Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành năng lực đọc mở rộng cho học sinh lớp 11 trường THPT Con Cuông qua hình thức dạy học dự án
lượt xem 0
download
Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Hình thành năng lực đọc mở rộng cho học sinh lớp 11 trường THPT Con Cuông qua hình thức dạy học dự án" nhằm giúp học sinh hình thành năng lực đọc mở rộng, đọc sáng tạo một số loại văn bản; biết cách đọc và tự đọc hiểu một số văn bản ngoài chương trình sách giáo khoa; Hình thành và phát triển các năng lực cho học sinh: giao tiếp và hợp tác; tự chủ và tự học; giải quyết vấn đề và sáng tạo; chuyển đổi số; năng lực nghe, nói, đọc, viết, cảm thụ thẩm mỹ, tư duy hình tượng …
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành năng lực đọc mở rộng cho học sinh lớp 11 trường THPT Con Cuông qua hình thức dạy học dự án
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “HÌNH THÀNH NĂNG LỰC ĐỌC MỞ RỘNG CHO HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT CON CUÔNG QUA HÌNH THỨC DẠY HỌC DỰ ÁN” LĨNH VỰC: NGỮ VĂN
- SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT CON CUÔNG ……………………… SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “HÌNH THÀNH NĂNG LỰC ĐỌC MỞ RỘNG CHO HỌC SINH LỚP 11 TRƯỜNG THPT CON CUÔNG QUA HÌNH THỨC DẠY HỌC DỰ ÁN” LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Nhóm tác giả: Đặng Thị Minh Châu – Lê Ngọc Huyền – Trần Thị Thu Hiền Bộ môn: Ngữ Văn Số điện thoại: 0398.074.359 – 0912.205.193 – 0964.502.264 Đơn vị: Trường THPT Con Cuông Con Cuông, tháng 4 năm 2024
- MỤC LỤC Mục Nội dung Trang Phần I ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 2 Tính mới của đề tài 1.3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2 1.4 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 3 1.5 Phương pháp nghiên cứu 3 Phần II NỘI DUNG 3 2.1 Cơ sở lí luận 3 2.2 Cơ sở thực tiễn 9 Giải pháp vận dụng dạy học dự án hình thành năng lực 2.3 đọc mở rộng một số thể loại văn bản cho học sinh lớp 11, 13 trường THPT Con Cuông Hình thành năng lực đọc mở rộng thể loại truyện ngắn 2.3.1 13 qua dự án: “Triển lãm nghệ thuật về người nông dân Việt Nam qua một số truyện ngắn hiện đại”. 2.3.2 Hình thành năng lực đọc mở rộng thể loại thơ trữ tình 19 qua dự án: Bài thơ tôi yêu 2.3.3 Hình thành năng lực đọc mở rộng thể loại truyện ngắn và 28 thơ trữ tình qua dự án: Sổ tay Văn học 2.4 32 Kết quả đạt được của các giải pháp 2.5 Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các 36 giải pháp PHẦN III 40 KẾT LUẬN 3.1 Kết luận 40 3.2 Đề xuất, kiến nghị 41
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lí do chọn đề tài Nghị quyết 29 của Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Trong công văn 3175/BGDĐT- GDTrH, ngày 21/ 7 /2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo đổi mới cách dạy học, đánh giá học sinh trong môn Ngữ Văn: “Tăng cường hơn nữa việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập môn Ngữ Văn; dành nhiều thời gian cho các hoạt động thực hành, vận dụng, trình bày, thảo luận để rèn luyện kĩ năng đọc, viết, nói, nghe và cảm thụ thẩm mĩ...”, “giúp học sinh biết cách đọc và tự đọc hiểu được văn bản; thông qua đó hình thành phẩm chất, nhân cách học sinh... ”. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn nhằm phát triển năng lực, phẩm chất toàn diện của học sinh là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong bối cảnh giáo dục hiện nay – khi chương trình GDPT 2018 đã được triển khai đồng bộ. Trong chương trình Ngữ Văn 2018, kĩ năng đọc đóng một vai trò quan trọng và được bố trí với một tỉ lệ tương đối lớn. Cụ thể: Đọc hiểu chiếm khoảng 60% ; Viết: 25%; Nói – Nghe: 10%; Kiểm tra, đánh giá: 5%. Trong giờ đọc – hiểu mỗi kiểu văn bản cần đạt các yêu cầu: Đọc hiểu nội dung, đọc hiểu hình thức, liên hệ, so sánh, kết nối và đọc mở rộng. Trong đó phần đọc mở rộng có vị trí quan trọng trong việc phát triển năng lực đọc cho học sinh, giúp các em làm giàu vốn kiến thức, cải thiện kĩ năng viết, nói, nghe. Ngoài ra, nó còn hình thành, nuôi dưỡng thói quen, niềm đam mê đọc sách, phát triển năng lực cảm thụ văn học, tư duy thẩm mỹ, giúp học sinh tự ý thức về bản thân và hiểu hơn về thế giới xung quanh. Để đáp ứng yêu cầu của chương trình Ngữ Văn 2018, mỗi năm học sinh cần đọc mở rộng ít nhất 35 văn bản có thể loại, độ dài, độ khó tương đương với các văn bản đã học. Vì vậy, việc hình thành năng lực đọc mở rộng cho học sinh là một yêu cầu rất cần thiết. Với mong muốn nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ Văn, cũng như phát triển năng lực đọc mở rộng cho học sinh, chúng tôi có những trăn trở, tìm tòi và nhận thấy rằng giáo viên cần linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động học tập. Một trong những phương pháp dạy học mới, hướng vào hoạt động của học sinh và thu được hiệu quả cao là phương pháp Dạy học dự án (DHDA). Phương pháp DHDA góp phần gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, đào tạo năng lực làm việc tự lực sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác của người học. Phương pháp này được đặt nền tảng ở Mỹ từ đầu thế kỷ XX và được phát triển, sử dụng qua nhiều nước khác nhau. Ở nước ta, DHDA được chú trọng nghiên cứu lí 1
- thuyết và ứng dụng nhiều hơn trong những năm gần đây. Tuy nhiên, việc ứng dụng phương pháp này trong chương trình Ngữ Văn để hình thành năng lực đọc mở rộng một số loại văn bản ngoài sách giáo khoa cho học sinh thì chưa nhiều. Và ở Trường THPT Con Cuông, với đối tượng học sinh miền núi thì phương pháp này hầu như chưa được chú ý và vận dụng hiệu quả. Nhằm giúp học sinh biết cách đọc và tự đọc hiểu một số văn bản ngoài chương trình sách giáo khoa, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn trong bối cảnh đổi mới nền giáo dục, chúng tôi đã suy nghĩ, tìm tòi và mạnh dạn chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Hình thành năng lực đọc mở rộng cho học sinh lớp 11 trường THPT Con Cuông qua hình thức dạy học dự án”. 1.2. Tính mới của đề tài Đây là đề tài mới, lần đầu được áp dụng tại trường THPT Con Cuông, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn và có khả năng áp dụng trong phạm vi rộng, dễ thực thi cho các nhà trường khi thực hiện chương trình GDPT 2018. 1.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 1.3.1. Mục đích nghiên cứu - Giúp học sinh hình thành năng lực đọc mở rộng, đọc sáng tạo một số loại văn bản; biết cách đọc và tự đọc hiểu một số văn bản ngoài chương trình sách giáo khoa. - Hình thành và phát triển các năng lực cho học sinh: giao tiếp và hợp tác; tự chủ và tự học; giải quyết vấn đề và sáng tạo; chuyển đổi số; năng lực nghe, nói, đọc, viết, cảm thụ thẩm mỹ, tư duy hình tượng … - Bồi dưỡng tình yêu đối với các tác giả, tác phẩm văn học và tăng niềm đam mê, hứng thú học tập môn Ngữ Văn; góp phần hình thành các phẩm chất chăm chỉ, trung thực, nhân ái, yêu nước… cho các em học sinh thông qua việc tìm hiểu các loại văn bản. - Thấy được vai trò quan trọng của dạy học dự án trong chương trình Ngữ Văn 2018. Qua đó, góp phần đề xuất một số hình thức tổ chức dạy học dự án để hình thành năng lực đọc mở rộng văn bản cho học sinh ở trường THPT. 1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tập trung vào 03 nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu lí luận dạy học dự án, dạy học dự án trong môn Ngữ Văn; Khảo sát, đánh giá thực trạng dạy học Ngữ Văn ở trường THPT Con Cuông; Đề xuất các giải pháp vận dụng dạy học dự án để hình thành năng lực đọc mở rộng văn bản ngoài chương trình sách giáo khoa cho học sinh lớp 11 trường THPT Con Cuông. 2
- 1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 1.4.1. Phạm vi nghiên cứu - Vận dụng phương pháp dạy học dự án: hình thành, phát triển năng lực đọc mở rộng thể loại văn bản truyện ngắn và thơ trữ tình ngoài chương trình sách giáo khoa cho học sinh lớp 11 Trường THPT Con Cuông. - Thời gian thực hiện: năm học 2023 - 2024 1.4.2. Đối tượng nghiên cứu - Giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường THPT trên địa bàn huyện Con Cuông. - Học sinh lớp 11, Trường THPT Con Cuông. 1.5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra, phỏng vấn, thu thập thông tin - Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá - Phương pháp so sánh, đối chiếu - Phương pháp thực nghiệm sư phạm - Phương pháp thống kê, phân tích số liệu: Sử dụng một số công thức toán học, phần mềm Excel, Google drive để xử lí thống kê và đánh giá kết quả. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lí luận 2.1.1. Dạy học dự án 2.1.1.1. Nguồn gốc của Dạy học dự án Cụm từ “Dạy học dự án” trong nguyên bản tiếng Anh là “project based learning” (viết tắt là PBL); còn được gọi bằng nhiều cách khác nhau như: “DHTDA”, “học theo dự án”, “dạy học theo dự án”, … Phương pháp DHDA có nguồn gốc từ châu Âu (thế kỉ XVI, ở Ý và Pháp). Đến đầu thế kỉ XX, các nhà sư phạm Mỹ (Woodward, Richard, J.Dewey,…) đã xây dựng cơ sở lí luận cho phương pháp DHDA và coi đó là phương pháp dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học định hướng vào người học, nhằm khắc phục nhược điểm của dạy học truyền thống - xem người dạy là trung tâm. Ban đầu phương pháp DHDA được sử dụng trong dạy học thực hành các môn học về kỹ thuật, sau đó được dùng trong hầu hết các môn học khác. Phương pháp DHDA đã được sử dụng phổ biến trong các trường Phổ thông và Đại học trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển. Hiện nay, phương pháp DHDA đang nhận được sự quan tâm của nhiều cá nhân và các tổ chức giáo dục. Cũng chính vì thế mà xuất hiện nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về phương pháp DHDA. 3
- Theo tổ chức hoạt động giáo dục Oracle (Mỹ): “DHDA là một phương pháp học tập mang tính xây dựng, trong đó học sinh tự đưa ra sáng kiến và thực hiện xây dựng phiếu hỏi, thu thập thông tin, phân tích dữ liệu và đưa ra những nhận định, kết luận về các vấn đề cụ thể”. Theo Intel (Mỹ): DHTDA là một hình thức dạy học, trong đó học sinh thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn liền với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành và đánh giá kết quả. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm, kết quả Dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu được. Bộ giáo dục Singapore cho rằng: “Học theo dự án là hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho học sinh tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập, và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tế cuộc sống”. DHDA là một chuỗi hoạt động dựa trên động cơ bên trong của học sinh nhằm khám phá và phát hiện một phần của thực tế (thông qua các chuỗi hoạt động thực tế: Thực hiện nghiên cứu; khám phá các ý tưởng theo sở thích; tìm hiểu và xây dựng kiến thức; học liên môn; giải quyết các vấn đề; cộng tác với các thành viên trong nhóm; giao tiếp; phát triển các kĩ năng thái độ và sự đam mê). Theo cục Giáo dục Hồng Kông: Dạy học theo dự án là một hoạt động tìm hiểu sâu về một chủ đề cụ thể với mục tiêu tạo cơ hội để học sinh thực hiện nghiên cứu vấn đề thông qua việc kết nối các thông tin, phối hợp nhiều kĩ năng giá trị và thái độ nhằm xây dựng kiến thức và phát triển khả năng và thái độ học tập suốt đời. Theo tác giả Đỗ Hương Trà: Dạy học dự án là một mô hình dạy học lấy hoạt động của học sinh là trung tâm. Kiểu dạy này phát triển kiến thức kĩ năng của học sinh thông qua quá trình học sinh giải quyết một bài tập tình huống gắn với thực tiễn bằng những kiến thức theo nội dung môn học – được gọi là dự án. Dự án đặt học sinh vào vai trò tích cực như: người giải quyết vấn đề, người ra quyết định, điều tra viên hay người viết báo cáo. Thường thì học sinh sẽ làm việc theo nhóm và hợp tác với chuyên gia bên ngoài và cộng đồng để trả lời các câu hỏi và hiểu sâu hơn nội dung, ý nghĩa của bài học. Học theo dự án đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu và thể hiện kết quả học tập của mình thông qua cả sản phẩm lẫn phương thức thực hiện. Những quan điểm trên tuy có một số điểm khác nhau nhưng đều đảm bảo được những nội dung cơ bản của phương pháp DHDA. Chúng ta có thể hiểu DHDA là một phương pháp hay một hình thức dạy học, trong đó người học giữ vai trò trung tâm thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của dạy học dự án, dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ, cộng tác của giáo viên. Dự án đặt học sinh vào vai trò tích cực như: người giải quyết vấn đề, người ra quyết định, điều tra viên hay người viết báo cáo,… Chủ yếu học sinh sẽ làm việc theo nhóm và 4
- hợp tác với các chuyên gia và cộng đồng để trả lời các câu hỏi và hiểu sâu hơn nội dung, ý nghĩa của bài học. Ở Việt Nam, DHDA chính thức du nhập vào năm 2003. Có rất nhiều bài viết tiếp cận DHDA từ góc độ lí luận trên các tạp chí và website; tiêu biểu các tác giả như: PGS.TS Đỗ Hương Trà, PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa và Võ Thị Bảo Ngọc, TS Nguyễn Văn Cường và Th.S Nguyễn Thị Diệu Thảo... Bộ Giáo dục, các Sở Giáo dục và Đào tạo cũng có các chương trình tập huấn, các môđun hướng dẫn các hình thức, phương pháp dạy học, trong đó có DHDA cho các giáo viên phổ thông. 2.1.1.2. Bản chất của hoạt động dạy học dự án Học sinh là trung tâm của DHDA. Phương pháp DHDA không giống như các phương pháp dạy học truyền thống, người dạy là trung tâm. Phương pháp dạy học này chú ý đến nhu cầu, hứng thú của người học, đặt người học làm trung tâm. Người học được trực tiếp tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng hứng thú của cá nhân thông qua sự hỗ trợ của giáo viên, các chuyên gia và quá trình hoạt động nhóm. Phương pháp này yêu cầu người học phải tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Khác với phương pháp học tập truyền thống, người học không chỉ nghe, ghi nhớ, nhắc lại mà người học cần thu thập thông tin từ rất nhiều nguồn khác nhau rồi phân tích, tổng hợp, đánh giá và rút ra tri thức cho mình. Người học không chỉ tiếp thu kiến thức về các sự kiện mà còn phải áp dụng lí thuyết vào thực tế, rèn luyện kĩ năng giải quyết các vấn đề. Trong học theo dự án, các hoạt động học tập được thiết kế mang tính thiết thực liên quan đến nhiều lĩnh vực kiến thức, lấy người học làm trung tâm và gắn liền kiến thức của nhà trường với những vấn đề thực tiễn của thế giới thực tại. Xuất phát từ nội dung học, giáo viên sẽ đưa ra một chủ đề với những gợi ý hấp dẫn, kích thích người học tham gia thực hiện. Dự án là một bài tập tình huống mà người học phải giải quyết bằng các kiến thức theo nội dung bài học. Học theo dự án đặt người học vào tình huống có vấn đề nhưng việc giải quyết vấn đề đòi hỏi sự tự lực cao của người học. Khi người học được lựa chọn nội dung, chủ đề và tự đặt ra vấn đề cần tìm hiểu nghiên cứu, người học sẽ hoàn toàn chủ động tích cực trong việc lập kế hoạch nghiên cứu, tìm kiếm, tổng hợp, xử lí thông tin để giải quyết vấn đề được đặt ra. Những gì xảy ra bên ngoài trường học sẽ đem lại nhiều cơ hội học tập. Điều này có nghĩa là cách tiếp cận theo dự án sẽ đem đến các cơ hội phát triển năng lực và những kiến thức chuyên sâu. Nếu bắt đầu từ thực tế chúng ta có thể đưa cuộc sống hằng ngày vào bên trong môi trường lớp học, có thể tái hiện lại thông qua các 5
- hình thức khác nhau. Cách tiếp cận này sẽ đem lại những điều mới mẻ, một khởi đầu mới và những cơ hội học tập độc đáo. Sau một thời gian làm việc tích cực, học sinh thấy được kết quả công việc của mình. Giáo viên có thể đánh giá được kết quả học tập của học sinh theo mục tiêu bài học. Và sau đó học sinh có được cái nhìn rõ hơn về những gì mình nhận thức được. 2.1.1.3. Vai trò của hoạt động dạy học dự án Dạy học dự án là một phương pháp dạy học tích cực đem lại nhiều ưu thế: Với đặc trưng: Dạy học thông qua hoạt động của chính người học nhằm hình thành và phát triển các kĩ năng tự học, tự nghiên cứu và dạy học dựa trên việc đánh giá, tự đánh giá và cùng đánh giá, phương pháp dạy học dự án ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣ ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣ đã thể hiện được ưu ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣ ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣ điểm nổi bật của mình trong việc hướng tới các mục tiêu của ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣ ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣ ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣ giáo dục hiện đại mà ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣ UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Vai trò của người học và người dạy trong DHDA Khác với các phương pháp dạy học truyền thống, người dạy là người truyền đạt các kiến thức còn người học tiếp nhận và ghi nhớ những kiến thức đó. Trong DHDA người học và người dạy đều có vai trò quan trọng trong việc hoàn thành dự án. Một dự án thành công là một dự án có sự sự phối hợp chặt chẽ giữa thầy và trò. Người thầy tuy không đóng vai trò trung tâm trong suốt quá trình học nhưng là người lên ý tưởng thực hiện dự án, quyết định nội dung, phạm vi và thời gian thực hiện dự án, lập ra kế hoạch chung cho toàn bộ dự án. Đồng thời cũng là người tổ chức, theo dõi và hướng dẫn cho học sinh trong suốt quá trình của dự án, tạo sức hấp dẫn, niềm hứng thú để học sinh thực hiện và hoàn thành tốt sản phẩm dự án. Bên cạnh đó, giáo viên phải hướng dẫn học sinh chọn nhóm, đề xuất tiểu chủ đề, hình thức sản phẩm, cũng như hướng dẫn cho các em xác định mục tiêu, nhiệm vụ và kế hoạch thực hiện cho từng sản phẩm. Và giáo viên phải luôn là người kiểm soát tiến độ dự án, hoạt động của học sinh, kiểm tra và đánh giá học sinh thông qua các hoạt động thực hiện dự án và chất lượng sản phẩm. Trong DHDA, người học đóng vai trò trung tâm, là người chủ động trong hoạt động chiếm lĩnh kiến thức, hình thành các kĩ năng, năng lực cho bản thân chính vì thế mà hoạt động của người học cũng vô cùng đa dạng, phong phú. Hoạt động học tập của người học có thể được chia thành 2 quá trình: quá trình lí thuyết và quá trình thực hành. Để học được các lí thuyết cơ bản của bài học, học sinh vừa phải chú ý nghe những hướng dẫn của giáo viên, vừa phải tìm hiểu thêm qua tài liệu thu thập được do giáo viên cung cấp hoặc qua mạng Internet... Sau khi có được nền tảng kiến thức, học sinh tiếp tục thực hiện quá trình còn lại bằng các hoạt động thực tiễn để tạo ra các sản phẩm phù hợp, có tính thực tiễn cao. 6
- 2.1.1.3. Các bước tiến hành dạy học dự án Việc phân chia các bước thực hiện dạy học dự án tuỳ thuộc vào đề tài, quy mô dự án… Thông thường, dạy học dự án có thể tiến hành các bước cơ bản sau: Bước 1: Chọn chủ đề, mục đích của dự án Giáo viên căn cứ vào chủ đề hoặc bài học để chọn chủ đề dự án. Giáo viên và học sinh có thể cùng thảo luận để chọn chủ đề. Giáo viên cũng có thể đề xuất một số định hướng để học sinh lựa chọn. Cần dựa vào chủ đề để đặt tên dự án phù hợp với mục tiêu dạy học. Cần tạo ra tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó chú ý đến việc liên hệ hoàn cảnh thực tiễn xã hội của đề tài. Bước 2: Xây dựng đề cương và kế hoạch thực hiện dự án Học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên, xây dựng đề cương cũng như kế hoạch thực hiện dự án. Cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm. Bước 3: Thực hiện dự án Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra, hoạt động nhóm và cá nhân. Học sinh thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn, thực hành để hoàn thành dự án như: thu thập, xử lí thông tin, liên hệ, phản hồi khi cần trao đổi, giúp đỡ, xây dựng sản phẩm hoặc lên bản báo cáo … Bước 4: Báo cáo và công bố sản phẩm của người học Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng bài thu hoạch, báo cáo… Giáo viên có thể lựa chọn hình thức báo cáo là trực tiếp trên lớp, các phần mềm công nghệ thông tin hoặc trên trang nhóm để tập thể cùng theo dõi và đánh giá. Bước 5: Đánh giá dự án Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kĩ năng đạt được. Khi đánh giá bài học theo dự án, nên sử dụng nhiều hình thức đánh giá khác nhau, khuyến khích học sinh tham gia quá trình đánh giá, tự đánh giá hoặc đánh giá lẫn nhau. Chú ý sử dụng những công cụ đánh giá cụ thể, rõ ràng, phù hợp. 2.1.2. Dạy học dự án trong môn Ngữ Văn 2.1.2.1. Dạy học dự án trong môn Ngữ Văn đáp ứng yêu cầu đổi mới Hiện nay, chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã được triển khai đồng bộ. Giáo dục phổ thông nước ta đã bước vào quá trình đổi mới, chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “ truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Đồng thời chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, 7
- đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy và học. Trong bối cảnh ấy, đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn là vô cùng cần thiết. Đổi mới dạy học Ngữ Văn nhằm phát huy hiệu quả phương pháp dạy học, đáp ứng mục tiêu hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Các lí thuyết dạy học hiện đại thường được nhắc đến: lí thuyết đa trí tuệ (Howard Gardner), lí thuyết hoạt động (Leonchiev), lí thuyết kiến tạo đa trí tuệ ( đại diện là Piagiê, Vưgôtski),...và quan điểm dạy học “ lấy học sinh làm trung tâm” chính là cơ sở để xác định các nội dung đổi mới phương pháp dạy học. Đối với môn Ngữ Văn, khi vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh như giải quyết vấn đề, dạy học khám phá, dạy học theo dự án, ... là những phương pháp dạy học mang lại hiệu quả cao nhất. Sử dụng DHDA giúp học sinh học tập sáng tạo, có nhiều cơ hội phát huy các năng lực, phẩm chất, đó là cơ sở để đánh giá quá trình học tập của học sinh. Như vậy, dạy học dự án trong môn Ngữ Văn đáp ứng sự đổi mới của chương trình, mục tiêu giáo dục, đổi mới trong kiểm tra, đánh giá. 2.1.2.2. Dạy học dự án trong môn Ngữ Văn góp phần hình thành năng lực đọc mở rộng Dạy học dự án được vận dụng vào thực tiễn dạy học môn Ngữ Văn ở trường THPT sẽ phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập; tạo được hứng thú, phát huy phẩm chất, năng lực toàn diện cho học sinh và góp phần đa dạng hóa các phương pháp dạy học. Dạy học dự án trong môn Ngữ Văn không những kích thích hứng thú, khơi dậy đam mê, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp cho học sinh, giúp các em biết vận dụng kiến thức vào đời sống thực tiễn mà còn góp phần đắc lực trong việc phát huy các năng lực đặc thù (nghe, nói, đọc, viết, cảm thụ thẩm mỹ, tư duy hình tượng...) và các năng lực chung ( giao tiếp và hợp tác, tự chủ và tự học; giải quyết vấn đề và sáng tạo; chuyển đổi số…). Dạy học dự án phù hợp với bộ môn Ngữ Văn với những năng lực đặc thù và những năng lực chung của thời đại công nghệ số. Bởi vì, DHDA giúp học sinh có cơ hội thâm nhập vào những vấn đề phức tạp, mang tính thách thức cao và đôi khi đầy rẫy những vấn đề nhưng rất sát với thực tế đời sống. DHDA đối với các môn học nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng đã trở thành một trong những phương pháp dạy học “Làm cho giáo viên chỉ cần dạy ít mà học sinh học được nhiều và làm cho nhà trường bớt sự nhàm chán và bớt sự nhọc nhằn” (JA. Comenxki). Đặc biệt, dạy học dự án trong môn Ngữ Văn dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ giúp học sinh hình thành năng lực đọc mở rộng các loại văn bản. Trên cơ sở các văn bản đã được học, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động đọc thực hành, đọc sáng tạo tác phẩm ngoài chương trình sách giáo khoa. Thông qua các hoạt 8
- động dạy học dự án, học sinh không những nắm vững đặc trưng từng thể loại văn bản, bổ sung, mở rộng kiến thức về tác giả, tác phẩm mà quan trọng hơn là biết cách đọc và tự đọc hiểu một văn bản ngoài chương trình và vận dụng hiệu quả vào thực tiễn đời sống. 2.1.2.3. Một số hình thức dạy học dự án trong môn Ngữ Văn Ngữ Văn là một môn học đặc thù và phát triển những năng lực đặc thù cho học sinh. Bởi vậy, các hình thức dạy học dự án trong môn Ngữ văn rất phong phú, đa dạng. Tuỳ đề tài, nội dung bài học, thời gian và quy mô dự án, giáo viên có thể sử dụng các hình thức hoạt động dự án khác nhau. Dự án có thể được tổ chức với các hình thức như: sân khấu hóa tác phẩm văn học, bài báo cáo nghiên cứu, diễn đàn thơ văn, triển lãm nghệ thuật về tác phẩm… Tương ứng sẽ là các sản phẩm dự án: Bản báo cáo kết quả nghiên cứu về một tác phẩm, tác giả văn học; bài viết cảm nhận về nhân vật, tác phẩm văn học; sân khấu hóa một tác phẩm văn học; video phỏng vấn về tác giả, tác phẩm; tranh ảnh lấy cảm hứng từ tác giả, tác phẩm; sơ đồ tư duy; bài hát múa lấy cảm hứng từ tác phẩm; bài ngâm thơ, bình thơ; tác phẩm thơ theo một số thể thơ như lục bát, thơ hai cư; tác phẩm truyện ngắn… 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Khảo sát thực trạng dạy học môn Ngữ Văn ở các trường THPT trên địa bàn huyện Con Cuông Hướng dẫn học sinh đọc mở rộng văn bản là một yêu cầu quan trọng trong dạy học chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn 2018 nhằm nâng cao năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học của học sinh. Theo cấu trúc bài học/ chủ đề Ngữ văn 11, phần thực hành đọc mở rộng chiếm dung lượng khá ít (1 chủ đề/ 1 bài thực hành đọc mở rộng). Đây là một thử thách đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp để có thể tổ chức dạy học hiệu quả, giúp học sinh hình thành năng lực đọc mở rộng (đảm bảo tốc độ đọc, khả năng thu nhận và xử lí thông tin trên ngữ liệu mới.) Trong thời gian vừa qua, thực hiện quan điểm dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực, việc dạy học môn Ngữ văn đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế nên chất lượng dạy và học chưa cao. Qua khảo sát học sinh và giáo viên ở các trường THPT trên địa bàn huyện Con Cuông, chúng tôi thu được một số kết quả sau: Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 5 lớp 11 trường THPT Con Cuông về mức độ hứng thú và thành thạo kĩ năng đọc mở rộng của học sinh thông qua phiếu khảo sát. 9
- Bảng khảo sát học tập môn Ngữ Văn của học sinh Lớp 11A1 11C1 11C4 11C5 11D Sĩ số học sinh được khảo sát 41 40 41 40 44 Tỉ lệ học sinh hứng thú học 24,3% 37,5% 24,3% 20% 40,9% tập môn Ngữ văn Tỉ lệ học sinh có kĩ năng đọc 9,8% 15% 4,9% 10% 18,2% mở rộng Chúng tôi đã tiến hành khảo sát giáo viên Ngữ Văn tại 2 đơn vị Trường THPT Con Cuông và Trường THPT Mường Quạ về việc sử dụng phương pháp dạy học dự án để hình thành năng lực đọc mở rộng cho học sinh. Hình thức khảo sát qua biểu mẫu trên Google drive. Bảng thống kê khảo sát sử dụng phương pháp dạy học dự án của giáo viên Ngữ Văn Đơn vị Mức độ áp dụng phương pháp dạy học dự án để hình thành năng lực đọc mở rộng cho học sinh Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa áp dụng THPT Con Cuông (Số lượng: 11 GV) 9,1% 27,3% 63,6% THPT Mường Quạ (Số lượng: 3 GV) 0% 33,3% 66,7% 10
- Hình ảnh biểu đồ biểu thị kết quả khảo sát dạy học dự án của giáo viên trên Google drive Nhìn vào bảng thống kê và hình ảnh biểu đồ ở trên, chúng ta có thể nhận thấy thực tế sự hứng thú và kĩ năng đọc mở rộng ở một số lớp chưa đạt như kì vọng. Số lượng học sinh hứng thú với giờ học môn Ngữ Văn chưa cao. Nguyện vọng của học sinh là giờ học Văn sôi nổi hơn, thay vì giáo viên truyền thụ kiến thức thì để học sinh trình bày và thực hiện các hoạt động học tập, từ đó các em sẽ thấy đỡ nhàm chán và căng thẳng hơn trong giờ học. Số lượng giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp dạy học dự án để hình thành kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh còn ít, thường là khi Tổ xây dựng kế hoạch thì giáo viên mới có kế hoạch làm dự án. Mặc 11
- dù nhận thấy được ưu điểm của phương pháp dạy học dự án trong việc hình thành kĩ năng đọc mở rộng cho học sinh, nhưng hầu hết các giáo viên vẫn lựa chọn những phương pháp dễ thực hiện, không phải đầu tư nhiều về thời gian, công sức. Do đó, chất lượng dạy học chưa cao cũng như chưa tạo được hứng thú với học sinh. Từ thực trạng trên, chúng tôi cho rằng, với giáo viên dạy Ngữ văn, ngoài việc tìm ra phương pháp mới truyền đạt kiến thức cho học sinh còn phải tìm tòi nghiên cứu về nhu cầu thẩm mỹ, tâm sinh lí lứa tuổi và đặc biệt quan tâm việc đánh thức được năng lực của người học. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy và học môn Ngữ văn công phu hơn rất nhiều so với các môn học khác, đặc biệt là làm thế nào để hình thành được kĩ năng đọc mở rộng cho các em luôn là điều mà giáo viên phải trăn trở, nhất là đặt trong bối cảnh thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018. 2.2.2. Nguyên nhân của kết quả, hạn chế về thực trạng dạy học Môn Ngữ Văn ở trường THPT Con cuông * Về phía học sinh: Có không ít học sinh thờ ơ với môn học hoặc có học nhưng học đối phó, thiếu cảm xúc. Bên cạnh đó, còn nhiều học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học, lười suy nghĩ, chỉ biết suy nghĩ bằng những ý vay mượn, những lời có sẵn, lệ thuộc quá nhiều vào sách vở, chưa làm chủ được tri thức. Đối với những lớp có số lượng học sinh hứng thú với giờ học cao là những lớp chuyên xã hội và những lớp giáo viên thường xuyên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực nên tạo được hứng thú cho các em. Hơn nữa là tâm lí tư tưởng học để thi… đã tác động đến tâm lí học tập của các em. * Về phía giáo viên: Một thực tế, giáo viên còn loay hoay trong việc thay đổi phương pháp dạy, chưa hình thành cho học sinh phương pháp tự học. Nhiều giáo viên còn mang nặng tâm lí ngại đầu tư nên ít sử dụng những phương pháp dạy học mới hoặc sử dụng nhưng theo hướng “Bình mới rượu cũ”. Bên cạnh đó, một thực tế tồn tại là nhiều giáo viên khai thác trang thiết bị phục vụ dạy – học chưa hiệu quả. Hệ thống tranh, ảnh, sơ đồ, dụng cụ nghe nhìn để minh họa cho bài giảng, tài liệu tham khảo, các tác phẩm văn học... chưa được khai thác triệt để. Trên đây là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học môn Ngữ Văn tại Trường THPT Con Cuông. Thực tế đó đặt ra yêu cầu và thách thức đối với giáo viên trong việc đổi mới dạy học, đặc biệt là khi thực hiện chương trình GDPT 2018. Vì vậy, chúng tôi đã nghiên cứu và lựa chọn nhiều phương pháp dạy học tích cực, trong đó đặc biệt chú trọng “Hình thành năng lực đọc mở rộng cho học sinh lớp 11 trường THPT Con Cuông qua hình thức dạy học dự án”. 12
- 2.3. Giải pháp vận dụng dạy học dự án hình thành năng lực đọc mở rộng một số thể loại văn bản cho học sinh lớp 11, trường THPT Con Cuông 2.3.1. Hình thành năng lực đọc mở rộng thể loại truyện ngắn qua dự án: Triển lãm nghệ thuật về người nông dân Việt Nam qua một số truyện ngắn hiện đại. 2.3.1.1. Xác định mục tiêu của dự án - Giúp học sinh hình thành năng lực đọc mở rộng thể loại truyện ngắn hiện đại; biết cách đọc và tự đọc hiểu một số văn bản truyện ngắn ngoài chương trình sách giáo khoa. - Góp phần bồi đắp năng lực cảm thụ văn chương, cảm thụ tác phẩm truyện ngắn theo hướng sáng tạo; qua đó, bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh. - Hình thành và phát triển các năng lực cho học sinh: giao tiếp và hợp tác; tự chủ và tự học; giải quyết vấn đề và sáng tạo; chuyển đổi số; năng lực nghe, nói, đọc, viết, cảm thụ thẩm mĩ… - Bồi dưỡng tình yêu đối với các tác giả, tác phẩm văn học và tăng niềm đam mê, hứng thú học tập môn Ngữ văn; góp phần hình thành các phẩm chất chăm chỉ, yêu nước, nhân ái… 2.3.1.2. Cách thức tiến hành dự án - Bước 1: Chọn chủ đề/ đề tài + Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định chủ đề của dự án: Triển lãm nghệ thuật về người nông dân Việt Nam qua một số truyện ngắn hiện đại. - Bước 2: Lập kế hoạch + Giáo viên dựa vào năng khiếu, sở trường của học sinh để chia nhóm. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm với các nhiệm vụ sau: Nhóm 1: Nhà kết nối cộng đồng: Đọc diễn văn khai mạc triển lãm. Kết nối cộng đồng hiểu biết về người nông dân Việt Nam qua các tác phẩm truyện. Nhóm 2: Nhà biên tập: Sưu tầm tư liệu sách báo, tranh ảnh, thuyết trình về người nông dân Việt Nam qua các tác phẩm truyện ngắn hiện đại. Nhóm 3: Nhà thiết kế mĩ thuật: Vẽ một số chi tiết, nhân vật trong các tác phẩm truyện về người nông dân Việt Nam kết hợp thuyết trình sản phẩm. Nhóm 4: Nhà làm phim: Chuyển thể thành phim một số tác phẩm truyện về người nông dân Việt Nam. Thời gian hoàn thành sản phẩm, gửi lên padlet: 1 tuần Giáo viên lưu ý: Các tác phẩm truyện ngắn hiện đại về người nông dân Việt Nam, nằm ngoài sách giáo khoa Ngữ Văn, chương trình GDPT 2018. Giáo viên nêu rõ yêu cầu cần đạt của sản phẩm: Nhóm 1: Nhà kết nối cộng đồng: Đọc diễn văn khai mạc triển lãm. Bài diễn văn có độ dài khoảng 3 đến 5 phút, nêu được mục đích, đối tượng, nội dung, ý nghĩa của triển lãm về người nông dân Việt Nam qua một số truyện ngắn hiện đại. Sản phẩm được thuyết trình, thiết kế dưới dạng Power Point. 13
- Nhóm 2: Nhà biên tập: Sưu tầm tư liệu sách báo, tranh ảnh các tác phẩm truyện ngắn hiện đại về người nông dân Việt Nam. Cần sắp xếp theo một thứ tự hợp lí (theo tiến trình văn học hoặc xu hướng sáng tác…). Sản phẩm được thuyết trình, thiết kế dưới dạng Power Point. Nhóm 3: Nhà thiết kế mĩ thuật: Vẽ một số chi tiết, nhân vật trong các tác phẩm truyện về người nông dân Việt Nam kết hợp thuyết trình sản phẩm. Tranh vẽ có tính nghệ thuật, chuyển tải được giá trị của tác phẩm, thuyết trình về tranh vẽ. Sản phẩm tranh vẽ và lời giới thiệu được thiết kế dưới dạng Power Point. Nhóm 4: Nhà làm phim: Chuyển thể một đoạn trích hoặc cả tác phẩm truyện về người nông dân Việt Nam thành một vở kịch ngắn. Vở kịch có thể có những sáng tạo so với văn bản, tuy nhiên, cần giữ được giá trị cốt lõi của tác phẩm. Video vở kịch có thời gian từ 5 – 8 phút. + Học sinh bầu nhóm trưởng, thư kí, thảo luận, thống nhất kế hoạch thực hiện, chi tiết hóa dự án của nhóm, phân công công việc cụ thể cho từng thành viên. - Bước 3: Thực hiện dự án + Giáo viên cung cấp bộ câu hỏi định hướng (Thông qua nhóm zalo) ++ Bộ câu hỏi định hướng cho nhóm Nhà kết nối cộng đồng: Mục đích của triển lãm là gì? Đối tượng hướng tới? Nội dung trưng bày tại triển lãm? Ý nghĩa của triển lãm? ++ Bộ câu hỏi định hướng cho nhóm Nhà biên tập: Sưu tầm những tranh, ảnh, bài viết về những truyện ngắn nào? Vì sao lại chọn những tác phẩm đó? Sắp xếp theo thứ tự ra sao? Viết lời thuyết trình như thế nào để giới thiệu và kết nối các tác phẩm? ++ Bộ câu hỏi định hướng cho nhóm Nhà thiết kế mĩ thuật: Chọn vẽ chi tiết, sự việc, nhân vật nào trong tác phẩm? Vẽ như thế nào để qua bức tranh thể hiện giá trị tác phẩm? Viết lời thuyết trình như thế nào để giới thiệu được giá trị tác phẩm qua tranh vẽ? ++ Bộ câu hỏi định hướng cho nhóm Nhà làm phim: Chọn chuyển thể một đoạn trích hay toàn bộ tác phẩm thành vở kịch ngắn? Kịch bản cần trung thành với tác phẩm ở những phương diện nào, có những sáng tạo như thế nào so với tác phẩm? Chọn góc quay, lồng nhạc nền như thế nào cho phù hợp? + Giáo viên theo dõi quá trình thực hiện dự án, kiểm tra tiến độ thực hiện của các nhóm, trợ giúp nhóm gặp khó khăn (Thông qua nhóm zalo) + Học sinh tiến hành nghiên cứu tài liệu, thu thập và xử lí thông tin, thảo luận nhóm, trao đổi giải quyết vấn đề, tổng hợp thông tin có sự kết nối giữa lí thuyết và thực hành, thiết kế nội dung báo cáo kết quả dự án. (Thông qua trang web Padlet hoặc trên các kênh thông tin khác của nhóm). 14
- Hình ảnh học sinh các nhóm thảo luận, thu thập, xử lí thông tin, thiết kế nội dung dự án - Bước 4: Trình bày sản phẩm của dự án + Sản phẩm của các nhóm được trình bày trên trang Padlet của lớp và có thể đăng tải lên Youtobe dưới những hình thức khác nhau: video, Power Point… Giáo viên gửi đường link Padlet của lớp qua gmail hoặc nhóm zalo, messenger để các em đăng sản phẩm: https://padlet.com/lengochuyen1985_/d-n-tri-n-l-m-ngh- thu-t-v-ng-i-n-ng-d-n-vi-t-nam-qua-m-t-s-t-2hs90jb6pn3s76zl + Giáo viên tổ chức để các nhóm trình bày sản phẩm dự án tại lớp. Hình ảnh sản phẩm dự án được học sinh đăng tải trên Padlet 15
- Học sinh học sinh trình bày sản phẩm dự án - Bước 5: Đánh giá dự án + GV cung cấp Rubric/ Phiếu đánh giá dự án 16
- PHIẾU ĐÁNH GIÁ SẢN PHẨM DỰ ÁN Tên sản phẩm: ………………………………………………… Nhóm (học sinh) được đánh giá:................................................. Nhóm đánh giá:........................................................................... Mức Ý tưởng Nội dung Cách làm việc Hình thức Cách trình độ nhóm sản phẩm bày sản phẩm, phản biện 4 Hay, độc Đầy đủ nội Làm việc có sự Hình thức Trình bày đáo, sáng dung kiến phân công rõ độc đáo, rất mạch lạc, có tạo cao thức, phù ràng, các thành hấp dẫn. sức thuyết hợp mục viên trong (Video/ phục cao, trả tiêu/ yêu nhóm tham gia tranh: đẹp, rõ lời phản biện cầu cần đạt nhiệt tình nét, sáng tạo) tốt của dự án 3 Hay, độc Đầy đủ nội Làm việc có sự Hình thức Trình bày đáo, có dung kiến phân công rõ thông dụng, mạch lạc, có sáng tạo thức, cơ ràng, đa số các hấp dẫn. sức thuyết bản phù thành viên (Video/tranh: phục, trả lời hợp mục trong nhóm đẹp, rõ nét) phản biện tiêu/ yêu tham gia nhiệt tương đối tốt cầu cần đạt tình, vẫn còn của dự án thành viên chưa tích cực 2 Hay, độc Cơ bản đầy Làm việc có sự Hình thức Trình bày đáo, ít đủ nội phân công rõ thông dụng, tương đối sáng tạo dung kiến ràng, chỉ một ít hấp dẫn. mạch lạc, trả thức, cơ số thành viên (Video/tranh: lời phản biện bản phù tham gia nhiệt rõ nét, chưa chưa tốt hợp mục tình đẹp) tiêu/ yêu cầu cần đạt của dự án 1 Chưa thể Chưa đầy Làm việc có sự Hình thức Trình bày hiện sáng đủ nội dung phân công rõ thông dụng, thiếu mạch tạo, độc kiến thức ràng, chỉ có chưa hấp lạc, trả lời đáo hoặc chưa một số thành dẫn. phản biện phù hợp viên thực hiện (Video/ chưa tốt mục tiêu/ nhiệm vụ tranh: chưa yêu cầu cần rõ nét, chưa đạt dự án đẹp) Điểm Điểm TB: Lưu ý: 4 mức: 4: (9 - 10 điểm); 3: (7 - 8 điểm); 2: (5 - 6 điểm); 1: (< 5 điểm) 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 177 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy học môn Toán lớp 10
44 p | 67 | 19
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả dạy học môn Sinh thông qua tổ chức các hoạt động nhóm tích cực tại trường THPT Lê Lợi
19 p | 54 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp rèn luyện kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc nhằm hình thành khả năng ứng phó với căng thẳng của học sinh trường THPT Kim Sơn C
50 p | 16 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 24 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh lớp 12 trường THPT Yên Định 3 giải nhanh bài toán trắc nghiệm cực trị của hàm số
29 p | 34 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng mô hình học tập Blended Learning trong dạy học chủ đề 9 Tin học 11 tại Trường THPT Lê Lợi nhằm nâng cao hiệu quả học tập
16 p | 22 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 38 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Dạy học theo mô hình STEM bài Sự điện li của nước. pH. Chất chỉ thị axit – bazơ và bài Ankan, Hoá học 11 ở trường THPT
56 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11
28 p | 65 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp tính khoảng cách trong hình học không gian lớp 11
35 p | 19 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giúp học sinh trung bình và yếu ôn tập và làm tốt câu hỏi trắc nghiệm chương 1 giải tích 12
25 p | 25 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành và phát triển tư duy phê phán cho học sinh thông qua thí nghiệm hóa học
49 p | 21 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình học hóa bài toán số phức
39 p | 34 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh cách vẽ hình chiếu trục đo (HCTĐ) của vật thể bằng cách dựng mặt phẳng cơ sở
26 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn