intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy - học môn Hoá học

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:31

31
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài: “Giải thích các hiện tư¬ợng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy - học môn Hoá học” với mục đích góp phần cho học sinh nhận thấy môn Hóa học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học… Để Hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy - học môn Hoá học

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT NGUYỄN THÁI HỌC =========o0o========= BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN  Tên sáng kiến: “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan  đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao  hiệu quả dạy ­ học môn Hoá học”      Tác giả sáng kiến: Vũ Khắc Thập      Mã sáng kiến: 05.55                   1     
  2. Vĩnh Phúc, năm 2020 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN I. LỜI GIỚI THIỆU Môn Hoá học giữ  một vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh  ở  trường trung học phổ  thông. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu   đúng đắn và nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con   người thông qua các bài học, giờ thực hành... của môn Hoá học. Học môn Hoá   học để  hiểu và giải thích được các vấn đề  thực tiễn thông qua cơ  sở  cấu tạo   nguyên tử, phân tử, sự  chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản  ứng hoá học... Đồng thời là khởi nguồn, là cơ  sở  phát huy tính sáng tạo ra   những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hoá học góp phần giải  tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con   người...  Để đạt được mục đích của môn Hoá học trong trường phổ thông thì giáo  viên dạy Hoá học  là nhân tố  tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài  những hiểu biết về Hoá học, người giáo viên dạy Hoá học còn phải có phương  pháp truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức Hoá học của học  sinh.  Xuất phát từ những nhu cầu và thực trạng trên tôi quyết định chọn đề tài:  “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng   thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả  dạy ­ học môn Hoá học”  với mục  đích góp phần cho học sinh nhận thấy môn Hóa học dễ  hiểu, thiết thực, gần                    2     
  3. gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học… Để  Hoá học không còn mang   tính đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học”. II. TÊN SÁNG KIẾN “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng   thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy ­ học môn Hoá học” III. TÁC GIẢ CỦA SÁNG KIẾN ­ Họ và tên: Vũ Khắc Thập ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: THPT Nguyễn Thái Học, phường Khai Quang, thành  phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc ­ Số điện thoại: 0982084468 ­ Mail: vuthap.vp1975@gmail.com IV. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN ­ Họ và tên: Vũ Khắc Thập ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: THPT Nguyễn Thái Học, phường Khai Quang, thành  phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc ­ Số điện thoại: 0982084468 ­ Mail: vuthap.vp1975@gmail.com V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN ­ Lĩnh vực: Môn Hóa học ­ Vấn đề mà sáng kiến giải quyết: Tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu  quả dạy ­ học môn Hoá học  VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU: Tháng 9 năm 2019 VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN VII.1. VỀ NỘI DUNG SÁNG KIẾN                   3     
  4. “GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN  BÀI HỌC ĐỂ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH VÀ NÂNG CAO  HIỆU QUẢ DẠY ­ HỌC MÔN HOÁ HỌC” A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN  Trong điều kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát triển  như vũ bão, n ền kinh tế  trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ  của ngành giáo   dục vô cùng to lớn: Giáo dục không chỉ  truyền đạt kiến thức cho học sinh mà  còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang   tính giáo dục, vừa mang tính giáo dưỡng nhưng cao hơn là giáo dưỡng hướng   thiện khoa học. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh,  nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về thế giới, con người thông  qua các bài học, giờ  thực hành... của Hoá học. Học môn Hóa học để  hiểu và  giải thích được các vấn đề  thực tiễn thông qua cơ  sở  cấu tạo nguyên tử, phân   tử, sự  chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản  ứng hoá học...   Đồng thời là khởi nguồn, là cơ  sở  phát huy tính sáng tạo ra những  ứng dụng   phục vụ trong đời sống của con người. Hoá học góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu  biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người... Để  đạt   được mục đích của học hoá học trong trường phổ  thông thì giáo viên dạy môn   Hoá học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu  biết về  Hoá học, người giáo viên dạy môn Hoá học còn phải có phương pháp  truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hoá học của học sinh. Đó   là vấn đề  cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến này, tôi có                    4     
  5. đề  cập đến một khía cạnh “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan   đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy ­ học môn   Hoá học”  với mục đích góp phần cho học sinh nhận thấy môn Hóa học dễ  hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học… Để  môn  Hoá học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “thuật ngữ khoa học”. 3. THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3.1. Thực trạng: Đổi mới phương pháp dạy học đã và đang thực sự  là yếu tố  quyết định  hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến  bộ  là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về  môi trường,  về  tư  tưởng vừa  mang bản sắc dân tộc mà không mất đi tính cộng đồng trên toàn thế giới, những  vấn đề cũ nhưng không cũ mà vẫn có tính chất cập nhật và mới mẽ,  đảm bảo:  tính khoa học – hiện đại, cơ bản; tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng hợp ;  tính hệ thống sư phạm. Tuy nhiên mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả những   quan điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ  lưỡng, đ ừng quá l ạm d ụng khi   lượng kiến thức không đồng nhất . * Thực tế giảng dạy cho thấy: Môn Hoá học trong trường ph ổ thông là m ột trong  các môn học khó, nếu  không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế  hệ  học trò  dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận.  Đã có hiện tượng  một số bộ phận học sinh không muốn học môn Hoá học, ngày càng lạnh nhạt  với giá trị thực tiễn của Hoá học. Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng m ức đến đối tượng giáo dục: Chưa  đặt ra cho mình nhiệm vụ  và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đ ồng   loạt cùng một cách dạy, một bày giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là                     5     
  6. không ít. Do phương pháp ít có tiến bộ  mà người giáo viên đã trở  thành người  cảm nhận, truyền thụ  tri thức một chiều. Giáo viên nên là người h ướng dẫn  học sinh chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức Hoá học. 3.2.  Kết quả, hiệu  quả  của thực trạng trên để  việc giảng dạy môn  Hoá  học đạt hiệu quả  cao hơn tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, ph ương  pháp trong các bài giảng Hoá học:  Một trong những điểm tôi đã làm là “Giải thích các hiện tượng thực tiễn   có liên quan đến bài học để  tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả   dạy ­ học môn Hoá học”. Có những vấn đề  Hoá học có thể giúp học sinh giải  thích những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu   được những ý nghĩa khoa học Hoá học trong những câu ca dao – tục ngữ mà thế  hệ  trước để  lại và có thể   ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày ch ỉ  bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác  dụng kích thích tính chủ  động, sáng tạo, hứng thú trong môn học; làm cho hoá  học không khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp. Trong phạm vi đề tài đề tài “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên   quan đến bài học để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả dạy ­ học   môn hoá học” chỉ nêu lên một vài suy nghĩ, đề  suất của cá nhân coi đó là kinh  nghiệm qua một số  ví dụ  minh hoạ, với mong muốn góp phần  nâng cao hiệu  quả dạy ­ học môn hoá học. B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để tạo hứng  thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả  dạy ­ học môn Hoá học  sẽ  khơi dậy  niềm đam mê;  học sinh  hiểu được vai trò và ý nghĩa thực tiễn  trong học hoá  học. Để thực hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định                    6     
  7. được kiến thức trọng tâm,  tìm hiểu,  tham khảo các vấn đề  thực tế  liên quan  phù hợp với từng học sinh  ở  thành thị, nông thôn …; đôi lúc cần quan tâm đến  tính cách sở  thích của đối tượng ti ếp  thu, hình thành giáo án theo hướng phát   huy tính tích cực chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà ; đôi  lúc có khôi hài nhưng sâu s ắc,  vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn  Hoá  học. Tuy nhiên, thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều, “ nó như thứ gia   vị  trong đời sống không thể  thay cho thức ăn nhưng thi ếu nó thì kém đi hi ệu   quả ăn uống ”. 1. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: “Giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học để  tạo   hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả  dạy ­ học môn Hoá học”   bằng  cách: Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày, thường sau khi đã  kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề  này có thể  tạo cho học sinh căn cứ  vào  những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt  gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng  đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.   Nêu  hiện  tượng thực  tiễn  xung quanh  đời sống ngày thường qua các  phương trình phản  ứng hoá học cụ  thể trong bài học. Cách nêu vấn đề  này có   thể  sẽ  mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực   tiễn bài học. Giáo viên có thể  giải thích để  giải toả  tính tò mò của học sinh.  Mặc dù vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ thông.   Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời  giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ,  có thể  là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề  rất bình thường mà hàng                     7     
  8. ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá  trình học tập. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua  các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề  này có thể  giúp cho học sinh trong khi   làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề  cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải   được bài toán hoá đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy  động, hiểu được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào? Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua  những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể  xen vào bất cứ  thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học  tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá. Tiến hành tự  làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh   đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình … sau khi đã học bài giảng. Cách  nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm   cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt  gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả  năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ  với nội dung bài giảng để  rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm cho   học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập  theo tính đặc thù của bộ  môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với   thực tiễn hàng ngày.  2. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN: 2.1. Giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách như sau:  Bằng lời giải thích, hình  ảnh, đoạn phim, … có thể  tiến hành dạy trong  hoàn cảnh dùng máy chiếu hay không dùng máy chiếu … Điều này cần phụ                    8     
  9. thuộc vào điều kiện ở mỗi trường, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và phong cách  dạy khác nhau để  huy động tối đa. Vì hiệu quả  giáo dục với nội dung đề  tài  này, có những kinh nghiệm có thể  áp dụng cho người này nhưng có những  phong cách không thể áp dụng cho giáo viên khác. Vì phong cách dạy “nó như  tính cách của mỗi con người không thể ai cũng giống ai” nhưng đảm bảo được  nội dung dạy học theo yêu cầu của chương trình. 2.2. Ví dụ minh họa thông qua một số hiện tượng trong thực tiễn: * Ví dụ 1: Vì sao khi luộc rau muống nên cho một ít muối ăn (NaCl) vào trước   khi luộc? Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100oC, nếu ta thêm NaCl thì lúc  đó làm cho nhiệt độ  của nước muối khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100oC.  Do nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời   gian luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ  mềm hơn và xanh hơn. Áp dụng: Vấn đề này có thể có học sinh biết nhưng có học sinh không để  ý và nếu được biết đến thì các em có thể  tiến hành thí nghiệm ngay trong mỗi   buổi nấu ăn, góp phần tạo thêm kinh nghiệm cho học sinh, rất thiết thực. Có   thể  đưa hiện tượng này vào trong bài: hợp chất muối clorua  ở  lớp 10 và hợp  chất quan trọng của Natri ở lớp 12. * Ví dụ 2: Vì sao cồn có thể sát khuẩn? Cồn là dung dịch Ancol etylic (C2H5OH) có khả  năng thẩm thấu rất cao,  có thể xuyên qua màng tế bào tiến sâu vào trong gây đông tụ protein làm cho tế  bào bị chết (Do protein là cơ sở sự sống của tế bào).  Thực tế  thấy rằng chỉ  có cồn 75% là có khả  năng sát trùng tốt nhất, vì  nếu cồn > 75% thì nồng độ  cồn quá cao làm cho protein bị đông tụ  nhiều, làm   protein trên bề mặt vi khuẩn đông cứng hình thành một lớp vỏ cứng ngăn không                    9     
  10. cho cồn thấm vào nên vi khuẩn không bị  chết. Nếu cồn quá loãng (
  11. Do:    (dùng bìa cứng che)   Áp dụng:  Đây là vấn đề thực tế với những gia đình, xí nghiệp kinh doanh  và sản xuất thuỷ tinh . Không những cung cấp cho học sinh phương pháp khắc  thuỷ  tinh mà còn giải thích hiện tượng đó. Giúp học sinh sẽ  nhớ  đến bài học   khi gặp vấn đề  này. Thậm chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi dậy niềm   đam mê học tập và khám phá, càng tốt hơn nếu học sinh được tiến hành thí  nghiệm. Giáo viên có thể  đề  cập đến trong bài giảng về  Flo, dung dịch HF  hoặc trong tiết thực hành (ở lớp 10). * Ví dụ 5: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm  ý của khoa học hoá học như thế nào? Trong  đá  thông  thường  chủ  yếu  là CaCO3  nên trong nước  sẽ   tồn  tại  phương trình điện ly:  CaCO3   Ca2+  +  CO32­ Khi nước chảy sẽ  cuốn theo các ion , theo nguyên lý chuyển dịch cân  bằng hoá học thì cân bằng (*) chuyển dịch theo phía chống lại sự  giảm nồng  độ  (chiều thuận) nên theo thời gian nước chảy qua đá sẽ mòn dần. Có thể  giải thích bổ  sung thêm nguyên nhân khác: Vì trong nước có lẫn   khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng: . Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO 3)2 trôi theo,  qua thời gian đá sẽ bị mòn dần. Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy  ở  những phiến đá  ở  những dòng   chảy đi qua. Nếu không để  ý, trong xây dựng sẽ  có  ảnh hưởng không ít. Góp  phần hiểu được dụng ý của khoa học của câu tục ngữ, làm cho hoá học trở nên  gần gủi, có hồn văn hơn. Giáo viên có thể  xen vấn đề  này trong khi dạy đến   phần về muối CaCO3 (ở lớp 11 hay lớp 12). * Ví dụ 6: Cao dao Việt Nam có câu:                    11     
  12. “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào? Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng   mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau  này.  Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa   điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động:  Sau đó:   Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa:   Nhờ  hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 − 7 kg N cho mỗi mẫu đất.  Ngày nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ không khí để chủ động bón  cho cây trồng. Trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón  và nhiệm vụ của nghành công nghiệp hoá chất “hướng về không khí đòi lương  thực” là càng lớn. Áp dụng: Đây là một câu ca dao mang một ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong  đời sống. Vấn đề  này có thể  xen vào trong tiết dạy phân đạm (ở  lớp 11). Tạo  cho học sinh khu vực làm nông nghiệp có thể tiện kiểm nghiệm trong đời sống,   tự quan sát. * Ví dụ 7: Hiện tượng tạo hang động và thạch nhũ với những hình dạng phong   phú đa dạng như thế nào?                   12     
  13. Trong đá thông thường chủ  yếu là CaCO3, khi trời mưa, trong không khí  có CO2  tạo môi trường axit làm tan được đá vôi, những   giọt nước mưa rơi   xuống như vô vàn mũi dao nhọn, sắc khắc vào đá những đường nét khác nhau Và xuất hiện quá trình điện ly:    CaCO3   Ca2+  +  CO32­ – Theo thời gian dần tạo ra các hang động khi nước có Ca(HCO 3)2  ở  đất đá do  áp suất nhiệt độ đột nhiên thấp nên khi giọt nước nhỏ từ từ có tồn tại phương   trình:   Ca(HCO3)2   CaCO3  + CO2  + H2O  Như  vậy lớp CaCO3 lưu lại ngày càng nhiều, dày gọi đó là nhũ có màu, hình  thù đa dạng.                                 Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy trong các hang động núi đá. Giáo  viên có thể xen vấn đề này trong khi dạy đến phần về các muối cacbonat (ở lớp  11) hay hợp chất của Canxi (ở lớp 12).  * Ví dụ 8: Tại sao nước máy lại có mùi clo?  Khi sục vào nước một lượng nhỏ Clo vào nước có tác dụng sát trùng do  clo tan 1 phần (gây mùi) và phản ứng 1 phần với nước: H2O + Cl2  HCl + HClO Hợp chất HClO không bền có tính oxi hoá mạnh:  HClO    HCl  +  O. Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn.  Áp dụng:  Vấn đề này đang đang được sử  dụng làm sạch nước hiện nay   trong các nhà máy nước cung cấp nước trong thành phố, thị xã, thị trấn… Giúp  học sinh hiểu và giải toả thắc mắc, hiểu được vai trò của hoá học và học sinh                    13     
  14. có thể kiểm nghiệm qua thực tế. Giáo viên có thể xen vào bài giảng về Clo (ở  lớp 10). * Ví dụ 9: Tại sao sau những cơn mưa có sấm chớp, đường xá, khu phố, rừng   cây,… sạch quang, mát mẻ, trong lành hơn?  Do trong không khí có 20% O2 nên khi có sấm chớp tạo điều kiện:   3 O2   2 O3 Tạo ra một lượng nhỏ O3, O3 có khả năng sát trùng: O3   O2  +  O.  (sát trùng) Nên ngoài những hạt mưa cuốn theo bụi thì O3 là tác nhân làm môi trường sạch  sẽ và cảm giác tươi, mát. Áp dụng: Vấn đề  này giáo viên nên đề  cập trong bài giảng về  Ozon (ở  lớp 10), giúp học sinh kiểm nghiệm trong cuộc sống mà đôi khi có nhiều học  sinh không chú ý đến. Đây là một hiện tượng tự nhiên không xa lạ với học sinh. * Ví dụ 10:  Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu? “Ma trơi” chỉ  là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ  thể  (xương   động vật) có chứa một hàm lượng P khi chết phân huỷ  tạo 1 phần thành khí   PH3 (Photphin) khi có lẫn một chút khí P2H4 (Diphotphin), khí PH3 tự  bốc cháy    ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trong không khí Điều trùng lặp ngẫu nhiên là: Người ta thường gặp “Ma trơi”  ở  các nghĩa địa   càng tăng nên tính chất kịch tính. Áp dụng:  Vấn đề  này phải được đề  cập  trong bài giảng về  P để  giải  thích hiện tượng trong đời sống “Ma trơi”. Tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm   cho cuộc sống lành mạnh. Hiện tượng này giáo viên có thể đề cập trong bài về  P (ở lớp 11).                    14     
  15. * Ví dụ 11:  Tại sao phải ăn muối có iot ? Ăn muối để bổ  sung hàm lượng Iod cho cơ  thể, trong cơ thể một người   trưởng thành có chứa 20 – 50mg iot chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu   Iod trong tuyến này thì cơ  thể  sẽ  bị  một số  bệnh: Bướu cổ, nặng hơn là dẫn  đến đần độn, phụ  nữ  thiếu iot dẫn dến vô sinh, có biến chứng sau khi sinh.   Mỗi ngày phải đảm bảo cho cơ thể tiếp xúc với 
  16. Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH 3COOH 5%) và rượu,  đun sôi rồi để  nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ  hớt ra và lau   mạnh là sạch. Áp dụng: Giáo viên có thể  xen vào trong bài giảng về nước cứng (ở lớp   12). Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống cũng góp phần cho học sinh   hiểu bản chất của vế  đề  có trong đời sống hàng ngày, học sinh có thể   ứng   dụng trong đời gia đình mình, tạo sự  hưng phấn trong học tập. Đó là một thí  nghiệm tự làm được. * Ví dụ 14: Vì sao nước biển lại mặn? Các con sông, suối, … Các dòng nước trên lục địa đều chảy về biển, đại  dương và hoà tan mọi vật thể có thể hoà tan. Do quá trình bay hơi, các nguyên   tố, hợp chất tụ tập trong nước biển ngày càng nhiều theo thời gian, vị mặn của   nước  biển   chủ   yếu   do   NaCl   gây  nên.   Trong   nước   biển  có   khoảng  hơn  80  nguyên tố, các halogen có nhiều trong nước biển, nguyên tố  Br có trong nước   biển tới 99% tổng lượng tồn tại và chiếm 0,065% trong nước biển.    Áp dụng: Điều này là hiển nhiên thấy trong đời sống, bất kể  ai cũng có  thể biết hiện tượng này, vấn đề này có thể đưa vào trong trong khi dạy về bài:  halogen (ở lớp 10), clo (ở lớp 10) với mục đích giải thích nước biển lại mặn?  Có thể đặt ra câu hỏi: Vì sao nước biển lại mặn? Căn cứ vào sự trả lời của học  sinh giáo viên thông báo lại chính xác hơn.  * Ví dụ  15: Vì sao tay một người dính cồn iod cầm bánh mì thì có chấm xanh   trên bánh? Do cồn iod là hỗn hợp tan của Iod và Ancol etylic (C2H5OH), Iod gặp tinh  bột tạo ra phức màu xanh dương.  Điều này cũng có thể  giải thích khi bôi cồn iod lên phía trong quả  chuối  xanh   lại   cũng   có   hiện   tượng   tương   tự   (do   trong   chuối   xanh   có   tinh   bột                     16     
  17. (C6H10O5)n). Nhưng nếu là chuối chín thì không thấy hiện tượng này (do chuối  chín chuyển tinh bột thành đường Glucozo (C6H12O6). Người ta sử dụng tinh bột  để nhận biết iod và ngược lại. Áp dụng: Điều này được đề cập khi dạy về  Iod (ở lớp 10) và Tinh bột (ở  lớp 12), giúp học sinh có thể giải thích 1 hiện tượng trong đời sống vì thực tế  cồn iod có rất đại trà trong  đời sống đặc biệt là trị  ghẻ  thú y, cung cấp cách   nhận biết tinh bột.  * Ví dụ 16: Dấm ăn là gì? Có ích gì?  Trong dấm ăn có vị chua vì có 3 ­ 5% là Axit axetic (CH3COOH). Dấm ăn  có tác dụng tạo vị chua và có tác dụng làm cho cơ thể có cảm giác muốn ăn và  tiêu hoá tốt, có khả năng tiêu độc, sát khuẩn.   Áp dụng: Dấm ăn là một thứ gia vị rất gần gũi trong đời sống, giáo viên  có thể xen vào trong bài giảng về axit axetic (ở lớp 12) để học sinh liên hệ trong   thực tế, hiểu biết về vai trò của dấm ăn đối với con người. * Ví dụ 17: Vì sao có thể đánh cảm bằng dây bạc và khi đó dây bạc bị hóa đen?   Để dây bạc trắng sáng trở lại, người ta sẽ ngâm vào nước tiểu? Người bị  cảm trong cơ  thể  thường sinh ra những hợp chất dạng sunfua   (S2−) vô cơ hay hữu cơ đều có tính độc. Khi đánh cảm bằng bạc, do S có ái lực   mạnh với Ag nên xảy ra phản ứng tạo Bạc sunfua (Ag 2S) kết tủa màu đen. Do  đó loại được chất độc ra khỏi cơ  thể  và cũng làm cho dây bạc chuyển thành   màu đen. Trong nước tiểu có NH3, khi ngâm dây bạc vào thì sẽ xảy ra phản ứng: Nên Ag2S bị hoà tan, bề mặt dây bạc lại trở nên sáng bóng.                   17     
  18. Áp dụng: Đây là những  ứng dụng rất hay của bạc. Giáo viên có thể  đưa  những vấn đề này vào bài về kim loại (ở lớp 12). * Ví dụ 18: Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt?  Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của  người có các enzim. Khi nhai kỹ  trộn đều, tuyến nước bọt làm tăng cơ  hội   chuyển   hoá   một   lượng   tinh   bột   theo   phản   ứng   thuỷ   phân   thành   mantozơ,  glucozơ gây ngọt theo sơ đồ:  Áp dụng: Vấn đề này có thể đề cập đến trong bài dạy về tinh bột (ở lớp   12), cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự chuyển hoá tinh bột trong   khi ăn. Đó cũng là một hiện tượng tự nhiên đều cảm nhận được trong các bữa   cơm của chúng ta. * Ví dụ 19: Vì sao không nên ăn hoa quả ngay sau bữa ăn? Trái cây có loại đường đơn là monosaccarit và một số  loại axit sẽ  kết  hợp với axit trong dạ dày tạo ra Axit tactaric, Axit citric làm cho dạ dày đầy hơi. Một số loại hoa quả có hàm lượng Tanin và Pectin cao, chúng sẽ kết hợp   với dịch vị, chất xơ  và protein trong thức ăn, dễ  tạo thành những hạt rắn, khó  tiêu hóa. Những hạt này hình thành sỏi ở dạ dày, ruột.  Nên ăn hoa quả sau bữa ăn khoảng 1−3 giờ. Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (ở  lớp 12)  * Ví dụ 20: Vì sao vắt chanh vào cốc sữa đặc có đường sẽ thấy có kết tủa? Trong sữa có thành phần protein gọi là Cazein. Khi vắt chanh vào sữa làm  tăng độ  chua, tức làm giảm pH của dung dịch sữa tới pH đúng với điểm đẳng   điện của cazein thì chất này sẽ kết tủa.                    18     
  19. Khi làm phomat, người ta cũng tách Cazein theo nguyên tắc tương tự  và  cho lên men tiếp. Áp   dụng:   Giáo   viên   có   thể   đưa   các   vấn   đề   thực   tế   này   vào   bài   axit  cacboxylic (ở lớp 12).   * Ví dụ 21: Gương soi có lịch sử như thế nào? Thời xa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đến thời đồ  đồng   thau thì bằng gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần chuyển sang thuỷ  ngân tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thuỷ  ngân gây ngộ  độc cho người sản  xuất. Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế  bằng bạc tráng sau tấm kính  nhờ  phản  ứng anđehit (R−CHO) với dung dịch AgNO3/NH3  hay thay andehit  bằng glucozơ.  Ag tạo ra bám chặt vào gương, người ta quét lên mặt sau chiếc gương một lớp  sơn dầu bảo vệ. Phích nước cũng chế tạo kiểu này.   Áp dụng:  Đây là một  ứng dụng của hợp chất có chức andehit vào đời  sống. Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong các tiết dạy về andehit, glucozơ… (ở lớp 11 hay lớp 12). Để học sinh hiểu phần nào về sự tạo gương, ruột phích  mà hàng ngày ai cũng bắt gặp. * Ví dụ 22: Vì sao phèn chua có thể làm trong nước? Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm  nước: [K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O] Phèn chua không độc, có vị  chua chát, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều  trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ  bị  thủy phân và tạo thành  Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lững trong nước                   19     
  20. Al2(SO4)3    2Al3+  +  3SO42­ Al3+  +  H2O    AlOH2+  +  H+ AlOH2+ +  H2O    Al(OH)2+  +  H+ Al(OH)2+  +  H2O   Al(OH)3  +  H+ Al2(SO4)3  +  3H2O    Al(OH)3  +   H2SO4   Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lững  ở trong nước này đã  kết dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng   hơn và lắng xuống. Vì vậy mà nước trở nên trong hơn. Áp dụng: Đây là một ứng dụng quan trọng của phèn chua trong đời sống.   Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong bài dạy về muối sunfat hoặc về các hợp   chất quan trọng của nhôm (ở lớp 10 hay lớp 12). * Ví dụ 23: Hàn the là chất gì? Hàn the có thành phần chính là chất Natri tetraborat (hay là Borac), ở dạng   tinh thể ngậm nước. Tinh thể trong suốt, tan nhiều trong n ước nóng, không tan  trong cồn 90o. Trước đây, người ta thường dùng hàn the làm chất phụ  gia cho vào giò   lụa, bánh phở, bánh cuốn, … để  cho những thứ này khi ăn sẽ  cảm thấy dai và  giòn. Ngay từ  năm 1985, Tổ  chức Y tế thế giới đã cấm dùng hàn the làm chất  phụ gia cho thực phẩm vì nó độc, có thể gây sốc, trụy tim, co giật và hôn mê. Áp dụng: Hàn the là chất được dùng trong buôn bán nhưng đã bị  cấm sử  dụng từ lâu. Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong bài dạy về một số hợp chất   quan trọng của Natri (ở lớp 12). * Ví dụ 24: Cloramin là chất gì mà sát trùng được nguồn nước? Cloramin là chất NH2Cl và NHCl2. Khi hoà tan cloramin vào nước sẽ giải   phóng cho ra khí Clo. Clo tác dụng với nước tạo ra HClO. H2O  +  Cl2    HCl  +  HClO                   20     
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2