phân tích quá trình phát triển mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ  con Cám. Quá   trình này được chia thành hai chặng. Sự  phân chia thành các chặng giúp học sinh   thấy rõ được sự phát triển và thay đổi trong tính cách của nhân vật Tấm và sự tăng  lên về mức độ độc ác trong hành động của mẹ con Cám. * Chặng 1: Mâu thuẫn xung đột giữa Tấm và mẹ con Cám Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám phản ánh mâu thuẫn trong gia đình phụ  quyền thời cổ nói riêng; mâu thuẫn giữa lao động và bóc lột, giữa thiện và ác trong  xã hội nói chung. Tấm đại diện cho loại nhân vật mồ côi: chăm chỉ, hiền lành, nhân  hậu (mải miết bắt được đầy giỏ  tôm tép không quản trời nắng, bớt phần ăn dành   nuôi bống, cho trâu đi ăn thật xa…). Mẹ con người dì ghẻ  là hiện thân của cái ác:  Cám lừa chị xuống Tắm, trút hết giỏ  tôm tép của Tấm vào giỏ  của mình để  giành   chiếc yếm đỏ; mẹ con Cám rắp tâm lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để tiện bề bắt cá  bống – nguồn vui duy nhất của Tấm; trắng trợn trộn một đấu thóc vào một đấu  gạo để bắt Tấm ngồi nhặt, không dược đi hội do nhà vua mở. Mâu thuẫn đó từ chỗ xoay quanh quyền lợi vật chất và tinh thần trong cuộc   sống thường ngày, đến mức biến thành xung đột về  quyền lợi xã hội. Mâu thuẫn  phát triển ngày càng gay gắt, không thể  dung hòa, buộc phải giải quyết: mọi đau  khổ  tủi cực của Tấm đều bắt nguồn từ  mẹ  con Cám. Cô gái mồ  côi chỉ  biết khóc  khi bị lừa gạt, bị tước đoạt đến cả niềm vui nhỏ bé nhất.   Sự tham gia của các yếu tố thần kì: Tấm có được hạnh phúc nhờ sự giúp đỡ  của Bụt. Cách giải quyết mâu thuẫn như vậy thể hiện ước mơ của người lao động,  niềm tin của họ vào lẽ  công bằng trong đời sống thực còn quá mong manh và hầu   như khó có thể  thực hiện được. Tấm bị Cám lừa nên không được thưởng yếm đỏ,   chỉ biết khóc, Bụt xuất hiện an  ủi cô, bày cho cô cách nuôi bống để  làm bầu bạn.   Tấm bị  mất cá bống – được gà tìm xương, được Bụt cho hi vọng đổi đời. Tấm  không được đi hội – Bụt cho chim sẻ xuống giúp nhặt thóc ra khỏi gạo. Tấm gặp   vua và trử thành hoàng hậu.         * Chặng 2: Cuộc đấu tranh quyết liệt của Tấm để để giành lại sự sống   và hạnh phúc. Tấm trở  thành hoàng hậu nhưng cái ác vẫn đeo bám, vẫn tìm cách chiếm  đoạt tất cả những gì Tấm có được, muốn tiêu diệt Tấm đến cùng. Khác với chặng   1, ở chặng này, cuộc đấu tranh giữa Tấm và mẹ con Cám hết sức quyết liệt nhưng   ta không còn thấy Tấm khóc, cũng không thấy nhân vật Bụt xuất hiện. Chỉ  thấy,   sau mỗi lần hóa thân (chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, cây thị) , một cô Tấm  ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt để  đòi quyền sống, đòi lại hạnh phúc đã bị  Cám  cướp mất. Tấm thực sự bước vào cuộc đấu tranh một cách quyết liệt. Các yếu tố kì ảo ở phần này không thay thế Tấm trong cuộc đấu tranh quyết  liệt với mẹ con Cám, dường như nó là nơi Tấm hóa thân để trở lại đối đầu với kẻ  14
  15. ác, để giành lại sự sống và hạnh phúc. Lại một lần nữa người đọc cảm nhận được   quan niệm giản dị, thực tế  về  hạnh phúc của người lao động  : người tốt phải tự  mình tiêu diệt cái ác, để giành lại sự sống và hạnh phúc ; hạnh phúc chỉ có thể có ở  cuộc đời thực.  Sự hóa thân của Tấm không hẳn là do ảnh hưởng từ thuyết luân hồi của đạo   Phật, nếu có chăng, tác giả  dân gian chỉ mượn cái vỏ  ngoài để  thực hiện  ước mơ,   tinh thần lạc quan của người lao động mà thôi. Chi tiết Tấm ẩn mình trong quả thị  bước ra, trở lại làm người là một chi tiết có trị  thẩm mĩ cao, giống như Sọ  Dừa là  một cục thịt biết lăn tròn, biến thành chàng trai khôi ngô tuấn tú trong truyện Sọ  Dừa ; hay truyện lấy vợ cóc… Sau này, một lớp nghĩa mới mang tính hiện đại hơn  được gửi gắm  ở  chi tiết biến hóa cuối cùng của Tấm,  đó là nội dung tốt  đẹp  thường được ẩn dưới một hình thức bình thường thậm chí xấu xí. 7.2.2.6. Hành động của Tấm trừng phạt mẹ con Cám ở cuối truyện  * Bàn về hành động của Tấm trừng phạt Cám và thiện, ác trong tác phẩm. Kết thúc truyện Tấm Cám là kết thúc có hậu: mẹ  con Cám bị  trừng trị  đích  đáng; cô Tấm mồ  côi bị đầy đọa sau bao lần chết đi sống lại cuối cùng vẫn được  gặp nhà vua, sống cuộc sống hạnh phúc. Phần kết thúc truyện cổ tích này có nhiều dị bản.  Đã có rất nhiều ý kiến cho  rằng truyện cổ  tích  Tấm Cám  thiếu tính giáo dục, rằng sự  “trả  thù” của Tấm là  “độc ác, man rợ” và đưa tác phẩm vào dạy sẽ  làm hỏng nhân sinh quan của học   sinh. Thậm chí nhiều ý kiến gay gắt hơn cho rằng, đưa một câu chuyện như  thế  vào chương trình là “phản giáo dục”. Như vậy, ta cần hiểu thế nào? Tôi cho rằng,  Tấm không ác và truyện cổ  tích  Tấm Cám  đầy tính giáo dục. Hãy hiểu đúng câu  chuyện, dụng ý của tác giả dân gian và hành động của Tấm ở cuối truyện.   Trước hết, tôi không đồng ý khi cho rằng hành động của Tấm là sự “trả thù”   mà phải hiểu đó là sự  “trừng phạt”. Tấm không hằn thù nhưng Tấm phải hành  động bởi không còn cách nào khác. Trải qua bao nhiêu kiếp hóa thân và hành động   của mẹ con Cám với mục đích quyết liệt là không để  Tấm có thể  tồn tại trên cõi  đời dưới bất kì hình thức nào từ  một sinh vật sống, đến một cái cây hay một vật   như vô tri là khung cửi. Bụt không trừng phạt bởi vai trò của Bụt chỉ là cứu vớt và  mang đến hạnh phúc cho những người hiền lành, lương thiện. Vua không trừng  phạt bởi trong câu chuyện này, vua chỉ  có vai trò là phần thưởng xứng đáng cho  những gì Tấm đáng được hưởng.      Vậy lúc này, không thể xem xét Tấm là một cá nhân, một bà hoàng hậu hay  một người con mồ côi, một người chị cùng cha khác mẹ  với Cám. Hành động của   Tấm không thể và không được hiểu là mang ý nghĩa tư thù cá nhân. Tấm đại diện  cho cái thiện đang đối diện, đối đầu với cái ác. Tấm đại diện cho công lý, lẽ phải   và hình phạt đưa ra phải tương xứng với tội ác của mẹ con Cám. Thứ  hai, Tấm không ác bởi nếu kết luận Tấm ác cũng không khác gì kết  luận tư tưởng Phật ác. Phật răn dạy con người ta sống thiện, không nên sống ác bởi   15
  16. kẻ sống ác sẽ  bị trừng phạt, và hình phạt đó luôn tương xứng với tội ác mà người  đó gây ra ở kiếp sống. Có những hình phạt là cắt xẻo các bộ phận cơ thể, nấu trong   vạc dầu, bị lũ quỷ tra tấn hay đày xuống tận 18 tầng địa ngục, chịu mọi sự hành hạ,  muôn kiếp không được siêu sinh… Tạo nghiệp thì trả nghiệp, làm việc ác như thế  nào với người ta thì nhận lại đúng như thế cớ sao lại kêu người thi hành cái luật đó   là ác? Thứ  ba, sự  “trừng phạt” mẹ con Cám phải nhận mang một ý nghĩa răn dạy  quyết liệt bởi nếu chỉ là một cái chết nhẹ nhàng, có lẽ nó không khiến những kẻ có   dã tâm tàn độc phải run sợ. Làm nhiều việc ác sẽ phải nhận ở ngay sự trừng phạt ở  kiếp sống chứ không đợi đến kiếp sau. Đó có lẽ  là tư  tưởng ngăn chặn quyết liệt  cái ác của cha ông ta. Bản kể  được người biên soạn chọn đưa vào SGK chủ  yếu nhấn mạnh sự  chiến thắng của người tốt – cô gái bất hạnh, của cái thiện ; không đi quá sâu vào  phương thức trừng phạt kẻ ác. Đương nhiên vấn đề  này còn gây nhiều tranh luận.  Có lẽ một phần do sự nhận thức qua thời gian khác nhau về thi pháp truyện cổ tích  (tác giả dân gian không quan tâm đến sự trả  thù mà chỉ  quan tâm đến việc mẹ con   Cám đáng phải chịu sự trừng phạt cao nhất). Nhưng chủ yếu có thể là do đoạn kết   dễ  gây phản cảm đối với lứa tuổi học sinh lớp 10 nên tác giả  SGK đã lược bỏ  chăng ? Điều quan trọng theo chúng tôi,  Tấm Cám   thể  hiện rất rõ đặc trưng của  truyện cổ tích thần kì Việt Nam trên các phương diện: nhân vật chính là con người   nhỏ bé, bất hạnh; có sự tham gia của các yếu tố thần kì trong giải quyết mâu thuẫn  theo tư tưởng và tình cảm của tác giả dân gian.    7.2.2.7. Một số đoạn văn vần trong truyện cổ tích Tấm Cám Trong tác phẩm Tấm Cám, người đọc có thể  bắt gặp các đoạn văn vần xen   kẽ, chúng đều xuất hiện  ở  những đoạn chuyển từ  sự  kiện này sang sự  kiện khác  gắn liền với số phận của  nhân vật. Các đoạn này còn giúp người đọc, người nghe   dễ  nhớ, dễ  thuộc. Không những vậy, chúng còn góp phần thể  hiện thái độ, tình  cảm của người kể với các nhân vật tham gia trong truyện. Người viết có thể nêu ra   một số đoạn như sau: ­Vàng ảnh vàng anh/Có phải vợ anh/Chui vào tay áo? Quấn quýt với vua. 16
  17.   ­ Phơi áo chồng tao/Phơi lao phơi sào/ Chớ phơi bờ rào/Rách áo chồng tao!  Nhắc nhở Cám. 17
  18. ­ Cót ca cót két/ Lấy tranh chồng chị/Chị khoét mắt ra =>Răn đe, tuyên chiến với  Cám. ­ Thị ơi thị/ Thị rụng bị bà/ Bà để bà ngửi/ Chứ bà không ăn. 7.3. Khả năng áp dụng sáng kiến Sáng kiến đã được áp dụng vào dạy TCT Tấm Cám cho học sinh lớp 10C –  Trường THPT Yên Lạc 2. Ngoài ra, sáng kiến có thể áp dụng để giảng dạy môn  Ngữ văn lớp 10 bậc THPT ở nhiều trường trong tỉnh Vĩnh Phúc và nhiều tỉnh khác  trong cả nước. 8. Những thông tin bảo mật           Không có  18
  19. 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến  Để áp dụng phương pháp dạy học đổi mới kĩ năng đọc hiểu TCT Tấm Cám  trong giảng dạy theo đặc trưng thi pháp thể loại đạt kết quả tốt theo tôi, cần có  những điều kiện cơ bản sau: Sáng kiến có thể áp dụng hiệu quả khi có sự phối hợp, tạo điều kiện của nhà   trường và tổ  chuyên môn. Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, nhất là  phương pháp giảng dạy mới. Thay đổi hình thức sinh hoạt tổ  chuyên môn sao cho  đa dạng hơn không đơn thuần chỉ  là dự  giờ  – góp ý, mà tổ  chức hội thảo bằng   những chuyên đề cụ thể. Tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa hấp dẫn, đa dạng  nhằm gây hứng thú cho học.  Đối với giáo viên: cần nắm vững chuyên môn, rèn luyện, nghiên cứu, tìm tòi  các biện pháp gây hứng thú học tập, tạo một không khí học tập vui vẻ, thoải mái  giúp học sinh ngày càng yêu thích bộ  môn Ngữ  văn. Bên cạnh đó, phải thường   xuyên học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp.  Giáo viên có thể  cho học sinh sưu  tầm những kiến thức có liên quan đến nội dung bài học và hướng dẫn cho các em  trình bày, sau đó có thể nhận xét qua và rút ra những nội dung có liên quan mà học   sinh cần nắm.  Sáng kiến được áp dụng ở những trường có cơ sở vật chất về công nghệ thông   tin như  máy vi tính, máy chiếu,..  phát huy thế  mạnh của công nghệ  thông tin vào   dạy học bằng cách tìm các thông tin mới, hấp dẫn trên mạng internet, đưa vào giáo  án điện tử làm cho các tiết học sinh động, lượng thông tin học sinh thu được nhiều   và chính xác hơn so với phương pháp dạy học truyền thống. 10.  Đánh giá lợi ích thu được  10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác   giả Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, sáng kiến kinh nghiệp giúp tôi có được   một tiết dạy bổ  ích. Việc đổi mới bài dạy luôn là yếu tố  cần thiết, đặc biệt theo  hướng phát huy tính tích cực chủ  động của học sinh.  Tạo điều kiện để  đổi mới  phương pháp dạy học, học sinh được hoạt động, được tự  học và tự  nghiên cứu   thông qua đó góp phần hướng tới hình thành các năng lực, phẩm chất cho học sinh. Qua việc chuẩn bị bài ở nhà, sưu tầm các tài liệu và làm việc theo nhóm để  đưa ra sản phẩm của từng nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên…; tham gia các   hoạt động học tập trên lớp. Đặc biệt các em rất hứng thú với phương pháp đóng   vai, diễn kịch, nhập vai rất thành công. Tất cả  đã tạo thành một chuỗi các hoạt  động liên tiếp có sự  gắn kết với nhau, từ đó góp phần làm tăng thời gian học tập  của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức nhanh hơn, ghi nhớ sâu sắc bài học  hơn. 19
  20. Vận dụng phương pháp đã nghiên cứu vào thực tế  giảng dạy tác phẩm tôi  thấy kết quả tốt hơn so với phương pháp trước đây. Khi đối chiếu kết quả đánh   giá kiến thức, kĩ năng qua bài kiểm tra của hai lớp do người viết trực tiếp giảng   dạy: 10C, 10A3 ở hai thời điểm trước và sau khi áp dụng sáng kiến, tôi nhận thấy  rõ hiệu quả của sáng kiến. Kết quả kiểm tra cao hơn, nhiều em lập luận chặt chẽ  hơn, thuyết phục hơn, cảm xúc hơn.    Năm học 2017­2018, sáng kiến được giảng dạy tại lớp 10C. Lớp đối chứng  là 10A3 được dạy theo phương pháp truyền thống. Kết quả  cho thấy các em lớp   10C rất hứng thú, lớp học sôi động hơn. Các em tham gia nhiệt tình hơn trong các   hoạt động học tập.       Thông qua các bài kiểm tra nhanh 15 phút theo phương pháp trắc nghiệm để  đánh giá khả  năng nắm kiến thức, tư  duy suy luận. Kết quả  thu được tính bằng  thống kê trung bình của các bài kiểm tra. Lớp Sĩ số Loại giỏi Loại khá Loại Tb Loại yếu Loại kém SL % SL % SL % SL % SL % 10C 30 8 26,7 18 60 4 13,3 0 0 0 0 10A3 40 2 5 21 47,5 17 42,5 0 0 0 0 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2