intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:45

32
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An" nhằm tìm hiểu thực trạng chất lượng giáo dục nghề nghiệp và định hướng chọn nghề cho HS ở các TTGDNN – GDTX để từ đó đề xuất một số biện giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRUNG TÂM GDNN - GDTX HUYỆN QUỲNH LƯU Tên đề tài: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP VÀ ĐỊNH HƯỚNG HỌC NGHỀ CHO HỌC SINH TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP - GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN QUỲNH LƯU Thuộc môn (nhóm môn, lĩnh vực): Giáo dục hướng nghiệp Năm thực hiện: 2021 - 2022 1
  2. 1. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ BGH Ban Giám hiệu CBQL Cán bộ quản lý CBGV Cán bộ giáo viên THPT Trung học phổ thông GDHN Giáo dục hướng nghiệp ĐH Đại học CĐ Cao đẳng GD & ĐT Giáo dục và Đào tạo GDTrH Giáo dục Trung học GDNGLL Giáo dục ngoài giờ lên lớp GVCN Giáo viên chủ nhiệm GV Giáo viên HS Học sinh LKDN Liên kết dạy nghề QL Quản lý QLGD Quản lý giáo dục SKKN Sáng kiến kinh nghiệm TBDH Thiết bị dạy học THTN Thực hành thí nghiệm THCS Trung học cơ sở ĐHHN Định hướng học nghề GDNN Giáo dục nghề nghiệp 2
  3. A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục hướng nghiệp (GDHN) và định hướng học nghề là quá trình định hướng cho người học phát hiện năng lực, đam mê và mong muốn thực sự của mình vào một ngành hay một nghề cụ thể. Đối với một quốc gia, muốn phát triển và cân bằng xã hội về nhân lực lao động cũng như chất lượng của nguồn nhân lực lao động thì cần quan tâm và phát triển một cách nghiêm túc hoạt động GDHN. Theo UNESCO, hướng nghiệp là một quá trình cung cấp cho người học những thông tin về bản thân, về thị trường lao động và định hướng cho người học có các quyết định đúng đối với sự lựa chọn nghề nghiệp. Ngày nay, người ta đã nhận thấy chỉ cung cấp thông tin là không đầy đủ, mà cần phải chỉ ra sự phát triển về mặt cá nhân, xã hội, giáo dục và nghề nghiệp của học sinh (HS). Ở Việt Nam GDHN tuy được xếp ngang tầm quan trọng với các mặt giáo dục khác như đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục nhưng bản thân nó lại rất non trẻ, mới mẻ cả về nhận thức, lý luận và thực tiễn; đội ngũ giáo viên (GV) chưa chuyên trách, nguồn kinh phí và cơ sở vật chất dành cho hoạt động này chưa được quan tâm đúng mức, thiếu tính chuyên nghiệp... Vì vậy, việc thực hiện không mang lại nhiều hiệu quả. Từ thực tế đó, có thể thấy để giúp cho công tác hướng nghiệp và định hướng học nghề nghề đạt hiệu quả, nước ta cần có một hệ thống thông tin về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động và dự báo nguồn nhân lực của các ngành nghề trong hiện tại và tương lai một cách thống nhất, đầy đủ. Nhà nước cần thành lập một cơ quan quốc gia có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng trong việc thu thập và xử lý, phổ biến các thông tin về thị trường lao động và dự báo về nguồn nhân lực. Các nhà trường phổ thông, Trung tâm giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên (TTGDNN – GDTX) cũng cần chú trọng một cách đúng mức về đội ngũ GV chuyên trách và các tài liệu phục vụ cho việc GDHN… Đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết trên, việc đào tạo nghề và hướng nghiệp ở nước ta sẽ có những bước chuyển biến mạnh mẽ, hòa nhập với thế giới. Sản phẩm đào tạo nguồn nhân lực sẽ phát triển và có chất lượng cao, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và đáp ứng được những thách thức của quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu chỉ ra thực trạng, giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động GDHN và định hướng học nghề cho HS nói chung và HS ở các TTGDNN – GDTX là rất cần thiết trong bối cảnh đổi mới giáo dục của nước ta hiện nay Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo hàng năm nước ta có hơn 6 triệu học sinh THCS và gần 4 triệu học sinh THPT, tạo cho nước ta một nguồn lao động dự trữ dồi dào, có văn hoá và là nguồn tuyển sinh cho các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và Dạy nghề. Sự dồi dào của lực lượng này thực sự đang tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển xã hội. Vì vậy, việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ có được những phẩm chất và năng lực nghề nghiệp vững chắc phù hợp với nhu cầu của các hoạt động kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ là vấn đề có ý 3
  4. nghĩa đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược. Trong văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam.”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị 33/2003/CT- BGD&ĐT, về việc tăng cường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông với mục đích đẩy mạnh vai trò của các trường phổ thông trong việc tổ chức, triển khai các hoạt động hướng nghiệp, định hướng phân luồng cho học sinh, cùng với cơ sở Đề án "Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018- 2025" ban hành kèm theo Quyết định số 522/QĐ-TTg, ngày 14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ. Nhằm giúp các em lựa chọn được ngành hoặc học được nghề phù hợp không chỉ đối với bản thân mà còn phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Định hướng nghề: là khâu trung gian của công tác TVHN, mục đích của tư vấn nghề là giúp học sinh hiểu rõ về mình trước khi quyết định lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Mục đích này có nghĩa là người GV có thể đưa ra lời khuyên sát hợp, có cơ sở khoa học, dựa trên những phép đo nhằm giúp học sinh tự giác, độc lập lựa chọn nghề nghiệp tương lai, biết vạch kế hoạch học tập và tu dưỡng sao cho đạt được nguyện vọng nghề nghiệp bản thân. Con người tự xác lập nghề nghiệp và đi tới quyết định một cách có ý thức trong việc lựa chọn con đường nghề nghiệp phù hợp với những đặc điểm tâm lý và khả năng của con người cùng với yêu cầu của xã hội GDHN và Định hướng nghề ở các Trung tâm GDNN – GDTX còn được thực hiện khi HS mới bước vào lớp 10. Với hướng đi mới của các Trung tâm GDTX học văn hóa song song với học nghề thì việc GDHN và Định hướng nghề sớm đem lại rất nhiều lợi ích cho học sinh và phụ huynh. Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế ở nước ta cùng với các quy luật của nó đang phát triển rất nhanh, mạnh và đang trên đà hoàn thiện cùng với sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng 4.0, dẫn đến sự phát triển biến đổi quá nhanh và “nóng” của nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Xu hướng toàn cầu hóa, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, sự giao lưu của các nền văn hóa khác nhau, cùng với ảnh hưởng từ mặt trái của kinh tế thị trường đã làm cho định hướng giá trị của giới trẻ có nhiều thay đổi. Điều này đã tác động trực tiếp đến động cơ, xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của họ. Tất cả những điều đó đã khiến phần lớn học sinh phổ thông không tự đánh giá được năng lực, hứng thú, sở trường của mình để lựa chọn ngành học, nghề học một cách đúng đắn hoặc không biết chọn nghề gì. Theo điều tra của Bộ GD&ĐT năm 2006 cho thấy, cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và nhiều người không làm đúng nghề mình đã học. Theo công bố của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, quý II/2018, cả nước có 126.990 người có trình độ ĐH trở lên thất nghiệp. Trong 4
  5. khi đó, nhu cầu công nhân lao động kỹ thuật và kỷ thuật cao trong giai đoạn 2016 – 2020 khoảng 6.5 triệu người. Nhưng học sinh sau khi tốt nghiệp THPT lại đua nhau vào Đại học. Thực tế đó đã gây ra nhiều vấn đề phức tạp cho xã hội như: thừa thầy, thiếu thợ; lãng phí tiền của, thời gian cho nhiều sinh viên học đại học, thạc sỹ. Đội ngũ thất nghiệp cùng với lực lượng học sinh đã tốt nghiệp GDTX cấp THPT không có nghề dễ gây ra nhiều vấn đề tiêu cực cho xã hội. Tình trạng trọng bằng cấp trong việc lựa chọn tuyển dụng của nhiều nghành nghề còn nặng nề, sự kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc tư vấn định hướng nghề nghiệp cho học sinh hiệu quả chưa cao, chính vì lí do trên, nên tỷ lệ theo học các trường TCN so với Hs tốt nghiệp THCS hàng năm còn thấp. Năm 2015, tỷ lệ phân luồng toàn quốc sau THCS: vào học các trường THPT là 76%, vào học tại các trung tâm GDNN – GDTX là 7%, vào học tại các trường TCCN là 3%, Trung cấp nghề 5%, đi làm 9%. Tỷ lệ phân luồng cấp THPT: vào các trường ĐH, CĐ là 41%, vào trường CĐ nghề, trung cấp nghề là 23%; học nghề tại trung tâm đào tạo nghề là 13%, đi làm 10% Cùng chung với thực trạng giáo dục hướng nghiệp và định hướng nghề cho học sinh GDTX cấp THPT của cả nước. Huyện Quỳnh Lưu có lịch sử phát triển kinh tế và văn hóa lâu đời, giáo dục luôn được quan tâm và chú trọng phát triển từ rất sớm; hiện tại 1 có trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên. Việc giáo dục hướng nghiệp, định hướng nghề trong các Trung tâm GDTX trước đây mới chỉ dạy theo hiểu biết của GV chủ nhiệm, GV bộ môn nên còn nhiều hạn chế. Nhiều học sinh không biết mình nên chọn ngành gì, trường nào sau tốt nghiệp THPT. Từ thực tiễn trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An”. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu: 2.1 Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu thực trạng chất lượng giáo dục nghề nghiệp và định hướng chọn nghề cho HS ở các TTGDNN – GDTX để từ đó đề xuất một số biện giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh. - Thực hiện sáng kiến này nhằm rút ra một số kinh nghiệm qua thực tế công tác của bản thân. Đồng thời làm một số kinh nghiệm cho đồng nghiệp tham khảo và vận dụng trong quá trình công tác và tổ chức các hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh. 2.2. Nhiệm vụ: 5
  6. - Nghiên cứu cơ sở lý luận của GDHN và ĐHN cho HS GDTX. - Các chủ trương, chính sách về GDHN và ĐHN của Đảng, Nhà nước. - Khảo sát thực trạng chọn nghề và GDHN của Trung tâm GDNN – GDTX huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp, định hướng phân luồng cho học sinh trường Trung tâm GDNN – GDTX Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. - Khảo nghiệm tính khả thi của các giải pháp thông qua. 3. Giới hạn nghiên cứu: -Nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS Trung tâm GDNN – GDTX Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. - Không gian nghiên cứu: Trung tâmGDNN – GDTX huyện Quỳnh Lưu, tỉnh NghệAn. - Thời gian nghiên cứu: Trong 2 năm học 2019 – 2020, 2020- 2021 và hoàn thiện ở các năm tiếp theo. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Sử dụng các phương pháp: - Phân tích tổng hợp lý thuyết, phân loại hệ thống hoá - Khái quát hoá lý thuyết trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu lý thuyết từ đó rút ra các kết luận khoa học làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất các biện pháp của đề tài. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra: Dùng phiếu điều tra (Ankét) khảo sát thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của học sinh Trung tâm, giáo viên và cha mẹ học sinh, cán bộ quản lí về hoạt động giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề trong trường THPT, GDTX hiện nay. - Phương pháp trao đổi, trò chuyện: Sử dụng phương pháp này nhằm hỗ trợ cho phương pháp điều tra. Qua trao đổi, trò chuyện với HS và GV, phụ huynh để tìm hiểu thêm những vấn đề liên quan đến điều tra như: tâm tư, tình cảm, quan điểm, hoàn cảnh, điều kiện kinh tế gia đình HS, nhận thức về nghề nghiệp, năng lực cá nhân của từng học sinh, từ đó chính xác hoá những vấn đề đã điều tra. - Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Gặp gỡ trực tiếp các bộ quản lý giáo dục và những giáo viên có kinh nghiệm trong công tác GDHN và ĐHHN để điều tra, trao đổi, xin ý kiến về những vấn đề có liên quan đến đề tài, đặc biệt là về 6
  7. thực trạng, đánh giá thực trạng, xây dựng, đề xuất các biện pháp và khảo nghiệm các biện pháp của đề tài. 4.3. Các phương pháp thống kê toán học Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu, là cơ sở để đánh giá thực trạng và xây dựng các giải pháp của đề tài. 5. Đóng góp của đề tài - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động GDHN và ĐHHN cho học sinh GDNN - GDTX. - Làm sáng tỏ thực trạng hoạt động GDHN và ĐHHN của Trung tâm GDNN - GDTX huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay. - Đề xuất biện pháp khả thi góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động GDHN và ĐHHN đáp ứng nhu cầu về định hướng nghề nghiệp, cho HS Trung tâm và các trường THPT khác theo yêu cầu phát triên nguồn nhân lực trên địa bàn. - Đề tài đã áp dụng có hiệu quả tại Trung tâm GDNN –GDTX Quỳnh Lưu, Trung tâm GDNN –GDTX Diễn Châu, Trung tâm GDNN – GDTX Đô Lương và hiện tại đang áp dụng có hiệu quả ở Trung tâm GDNN – GDTX Quỳnh Lưu. - Kết quả nghiên cứu đề tài trở thành tài liệu tham khảo cho các Trung tâm GDNN - GDTX trên địa bàn tỉnh Nghệ An. 6. Cấu trúc đề tài Gồm phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận và Kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động hướng nghiệp và định hướng nghề cho học sinh GDTX. Chương 2: Thực trạng hoạt động giáo dục hướng nghiệp và định hướng nghề cho học sinh Trung tâm GDNN – GDTX Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh Trung tâm GDNN –GDTX Quỳnh Lưu trong điều kiện hiện nay. PHẦN NỘI DUNG B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG HƯỚNG NGHIỆP VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ CHO HỌC SINHH GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN 1.1. Quan điểm về hướng nghiệp và định hướng học nghề Thuật ngữ hướng nghiệp xuất hiện trên thế giới cách đây hàng trăm năm nhưng cho đến nay vẫn còn rất nhiều người hiểu chưa đúng hoặc chưa đầy đủ. Có 7
  8. người nghĩ đơn giản hướng nghiệp là hướng dẫn, quyết định việc chọn ngành, nghề cho HS chuẩn bị tốt nghiệp phổ thông; có người cho rằng đây là quá trình định hướng cho các em lựa chọn những ngành, nghề có giá trị trong xã hội. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, cách tiếp cận, các tiêu chí... mà có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm hướng nghiệp.Có thể đề cấp đến một số quan điểm tiêu biểu về hướng nghiệp và định hướng chọn nghề như: Nhà tâm lý học K.K. Platônnôp cho rằng: “Hướng nghiệp, đó là hệ thống các biện pháp tâm lý – giáo dục, y học nhằm giúp cho con người đi vào cuộc sống thông qua việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu xuất hiện, vừa phù hợp với hứng thú, năng lực của bản thân. Những biện pháp này sẽ tạo nên sự thống nhất giữa quyền lợi của XH với quyền lợi của cá nhân”. Theo GS.TS. Phạm Tất Dong, khái niệm hướng nghiệp được hiểu trên hai bình diện: Trên bình diện xã hội: Hướng nghiệp như là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục, y học, xã hội học, kinh tế học... nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. Trên bình diện trường phổ thông: Hướng nghiệp được coi là công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm, có mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội. Nghị định 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ cho rằng, “hướng nghiệp trong giáo dục là hệ thống các biện pháp tiến hành trong và ngoài nhà trường để giúp học sinh có kiến thức về nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội”. Khái niệm này cho thấy: Thực chất của hướng nghiệp không phải là sự quyết định nghề mà là giúp HS có được những hiểu biết cần thiết về bản thân, về thế giới nghề nghiệp xung quanh, về những yếu tố ảnh hưởng, tác động tới bản thân trong việc chọn nghề để lựa chọn nghề phù hợp và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa cá nhân với nghề, giữa cá nhân với xã hội; Hướng nghiệp là giáo dục sự lựa chọn nghề một cách có chủ đích nhằm đảm bảo cho các em hạnh phúc trong lao động nghề nghiệp, lao động đạt hiệu suất cao và cống hiến được nhiều nhất cho xã hội; Hướng nghiệp không chỉ được thực hiện trong nhà trường bởi các thầy, cô giáo mà còn được tiến hành tại gia đình và cộng đồng với sự tác động, hỗ trợ của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, đặc biệt là cha mẹ HS. 1.2. Giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh GDTX. 1.2.1 Vị trí, vai trò của hoạt động hướng nghiệp và định hướng học nghề. Hướng nghiệp là một bộ phận của giáo dục phổ thông, nhằm dẫn dắt học sinh hòa nhập với đội ngũ người lao động. Hướng nghiệp là quá trình điều chỉnh hứng thú, nguyện vọng của học sinh trong chọn nghề, để tránh chọn nghề một cách tự phát. Hướng nghiệp còn là việc cung cấp kiến thức, hình thành một số kỹ 8
  9. năng nghề nghiệp cho học sinh để các em có thể tiếp tục học tập và hành nghề trong tương lai. Đối với từng cá nhân học sinh, hướng nghiệp giúp các em có điều kiện nhìn nhận khả năng của bản thân, điều chỉnh xu hướng chọn nghề và chọn ngành nghề phù hợp với năng lực và hứng thú học sinh cũng như phù hợp với điều kiện tâm sinh lý, phù hợp với điều kiện gia đình để các em có thể phát triển đến đỉnh cao của nghề nghiệp, cống hiến được nhiều cho xã hội cũng như tạo lập được cuộc sống tốt đẹp cho bản thân. Sau hướng nghiệp, học sinh nhận thức được năng lực, sở trưởng của mình, từ đó lựa chọn một nghề phù hợp, kết quả của hướng nghiệp là định hướng nghề đối với học sinh GDTX. Đối với xã hội, hướng nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phân công lao động, sử dụng nguồn nhân lực một cách tối ưu, đào tạo đội ngũ đồng bộ những người lao động phù hợp với cơ cấu lao động xã hội trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội 1.2.2.2 Những tính chất của hướng nghiệp và định hướng học nghề: Hướng nghiệp, định hướng phân luồng có tính chất xã hội rộng rãi: hoạt động hướng nghiệp không chỉ diễn ra trong các trường học mà còn phải có sự tham gia của gia đình và các tổ chức đoàn thể trong xã hội. Hướng nghiệp, phân luồng là một quá trình: đây là một quá trình giáo dục liên tục từ những năm đầu ở trường, đến quá trình học nghề và hành nghề sau này. Như vậy quá trình giáo dục hướng nghiệp cho học sinh là quá trình làm cho học sinh hiểu được các ngành nghề trong xã hội; vai trò và xu hướng phát triển của từng ngành, nghề ở địa phương, trên toàn quốc và quốc tế. Định hướng phân luồng là quá trình giáo dục liên tục bao gồm nhiều nội dung: giáo dục về chính trị, giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm; giáo dục về lao động, thông tin định hướng nghề... đó là quá trình theo dõi, phát hiện năng lực, bồi dưỡng tri thức, kỹ năng, thái độ cần thiết; quá trình củng cố sức khỏe và các khả năng tâm lý để định hướng ngành, nghề cho các em. Quá trình định hướng phân luồng cho học sinh là sự kết hợp vừa học kiến thức theo chương trình GDTX vừa phát triển năng lực và kỹ năng hướng đến một nghề nhất định. 1.2.2.3 Những nhiệm vụ chung của giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề ở Trung tâm GDNN -GDTX. Nhiệm vụ đầu tiên là qua hướng nghiệp, các em được làm quen với những nghề cơ bản trong xã hội, những nghề có vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, những nghề cần thiết phải phát triển ở ngay địa phương mình. Nhiệm vụ thứ hai là hướng dẫn phát triển hứng thú nghề nghiệp:Trong quá trình tìm hiểu ngành, nghề, ở học sinh sẽ xuất hiện và phát triển hứng thú nghề 9
  10. nghiệp. Em học sinh này thích nông nghiệp, em khác thích công nghiệp, có em lại chỉ chú ý đến nghệ thuật, v.v... Nhiệm vụ thứ ba là giúp học sinh hình thành năng lực nghề nghiệp tương ứng: Người ta chỉ có thể yên tâm sống lâu dài với nghề nếu họ có năng lực chuyên môn thực sự, đóng góp được sức lực, trí tuệ một cách hữu hiệu với nghề của mình. Nhiệm vụ cuối cùng của hướng nghiệp là giáo dục cho học sinh thái độ lao động, ý thức tôn trọng người lao động thuộc các ngành nghề khác nhau, ý thức tiết kiệm và bảo vệ của công... Đây là những phẩm chất nhân cách không thể thiếu được ở người lao động trong xã hội của chúng ta. Giúp cho học sinh xác định được năng lực, sở trường của mình để chọn hướng đi phù hợp, kết quả giáo dục này sẽ là định hướng phân luồng cho học sinh GDTX ngay khi đang học và lâu dài sau này. Có thể coi đây là nhiệm vụ giáo dục đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, là nhiệm vụ chủ yếu đối với thế hệ trẻ. Cùng với các nhiệm vụ trên, nhiệm vụ này góp phần vào việc làm cho những phẩm chất nhân cách của người lao động được hài hòa và cân đối. Tóm lại, hướng nghiệp và định hướng học nghề có mục đích cơ bản là hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào hoặc thực hiện ngay học các ngành nghề mà đất nước hay ở từng địa phương đang cần. Quá trình giáo dục hướng nghiệp phải làm cho học sinh có những hiểu biết cần thiết về thị trường lao động tại địa phương, trong và ngoài nước, biết cách lựa chọn nghề nghiệp có cơ sở khoa học, được làm quen với nghề để có hứng thú và thái độ đúng đắn, yêu quý nghề và điều quan trọng là học sinh có được tình cảm, thói quen lao động để tiến tới có thể biết, thực hiện làm một số nghề truyền thống, nghề thông dụng đang cần duy trì và phát triển ở địa phương. 1.2.2.4 Qui trình giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong Trung tâm GDNN - GDTX. Qui trình GDHN và ĐHPL ở THPT thực hiện qua các bước như sau: - Các hình thức giáo dục hướng nghiệp trong Trung tâm GDNN - GDTX: Hướng nghiệp tại Trung tâm GDNN -GDTX bao gồm 4 hình thức chủ yếu như sau: Hướng nghiệp qua dạy học các môn văn hóa. Hướng nghiệp qua dạy học môn Công nghệ, dạy nghề phổ thông và hoạt động lao động sản xuất. Hướng nghiệp qua tổ chức các hoạt động giáo dục hướng nghiệp. Hướng nghiệp qua các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm, các phương tiện thông tin đại chúng, sự hướng dẫn của gia đình, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp, các tổ chức xã hội ... 10
  11. Liên kết các trường Đại học, Cao đẳng, trung cấp và các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân ... tuyên truyền giới thiệu cho học sinh hiểu chức năng, nhiệm vụ đào tạo của từng khoa, ngành, nghề của từng trường và nhu cầu cần lao động của các doanh nghiệp, đơn vị ở địa phương, của toàn quốc và quốc tế. Từ đó học sinh căn cứ vào năng lực của bản thân để xác định học một ngành hoặc một nghề cụ thể, từ đó có các hoạt động tích cực để đạt được mục đích. - Định hướng học nghề: Là giúp con người tự xác lập nghề nghiệp và đi tới quyết định một cách có ý thức trong việc lựa chọn con đường nghề nghiệp phù hợp với những đặc điểm tâm lý và khả năng của con người cùng với yêu cầu của xã hội. Là thông tin về sự phát triển của các nghề trong xã hội, đặc biệt là những nghề đang có nhu cầu nhân lực cấp thiết, về những yêu cầu tâm sinh lý của nghề đang đặt ra, về tình hình phân công lao động trong xã hội, về hệ thống trường dạy nghề. Đối tượng chủ yếu của định hướng nghề là HS, nhưng đôi khi còn nhằm cung cấp những thông tin trên cho cha mẹ HS để có thể phối hợp hướng nghiệp cho các em một cách thống nhất. -Tư vấn nghề nghiệp: Là đưa ra những lời khuyên cho con người dựa trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa đặc điểm của hoạt động nghề phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý, thể chất, năng lực dựa trên cơ sở các kết quả chẩn đoán tâm lý, tâm sinh lý và y tế. Hay nói cách khác là hình thức tác động hướng nghiệp thông qua sự góp ý và lời khuyên của những nhà chuyên môn. Thông thường, là thành lập những ban tư vấn nghề nghiệp trong trường học hoặc trung tâm tư vấn nghề nghiệp ngoài nhà trường, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp... Tại đó, tiến hành theo dõi sự phát triển những đặc điểm tâm lý, sinh lý của từng học sinh và đối chiếu với những đặc điểm đó với yêu cầu của các nghề, rồi giới thiệu một số nghề phù hợp cho học sinh. -Tuyển chọn nghề nghiệp: Là xác định mức độ phù hợp với những đòi hỏi,tiêu chuẩn cụ thể của nghề. Công tác này không thuộc chức năng của nhà trường nhưng lại có liên quan mật thiết với công việc định hướng cũng như tư vấn nghề nghiệp. Thực chất của tuyển chọn nghề nghiệp là căn cứ vào nhu cầu nhân lực của một nghề cụ thể mà đi tìm những người có đặc điểm nhân cách phù hợp. Học sinh đăng ký cho mình một nghề cụ thể ngay khi vào lớp 10 hoặc sau khi tốt nghiệp THPT. 1.2.2.5 Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề: - Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề: Ở Trung tâm GDNN – GDTX là một trong những nội dung của quản lý các hoạt động sư phạm. Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp và định hướng 11
  12. học nghề bao gồm quản lý tốt việc thực hiện chương trình giáo dục hướng nghiệp, phát huy hiệu quả các trang thiết bị phục vụ giảng dạy, đầu tư đúng mức cho cơ sở hạ tầng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên theo đúng yêu cầu của GDHN và ĐHHN, phối hợp tốt các lực lượng tham gia công tác giáo dục hướng nghiệp ở Trung tâm. - Nguồn nhân lực phục vụ hoạt động giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề: giáo viên là nhân tố chính ảnh hưởng đến chất lượng của giáo dục hướng nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay trong các trung tâm GDTX số lượng giáo viên cho giáo dục hướng nghiệp vừa thiếu lại vừa yếu vì các giáo viên thường là kiêm nhiệm, chứ không được đào tạo bài bản - Nội dung, phương pháp giảng dạy: nội dung và phương pháp giảng dạy là những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng GDHN và ĐHHN. - Cơ sở vật chất: Dù ngân sách hàng năm cho giáo dục tăng nhưng cơ sở vật chất phục vụ GDHN và ĐHNN hiện cũng chưa đạt yêu cầu nhất là những vùng sâu. - Bản thân học sinh: là yếu tố tác động đến hoạt động GDHN và ĐHNN. Để nâng cao chất lượng GDHN và ĐHNN người giáo viên cần chú ý đến các yếu tố tâm lý, sức khỏe, năng lực, xu hướng nghề... của học sinh - Các phương tiện thông tin đại chúng và các tổ chức XH: Trong thời đại bùng nổ của thông tin và các phương tiện thông tin đại chúng như hiện nay đã tác động không nhỏ tới GDHN. Với sự hỗ trợ của sách, báo, phim ảnh, truyền hình đặc biệt là kho thông tin khổng lồ - mạng Internet, các em dễ dàng nắm bắt, tiếp thu các thông tin đa dạng về mọi mặt của các lĩnh vực đời sống XH. Nghề nghiệp: Xu hướng nghề nghiệp: Khi nghiên cứu vấn đề này các nhà khoa học thường tiếp cận trực tiếp các yêu tố cấu thành của xu hướng như: Nhu cầu nghề nghiệp, hứng thú nghề nghiệp, lý tưởng nghề nghiệp... Nhu cầu nghề nghiệp: Tất cả mọi sự lựa chọn nghề đều có xuất phát điểm từ nhu cầu của cá nhân, khi học sinh thấy trong tình trạng hiện tại của bản thân còn có một khoảng trống: Chưa có nghề nghiệp, chưa có một vị thế xã hội đích thực, chưa có những điều kiện vật chất để thực hiện hoài bão... Tất cả những nhu cầu này sẽ tạo nên động cơ, đó là những yếu tố nội tại đưa cá nhân tới những hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu. Tuy nhiên cũng cần phải phân biệt giữa nhu cầu và ước muốn nghề nghiệp, ước muốn là sự lựa chọn tổng quát để thoả mãn một nhu cầu nghề nghiệp cụ thể. Sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh bao giờ cũng bị chi phối bởi một hệ thống động cơ nhất định. Những động cơ này thường bắt nguồn từ những nhu cầu, hứng thú, sở thích riêng của mỗi cá nhân học sinh và được hình thành dưới tác động hợp thành của động cơ bên trong và động cơ bên ngoài. Động cơ bên 12
  13. trong có vai trò quan trọng thúc đẩy con người đạt tới những mục tiêu nhất định trong quá trình tiến tới mục đích nghề được lựa chọn. Hứng thú đối với nghề nghiệp: Là sự biểu hiện thái độ của con người đối với lĩnh vực nghề nghiệp hay một nghề cụ thể, nó góp phần tạo nên động cơ thúc đẩy cá nhân tìm hiểu kĩ lưỡng về nghề làm cơ sở cho việc thực hiện nguyện vọng nghề nghiệp. Một khi con người ý thức về giá trị nghề nghiệp đối với mình, có được những cảm xúc và sự say mê tích cực trong lao động, học tập nhằm hoàn thiện mình để đạt tới nghề nghiệp, khi đó ở con người đã có được hứng thú nghề nghiệp. Lý tưởng nghề nghiệp: “Lý tưởng nghề nghiệp giúp con người có khát vọng vươn lên đỉnh cao của nghề nghiệp, ước mơ nóng bỏng về tương lai. Thiếu lý tưởng nghề nghiệp, người lao động không thể vượt qua giới hạn của cảnh làm việc tẻ nhạt, không dám nghĩ, không dám làm, không dám vượt qua mọi khó khăn để vươn lên tới sự hoàn thiện nhân cách.” Lý tưởng nghề nghiệp là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nghề nghiệp. Nó có ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành và phát triển của nhu cầu và hứng thú nghề nghiệp. Năng lực nghề nghiệp: Theo quan điêm của các nhà tâm lý học thì năng lực của một cá nhân là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân đó phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt. Vận dụng quan điểm trên để xem xét năng lực nghề nghiệp có thế thấy năng lực nghề nghiệp là một tập hợp các thuộc tính nhân cách tương đối bền vững, được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động có liên quan tới nghề nghiệp. Năng lực nghề nghiệp vốn không có sẵn trong con người, không phải là những phẩm chất bẩm sinh. Nó hình thành và phát triển qua hoạt động học tập và hoạt động lao động. Trong quá trình làm việc, năng lực tiếp tục phát triển hoàn thiện dần. Sự phù hợp nghề: Một người được coi là phù hợp với một nghề nào đó khi ở họ có được những phẩm chất đạo đức, trình độ văn hoá, năng lực chung và năng lực riêng, tri thức, kĩ năng và tình trạng sức khoẻ đáp ứng được đòi hỏi do nghề nghiệp đặt ra. Sự phù hợp nghề thường thể hiện ở 3 dấu hiệu: Bảo đảm cường độ làm việc, tức là bảo đảm được yêu cầu về số lượng công việc theo định mức lao động. Bảo đảm độ chính xác của công việc. Đây là yêu cầu về chất lượng sản phẩm, là yêu cầu quyết định nhất trong quá trình thực hành nghề.. 13
  14. Không bị công việc của nghề nghiệp gây nên những độc hại cho cơ thể. Trên thực tế, ít có ai sinh ra mà phù hợp với nghề này hay nghề khác mà thường chỉ có những cơ sở ban đầu có khả năng phù hợp hay không phù hợp với nghề nghiệp. Các nhà tâm lý học đã chứng minh được mỗi nghề đòi hỏi một trình độ phát triển năng lực chung và những năng lực chuyên biệt cần thiết để thực hiện thành công cho riêng nghề nghiệp đó. những yêu cầu riêng về trạng thái sức khỏe, tâm lý của con người. Lựa chọn nghề nghiệp và những tính chất của nó: Việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh là một quá trình lâu dài và phức tạp, nó được biểu hiện ở các mức độ khác nhau ngay trong những lớp đầu của trường THCS, được tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần ở những lớp sau nhất là ở cuối cấp THPT, trong các trường, lớp dạy nghề và được tạm coi là kết thúc khi họ đã có những khả năng lao động nghề nghiệp độc lập.Với tư cách là một quá trình hoạt động, lựa chọn nghề nghiệp bao gồm những tính chất cơ bản sau: Tính chủ thể của quá trình lựa chọn. Tính khách thể của quá trình lựa chọn nghề: Tính mục đích của quá trình lựa chọn nghề: Tính cấu trúc của quá trình lựa chọn nghề: Tinh thần, thái độ trong quá trình học nghề. Nếu như việc xem xét và lựa chọn nghề nghiệp của học sinh tách khỏi các dạng lựa chọn (các mối quan hệ) trong đặc trưng của cuộc sống con người thì sẽ dẫn tới sự hạn chế kết quả thực tế của các biện pháp hướng nghiệp, giới hạn khả năng điều khiển quá trình tái sản xuất nguồn nhân lực cho đất nước. 1.2.2. Một vài nguyên nhân dẫn đến sai lầm khi chọn nghề: Theo Phạm Tất Dong, có hai loại nguyên nhân dẫn đến việc chọn nghề không tính đến những dấu hiệu của sự phù hợp nghề. Loại nguyên nhân thứ nhất thuộc “thái độ không đúng”, loại nguyên nhân thứ hai do “thiếu hiểu biết về các nghề”. Một số nguyên nhân cụ thể là: - Cho rằng nghề thợ thì thấp kém hơn kỹ sư, giáo viên mầm non, tiểu học thì thua kém giáo viên THPT... Một số HS đã coi nhẹ công việc của người thợ, của thầy giáo cấp I, của cô y tá, chỉ trọng công việc của kĩ sư, của thầy giáo dạy ở bậc trung học, đại học, của bác sĩ... vì thế mà chỉ định hướng vào những nghề có sự chuẩn bị ở bậc Đại học. - Thành kiến với một số nghề trong xã hội, chẳng hạn, coi lao động chân tay là nghề thấp kém, chê nhiều công việc dịch vụ là không “thanh lịch”... Thường thường, những học sinh này không thấy hết ý nghĩa của yếu tố lao động nghề nghiệp, đóng góp của nghề đối với XH. Đã là nghề được XH thừa nhận thì không 14
  15. thể nói đến sự cao sang hay thấp hèn được, đặc biệt là trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay. Dựa dẫm vào ý kiến của người khác, không độc lập quyết định việc chọn nghề. Vì thế đã có rất nhiều HS lựa chọn nghề theo ý muốn của cha mẹ, theo ý thích của người lớn hay theo lời rủ rê của bạn bè. Cách chọn nghề này đã dẫn đến nhiều trường hợp chán nghề vì không phù hợp. Bị hấp dẫn bởi vẻ bề ngoài của nghề, thiếu hiểu biết nội dung lao động của nghề đó. Ví dụ, nhiều HS thích đi đây đi đó nên đã chọn nghề thăm dò địa chất. Khi vào nghề, thấy công việc của mình gắn bó với rừng núi, quanh năm phải tiến hành công việc khảo sát, ít có dịp tiếp xúc với cuộc sống thành thị, thiếu điều kiện để giao lưu văn hoá và khoa học, do đó đã tỏ ra chán nghề. Cho rằng đạt thành tích cao trong việc học tập một môn văn hoá nào đó là làm được nghề cần đến tri thức của môn đó. Ví dụ, có người học giỏi môn văn đã chọn nghề làm phóng viên báo chí. Đúng là nghề này cần đến những người viết văn hay, diễn đạt tư tưởng rành mạch. Song nếu không nhanh nhẹn, tháo vát, năng động dám xông xáo... thì không thể theo đuổi nghề này được. Sai lầm ở đây là do không thấy rằng, năng lực đối với một số môn học chỉ là điều kiện cần, chứ chưa là điều kiện đủ. Có quan niệm “tĩnh” về tính chất, nội dung lao động nghề nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất, quên mất những tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ ngày nay. Vì vậy, có HS cho rằng, học xong cấp II là đủ kiến thức để xin vào học nghề tại các trường dạy nghề. Có HS lại nghĩ, với vốn liếng kiến thức lớp 12, mình học ở trường nghề nào chẳng được. Thực ra, nghề nghiệp luôn thay đổi nội dung, phương pháp, tính chất lao động của nó. Người lao động không luôn luôn học hỏi, trau dồi năng lực làm việc thì khó có thể đáp ứng với yêu cầu về năng suất và hiệu quả lao động. Không đánh giá đúng năng lực lao động của bản thân nên lúng túng trong khi chọn nghề. Do đó, có 2 tình trạng thường gặp: hoặc đánh giá quá cao năng lực của mình, hoặc đánh giá không đúng mức và không tin vào bản thân. cả hai trường hợp đều dẫn đến hậu quả không hay. Nếu đánh giá quá cao khi vào nghề sẽ vấp phải tình trạng chủ quan ban đầu, thất vọng lúc cuối, còn nêu đánh giá quá thấp, chúng ta sẽ không dám chọn những nghề mà đáng ra là nên chọn. Thiếu sự hiểu biết về thể lực và sức khoẻ của bản thân lại không có đầy đủ thông tin vê những chống chỉ định y học trong các nghề. Điều này càng dễ gây nên những tác hại lớn. Qua tìm hiểu tổng quan về vấn đề nghiên cứu và tìm hiểu cơ sở lí luận của vấn đề, người nghiên cứu nhận thấy Hướng nghiệp cho học sinh đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giáo dục, bên cạnh đó, hướng nghiệp cũng chính là tiền đề tạo nguồn nhân lực lao động có chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, khi đất nước ta đang đẩy mạnh việc thực 15
  16. hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với những đòi hỏi ngày càng cao, càng tăng thì chất lượng lao động càng được chú trọng. Và điều đó phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường. Để có thể hướng nghiệp cho học sinh lựa chọn ngành nghề phù hợp trong thế giới nghề nghiệp rộng lớn là nhiệm vụ không chỉ của những người làm giáo dục mà phải có sự cộng tác của toàn xã hội. Hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh có hiệu quả phải dựa vào cơ sở khoa học, căn cứ vào những đặc điểm tâm lý, năng lực của học sinh và nhu cầu xã hội vê ngành nghề đó. Nền tảng của hướng nghiệp là phải dựa trên năng lực, sở thích cá nhân và nhu cầu xã hội, đây là 3 yêu tố chủ đạo trong hoạt động hướng nghiệp cho học sinh cần phải làm rõ, đây cũng chính là cơ sở để tránh những sai lầm trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của học sinh. Thế giới nghề nghiệp rất phong phú và đa dạng, do đó, để hướng nghiệp cho học sinh hiệu quả thì không chỉ sử dụng một hình thức hướng nghiệp mà ta phải kết hợp nhiều hình thức hướng nghiệp khác nhau như thông qua các môn văn hóa, các môn kỹ thuật, nghề phổ thông, lao động sản xuất, hoạt động tham quan, ngoại khóa, trải nghiệm, các phương tiện thông tin, truyền thông, gia đình, xã hội.... Trong điều kiện hiện nay, hàng loạt các yêu cầu đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam là giáo dục, đào tạo con người phát triển toàn diện, trong trường phổ thông có nhiệm vụ chuẩn bị cho HS bước vào hệ thống ngành nghề trong XH. Thực tế nhiều HS khi học xong chương trình THPT vẫn chưa xác định được ngành nghề nào phù hợp với bản thân và theo nhu cầu của XH. Nguyên nhân chủ yếu là công tác HN trong nhà trường chưa hiệu quả. Trên cơ sở lý luận về mặt khoa học hướng nghiệp, tâm lý học nghề nghiệp của đối tượng HSTT, tác giả đã tiến hành khảo sát thực trạng về hoạt động giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho học sinh Trung tâm GDNN – GDTX Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An được trình bày ở Chương 2 tiếp theo. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP VÀ ĐỊNH HƯỚNG HỌC NGHỀ CHO HỌC SINH TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN 2.1.Khái quát về địa bàn nghiên cứu 2.1.1 Địa lí, dân cư, kinh tế huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Huyện Quỳnh Lưu nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Nghệ An. Huyện lỵ là thị trấn Cầu Giát, cách thành phố Vinh khoảng 60 km, có vị trí địa lý: Phía bắc giáp thị xã Hoàng Mai,Nghi Sơn, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa. Phía nam và tây nam giáp huyện Diễn Châu và huyện Yên Thành. Vùng phía nam huyện có chung khu vực đồng bằng với hai huyện Diễn Châu và Yên Thành. Phía tây giáp các huyện Nghĩa Đàn, Tân Kỳ và thị xã Thái hòa với ranh giới khoảng 33km, được 16
  17. hình thành một cách tự nhiện bằng các dãy núi kéo dài liên tục mà giữa chúng có nhiều đèo tháp tạo ra những con đường nối liền hai huyện với nhau. Phía đông huyện giáp biển Đông. Về điều kiện tự nhiên, Quỳnh Lưu có diện tích tự nhiên là 445,1km2( bao gồm 33 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Cầu Giát và 32 xã: Quỳnh thọ, Quỳnh Bá, Quỳnh Bảng, Quỳnh Châu, Quỳnh Diễn, Quỳnh Đôi, Quỳnh Giang, Quỳnh Hậu, Quỳnh Hoa, Quỳnh Hồng, Quỳnh Hưng, Quỳnh Lâm, Quỳnh Long, Quỳnh Lương, Quỳnh Minh, Sơn Mỹ, Sơn Hải, Tân Sơn, Tân Thắng, Tiến Thủy, Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Tam, Quỳnh Tân, Quỳnh Thạch, Quỳnh Thắng, Quỳnh Thanh, Quỳnh Thuận, Quỳnh Văn, Quỳnh Yên, An Hòa, Ngọc Sơn. Tuy một số xã thuộc miền núi và trung du như Quỳnh Châu, Quỳnh Tam, Quỳnh Thắng, nhưng phần lớn các xã nằm ở vùng đồng bằng nhỏ hẹp. Với địa hình bán sơn địa lại giáp biển, nên vừa có rừng, vừa có biển, có tuyến đường sắt và đường bộ Bắc - Nam đi qua. Là vị trí địa lý thuận lợi cho giao lưu và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Huyện Quỳnh Lưu có 205.105 nhân khẩu (năm 2013). Là nơi có truyền thống hiếu học với nhiều danh nhân thành đạt. Là huyện đồng bằng gắn liền với du lịch và dịch vụ. Với đặc điểm về địa lý của huyện, người dân miền tây chủ yếu trồng cây Công nghiệp như cao su, cà phê, dừa,...Người dân vùng đồng bằng chủ yếu là trồng lúa. Người dân vùng ven biển thường sống bằng nghề đánh cá, làm muối, làm rau..... Du lich biển Quỳnh đang được huyện đầu tư và phát triển để thu hút khách, tạo điểm nhấn cho thương hiệu du lịch biển Quỳnh. Với sự quan tâm của Trung ương và tỉnh Nghệ An, cùng với sự năng động sáng tạo của lãnh đạo và nhân dân địa phương. Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, đặc điểm dân cư đó, Quỳnh Lưu có cơ sở rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho sự nghiệp giáo dục nói riêng. Nhu cầu lao động trên địa bàn rất lớn, do đó việc giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng cho học sinh Trung tâm GDNN –GDTX để cung cấp nguồn nhân lực cho Huyện nhà là vấn đề hết sức quan trọng. 2.1.2. Công tác giáo dục đào tạo: Huyện Quỳnh Lưu có 33 trường THCS, bình quân mỗi khối lớp có hơn 1500 học sinh, số lượng học sinh sẽ tăng lên ở các năm sau. Có 05 trường THPT, 02 trường Dân Lập, 01 Trung tâm GDNN -GDTX với chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm vào lớp 10 khoảng 34.405.000 em. Số học sinh học lớp 12 trường THPT huyện Quỳnh Lưu hàng năm có khoảng gần 15300 em, trong đó khoảng 50% các em đỗ vào các trường Đại học , nhưng nhiều em do quá trình định hướng nghề nghiệp chưa tốt nên sau tốt nghiệp Đại học vẫn không có việc làm, số còn lại sẽ đi học trung cấp, cao đẳng nghề hoặc trực tiếp tham gia vào lao động sản xuất; một bộ phận khác không học nghề và cũng không tham gia lao động sản xuất, đây là lực lượng gây nên nhiều vấn đề phức tạp cho xã hội. 17
  18. 2.2. Thực trạng GDHN và ĐHHN cho HS Trung tâm GDNN – GDTX Quỳnh Lưu : 2.2.1. Khảo sát tình hình thực tế trước khi thực hiện đề tài TTGDNN – GDTX là cơ sở giáo dục đặt trên địa bàn xã Quỳnh Lâm huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An từ khi thành lập cho đến nay, trung tâm (TT) đã nhận được nhiều sự quan tâm của địa phương, sự nhiệt tình của Ban đại diện cha mẹ HS và các lực lượng xã hội trong công tác giáo dục cho HS nói chung và giáo dục hướng nghiệp, định hướng học nghề nói riêng. Trung tâm là đơn vị có tập thể cán bộ, GV đoàn kết nhất trí, có tinh thần trách nhiệm cao, GV đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học được được các cấp quan tâm và bổ sung hàng năm tạo điều kiện cho việc dạy và học nói chung và giáo dục hướng nghiệp nói riêng. Đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS tại TT, cùng với kinh nghiệm giảng dạy trong những năm qua tôi nhận thấy thực tế việc áp dụng các giải pháp trước đây của bản thân và một số GV còn tồn tại một số vấn đề sau: - Đối với giáo viên: + Phần lớn GV quan tâm tới việc nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS song vẫn còn một số GV chưa thực sự quan tâm tới việc đổi mới và áp dụng các giải pháp trong quá trình tổ chức hoạt động, giáo dục của mình. + Một số GV quan tâm tới việc nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS thì quá trình thực hiện lại chưa đồng đều, thực hiện qua loa, sơ sài, chiếu lệ. + Khi thực hiện áp dụng các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS, một số GV còn ngại đổi mới, tiếp thu các phương pháp mới, do đó lặp đi lặp lại các phương pháp đã sử dụng dẫn đến hiệu quả chưa cao, HS không có hứng thú học tập. + Khi tổ chức các hoạt động hướng nghiệp chưa thực cập nhật về nhu cầu thị trường việc làm, khả năng của học sinh. - Đối với học sinh: + HS chưa chủ động, tích cực trong quá trình học tập, đặc biệt là việc rèn luyện các các kĩ năng học tập cơ bản trong quá trình học tập. + Bên cạnh một số HS xác định được động lực, mục đích, sở trường của bản thân để phấn đấu học tập, rèn luyện thì còn nhiều HS chưa tìm được phương pháp học tập, bị động trong việc tự học. + HS chưa thực sự nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc định hướng nghề nghiệp và lựa chọn học nghề trong trương lai. Từ đó nhận thức, kĩ năng, thái độ và hành vi của các em còn hạn chế. 18
  19. Cùng với kinh nghiệm giảng dạy và nhận thức chủ quan của bản thân về những mặt còn tồn tại vừa nêu. Để có căn cứ cụ thể nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS, tôi đã tiến thăm dò ý kiến của 15 đồng nghiệp trong và ngoài TT về việc áp dụng các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS. Kết quả thu được như sau: Có nghiên cứu, áp Thường xuyên nghiên dụng các giải pháp Chưa bao giờ nghiên cứu, cứu, áp dụng các giải nhưng không thường áp dụng các giải pháp pháp xuyên Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) 1 6,6% 3 20% 11 73,4% Bảng 1: Kết quả thăm dò ý kiến của đồng nghiệp trong và ngoài TT về việc áp dụng các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS. Từ kết quả thăm dò trên cho thấy trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục, đặc biệt là giáo dục hướng nghiệp và định hướng chọn nghề cho HS ở TTGDNN – GDTX, rất ít GV đã áp dụng các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS (6,6%). Đặc biệt có nhiều GV chưa bao giờ áp dụng các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS (73%). Mặc dù vậy, hầu hết GV khi được hỏi đều cho rằng việc nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp và định hướng học nghề cho HS là rất cần thiết. Từ học năm học 2019 – 2020 về trước, việc GDHN và ĐHHN cho học sinh thực hiện 9 tiết/lớp/năm theo quy định của Bộ Giáo dục & Đào tạo. Nhiệm vụ này thường giao cho giáo viên chủ nhiệm đảm nhiệm như phần lớn các Trung tâm trong tỉnh. Do đó gần 80% học sinh lớp 12 làm hồ sơ thi vào các trường Đại học, nếu trượt năm sau lại thi tiếp. Nhận thức GDHN và ĐHHN cho học sinh của Ban giám đốc, giáo viên còn nhiều hạn chế, để mặc cho học sinh và gia đình tìm hiểu, quyết định. Đối với học sinh, đa số chạy đua vào các trường Đại học, chứ không tìm hiểu khoa đó, nghành đó sau khi tốt nghiệp thì nhu cầu xã hội thế nào. Hoặc lựa chọn các nghề trung cấp còn theo sở thích, không tính đến nhu cầu xã hội và khả năng của bản thân. Qua khảo sát, đánh giá thực trạng GDHN và chọn ngành nghề của HS Trung tâm GDNN –GDTX Quỳnh Lưu và HS trung tâm GDNN – GDTX Diễn Châu với 2 phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phương pháp trắc nghiệm tâm lý, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 400 học sinh đang theo học lớp 12 và 225 học sinh khối 10 tại nhà trung tâm, và kết quả 19
  20. về thực trạng lựa chọn nghề của học sinh cuối bậc THPT tại Trung tâm GDNN – GDTX Quỳnh Lưu như sau: Về cách thức chọn nghề của học sinh, kết quả nghiên cứu cho thấy, tuy thời điểm các em học sinh chuẩn bị ra trường sắp cận kề (cuộc điều tra được tiến hành vào tháng 12 năm 2019) nhưng dường như phần đông các em chưa có sự chuẩn bị một cách chu đáo đối với viêc chọn nghề của mình. Điều này thể hiện ở việc học sinh chưa tích cực tìm hiểu những thông tin có liên quan đến ngành, nghề để làm căn cứ lựa chọn nghề phù hợp. Số liệu thu được cho thấy chỉ có 16.25% học sinh có tìm hiểu kỹ về các loại nghề nghiệp khác nhau, 21.5% mới tìm hiểu và có đến 56.25% không thực hiện hoạt động này. Tương tự như vậy, chỉ có 10.5% số học sinh tìm hiểu kỹ về đầu ra sau khi học xong và nhu cầu thị trường lao động như là căn cứ quan trọng để định hướng sự lựa chọn và có đến 71% học sinh không có nhu cầu tìm hiểu thông tin này. Tưởng rằng, những thông tin chung về ngành, nghề hay thông tin về thị trường lao động sẽ là không quan trọng khi các em đã xác định được rõ hướng lựa chọn của mình vào một nghề cụ thể. Nhưng thực tế cho thấy, ngay cả đối với những nghề mà các em đã quyết định lựa chọn thi có đến 76.25% học sinh chưa tìm hiểu về những yêu cầu khách quan của nghề đòi hỏi người làm nghề phải đáp ứng. 41% học sinh đã chọn nghề nhưng chưa tìm hiểu xem cơ hội việc làm và thu nhập của nghề ra sao. 65.5% chưa tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn mình sẽ gặp phải khi làm nghề. Những con số nêu trên đã phản ánh một thực tế là dường như phần nhiều học sinh khi chọn nghề đã bỏ qua một khâu quan trọng là tìm hiểu kỹ về nghề mình chọn. Điều này làm cho các em dễ đưa ra những quyết định lựa chọn nghề một cách sai lầm... và kết quả là chán nghề và bỏ nghề trong các quá trình đào tạo và làm việc sau này. Bảng2. 1: Hoạt động tìm hiểu thông tin trong chọn nghề cùa học sinh Tìm hiểu Mới Chưa rất tìm tìm Stt Nội dung tìm hiểu hiểu hiểu kỹ (%) (%) (%) 1 Các loại nghề nghiệp khác nhau 16.25 28.5 56.25 2 Nhu cầu thị trường lao động nói chung 6.5 34.5 61.0 Những yêu cẩu của nghề mình định lựa 3 19.25 7.5 64.25 chọn Những thuận lợi và khó khăn gặp phải 4 19.25 15.25 75.5 khi làm nghề Thu nhập và cơ hội việc làm của nghề 5 30.75 22.25 44.0 mình định lựa chọn 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2